var popunder = true; shopmetho: Thiên Tỏa Full - C11-20

Thứ Năm, 23 tháng 6, 2016

Thiên Tỏa Full - C11-20


Chương 11:
Khi mới bắt đầu đi vào đây, tôi còn cảm thấy rất hào hứng thấy mình giống những chiến sĩ đang đi lại trong chiến hào. Nhưng đi một đoạn dài, tay chân tôi đau nhức vô cùng, toàn thân mỏi nhừ, mệt đến mức chỉ biết thở dốc. May sao không khí trong đường hầm tương đối thoáng đãng nên không hề cảm thấy ngột ngạt, tôi cũng không biết bộ phận thoát khí ở đây được thiết kế như thế nào.

Đường hầm cứ thế thẳng tắp về đằng trước, cũng không đoán được nó dài bao nhiều, Hắc Lão Ngũ sau đó cũng đóng chiếc gương Dạ Minh lại, khiến bốn phía xung quanh tối om như mực. Chúng tôi không ai nói với ai lời nào, chỉ im lặng tiến tới phía trước. Đi được gần hết đoạn đường hầm, tôi mệt đứt hơi, da tay da chân đều bị xây xước, đang định bảo mọi người nghỉ một lúc, thì Hắc Lão Ngũ đang đi phía trước bỗng dừng lại, hoan hỉ quay lại nói với chúng tôi:
- Hai đứa, tới lối dẫn ra ngoài rồi!
Tôi sung sướng phát điên, liền bước nhanh tới phía trước, cảm thấy đầu óc trống rỗng, lập tức đứng thẳng dậy. Sau khi Lão Ngũ mở chiếc gương Dạ Minh ra, tôi thấy mình đang đứng trong một không gian bị bao kín, bốn phía là bốn bức tường được ghép bằng những tảng đá lớn, đối diện với miệng hầm chúng tôi vừa bước ra khỏi là một cánh cửa bằng kim loại rất lớn, bên trên treo một chiếc khóa bằng sắt nặng trịch to chừng hai bàn tay.
Khóa Bá Vương nối sợi tơ tằm bất tử

Đây là loại khóa then mà người Trung Quốc ngày xưa rất hay dùng để khóa cửa nhà, nó xuất hiện từ thời Xuân Thu, gồm thân khóa và thanh then (gần giống khóa hình móng ngựa). Thân khóa thường là hình chữ nhật, thanh then hoặc chốt từ trên xuống hoặc là chốt từ hai bên sang, khi thanh then khớp ren với thân khóa thì coi như chiếc khóa đã bị phong tỏa, nó có kết cấu hơi giống với miệng cống thoát nước nhưng nhỏ hơn rất nhiều. Chiếc khóa trước mặt tuy khá to nhưng thực ra lại rất đỗi bình thường, nó có thanh then to bằng hai ngón tay, gốm hai đoạn nối với nhau và mỗi đầu chốt vào một đầu chiếc khóa.
Lão Ngũ tiến tới trước, với tay lên chiếc khóa kéo thử rồi mỉm cười khoái chí:
- Mẹ kiếp, tưởng thế nào chứ, hóa ra là loại khóa tầm thường này, để ta giải quyết cho! – Nói rồi lão nheo mắt, quan sát chiếc khóa một hồi lâu, bỗng lão chửi ẩm lên. – Quỷ tha ma bắt, không có mắt khóa. Hay đấy, hay đấy!
Tôi vội vàng chạy tới xem, quả nhiên đúng như lời lão nói, cả thân khóa là một màu đen tuyền, bên trên điểm những vết hoen gỉ, nhưng tuyệt nhiên không tìm thấy mắt khóa đâu, tôi đoán đây có thể lại là một loại khóa biến thể.
Lão Ngũ hơi nản lòng.
- Mẹ kiếp, cứ tưởng là ngon ăn, mất mặt quá. Thôi, mi xử lí nó đi!
Tôi mỉm cười, lấy ra một miếng kim loại, từ từ cạo hết lớp rỉ sét trên bề mặt chiếc khóa. Thân khóa đúc bằng loại sắt tổng hợp, trừ phần bên trên cắm hai đầu thanh then, bốn mặt còn lại của thân khóa mỗi mặt đều gắn hai thanh chốt màu đen rất nhỏ, mài phẳng lì như chìm vào mặt khóa, nhìn trông rất khít. Phía dưới đáy khắc những đường lượn sóng, đó là kết quả từ quá trình đúc ổ khóa tạo nên.
Tôi suy nghĩ một chút rồi nhìn lại hai thanh then, bề mặt và chỗ nối của chúng là những đướng xoắn ốc, đếm đi đếm lại chỉ vẻn vẹn có mười đường.
Đến đây, tôi đã hiểu ra vấn đề, quay đầu sang nói với Lão Ngũ.
- Thảo nào không có mắt khóa. Lão Ngũ xem đi, đây chính là khóa Bá Vương, hay còn gọi là khóa Thập diện mai phục.

Lão Ngũ xoắn xoắn mấy sợi râu trong tay rồi nói:
- Nghe cái tên đã đủ thấy cổ quái rồi, nhanh chóng bắt tay vào mở thôi.
Chị Giai Tuệ nói thêm:
- Vừa là Bá Vương, vừa là Thập diện mai phục, xem ra nó nhất định liên quan tới Hạng Vũ[1] rồi.
[1] Hạng Vũ là một chính trị gia và là nhà quân sự kiệt xuất của nước Sở ( một nước nhỏ của Trung Hoa cổ đại). Với tài năng và sự dũng mãnh của mình, ông được coi là vị tướng xuất sắc nhất trong lịch sử Trung Quốc, từ Bá Vương cũng là danh xưng dùng để gọi ông.
Tôi gật đầu, tán thành:
- Chị Giai Tuệ, chị đoán đúng rồi đấy, câu thành ngữ “Thiết tướng quân giữ cửa” mà ngày nay mọi người hay dùng cũng bắt nguồn từ khóa Bá Vương này mà ra đấy.
Trước đây tôi đã từng nghe ông nội kể rằng, khóa Bá Vương ra đời từ những năm đầu tiên thời Đông Hán, nghe nói nó được một vị tướng quân dưới quyền của Sở Bá Vương Hạng Vũ chế tạo ra. Vị tướng quân này vốn là một cao nhân chế tạo khóa, sau đó chiêu binh đi theo Hạng Vũ. Sau khi Hạng Vũ bị đáng bại ở Ô Giang, ông ta đã quyết định về ở ẩn, tách mình với thế giới bên ngoài và quay về với nghề chế tạo khóa. Để tưởng nhớ vị tiên chủ, ông đã dựa vào loại khóa then truyền thống để chế tạo ra loại khóa Bá Vương, được lưu truyền qua hàng nghìn năm.
Loại khóa Bá Vương này gồm có mười thanh then vừa sáng vừa tối, ngụ ý chỉ trận Thập diện mai phục do Hàn Tín bày binh bố trận. Trong đó, mặt dưới khóa không có rãnh cũng không thiết kế then cài, mà chỉ có những đường lượn sóng, để ngầm ví lần thua trận của Hạng Vũ ở Ô Giang, thà tự vẫn còn hơn phải lui về Giang Đông. Do Hạng Vũ là đại tướng quân, nên loại khóa then này còn được gọi là Thiết tướng quân, có thể lấy câu “Một người giữ cửa, vạn người khóa vào”[2] của Lý Bạch để so về mức độ vô cùng khó mở của loại khóa này.
[2] Trích trong bài Thực đạo nan của Lý Bạch.
Nghe tôi giải thích xong, Lão Ngũ gật đầu vẻ rất thán phục.
- Hạng Vũ quả đúng là anh hùng, thà chết vinh còn hơn sống nhục. Vậy mi thấy thế nào, chiếc khóa này có dễ nhằn không?
Mặc dù tôi không hề quay đầu nhìn lại chiếc khóa nhưng trước đây – khi dạy tôi mở khóa, ông nội đã cho tôi thực hành rất nhiều với loại khóa then này, do đó tôi nắm khá vững loại khóa này. Với khả năng hiện tại, tôi nghĩ nó cũng không khó vượt qua lắm. Tôi liền lôi ra một sợi dây da lừa cực mảnh, nhờ Lão Ngũ và chị Giai Tuệ mỗi người cầm một đầu rồi ra sức kéo sang hai bên, lấy miếng kim loại vừa dùng cào mạnh lên sợi dây, phát ra tiếng ken két rất ghê tai. Tôi cứ cào như thế khoảng hơn một trăm lần, sợi dây bắt đầu nóng ran trong tay, tôi gập hai đầu sợi dây lại, cuộn tròn quanh thanh then có rãnh hình xoắn ốc, rồi dùng sợi kim móc, từ từ nhét hai đầu sợi dây kia vào trong thân khóa, lợi dụng sức nóng của sợi dây để ép chặt sợi dây vào đường xoắn ốc. Vẫn làm theo cách như thế, tôi dùng bốn sợi dây da lừa khác ép chặt các đường xoắn ốc trên tám thanh then còn lại. Sau đó buộc năm sợi dây da lừa thành một, cuốn chặt quanh thân khóa.
Sau khi mọi khâu đã chuẩn bị xong, tôi ngồi xuống mặt sàn, dùng đầu kim cào thật nhanh lên đường rãnh nhỏ tại điểm nối giữa hai thanh then màu đen trên thân khóa với hi vọng lực tác động và sức nóng sẽ khiến sợi dây da lừa nới lỏng các đường xoắn ốc, làm thanh then bật tung ra. Sau khi tám thanh then tối bị bật ra, hai thanh then sáng còn lại sẽ dễ dàng hơn rất nhiều.
Thế nhưng cho dù tôi ngồi cào cho tới khi hai chân mỏi nhừ, các ngón tay đau nhức, thì sợi dây da lừa cũng không hề nhúc nhích, tôi đã thử thay đổi mọi hướng nhưng đường xoắn ốc vẫn không hề lỏng ra.
Sự việc khiến tôi càng thêm rối trí, mồ hôi túa ra như tắm, đương lấy tay quệt mồ hôi, bất chợt tôi nghĩ ra, một kế sách, liền vội vàng một tay đưa ổ khóa sát lên tai lắng nghe, một tay tiếp tục cào mạnh lên nó.
Trong lúc khóa phát ra một thứ âm thanh rất lạ, lục bục như tiếng nước chảy. Tôi lập tức đoán ra, trong lõi khóa chứa đầy thủy ngân, những thanh then có đường xoắn ốc chạy thẳng vào trong, nhưng do bên trong rất trơn, nên sợi dây da lừa cũng không thể vặn được chúng.
Tôi ngán ngẩm thở dài, xem ra chiếc khóa này cũng giống chiếc khóa Uyên Ương bọc tâm giao ức, đều được đúc bằng hai loại kim loại khác nhau. Có điều bên trong loại khóa Bá Vương này lại chứa thủy ngân, với khả năng trước đây của tôi thì khóc có thể mở nổi.
Nghe thấy tôi nói bên trong là thủy ngân, Lão Ngũ giật bắn mình, giơ tay kéo tôi ra, vội vàng nói:
- Thủy ngân độc hại lắm, tránh ra không lại bị trúng độc bây giờ.
Chị Giai Tuệ cũng lao tới kéo mạnh tôi ra khỏi ổ khóa, dặn đi dặn lại dung dịch thủy ngân rất dễ bốc hơi trong nhiệt độ thường, nếu hít phải sẽ rất độc cho cơ thể.
Tôi lắc đầu, nói:
- Không sao, thân khóa được bịt rất kỹ, ở tất cả miệng khe hở đều được bịt kín bằng thạch cao để tránh rò thủy ngân ra ngoài.
Nói đến đây, tôi chợt thấy do dự, nhưng trong đầu lập tức nảy ra phương pháo mở chiếc khóa. Vì chiếc khóa này có vỏ đúc bằng sắt, bên trong bịt bằng thạch cao, lõi trong cùng mới là thủy ngân, rõ ràng cấu tạo của chiếc khóa áp dụng nguyên lý Ngũ hành tương sinh. Sắt và thủy ngân đều là kim loại, nhưng đồng thời thủy ngân cũng có dạng lỏng như nước, thạch cao là khoáng sản nên có thể xem là một dạng đất, hàm ẩn quan hệ tương sinh trong ngũ hành là “thổ sinh kim, kim sinh thủy”. Nếu như tôi dùng thuyết tương khắc không chừng lại có thể mở được chúng.
Nghe tôi nói cần dùng đến lửa, chị Giai Tuệ lập tức rút ra một chiếc bật lửa vỏ kim loại màu trắng sáng, trên mặt trước chiếc bật lửa có khắc vài chữ tiếng Anh, khi đó tôi không hiểu nó nghĩa là gì, nhưng sau này mới biết đó là tên nhẫn hiệu bật lửa Zippo. Tôi bật thử vài cái, khi cảm thấy ngọn lửa đã vừa tầm, tôi mới nhờ chị hơ đều lên thân khóa, đúng theo thuyết “hỏa sinh kim”.
Sau đó, tôi lấy trong bọc ra một chiếc kim vót bằng gỗ anh đào. Nó là một loại gỗ rất chắc được lấy từ Nhật Bản, đuôi kim nhô ra một đầu tròn, rất giống chiếc trâm cài đầu của phụ nữ ngày xưa, nghe nói loại kim này bắt đầu được phái Kiện môn sử dụng từ cuối nhà Đường, thời bấy giờ nó được Dương Quý Phi sử dụng làm trâm cài tóc, nên người xưa còn gọi nó là trâm Quý Phi. Tôi dùng nó để gắp thạch cao ra, cũng vừa ứng với thuyết “mộc sinh thổ”.
Tiếp theo là thuyết “thổ sinh thủy”. Quanh chúng tôi đâu đâu cũng chỉ là đá, tìm đâu ra đất bây giờ? Lão Ngũ và chị Giai Tuệ cũng nhìn tới ngó lui từng ngóc ngách hi vọng tìm ra chút đất, nhưng kết quả đến một nhúm cũng không có. Mặc dù hành cung được xây dựng từ rất lâu rồi, thế nhưng bề mặt vẫn láng sạch tinh tươm, thậm chí đến một hạt sạn cũng không có thì lấy đâu ra đất?
Chúng tôi đang suy nghĩ tìm cách giải quyết thì Lão Ngũ bỗng vỗ đánh đét, nụ cười đầy vẻ tinh quái, lão nói:
- Không phải là không có đất, nhưng sẽ hơi bẩn một chút đấy. – Nói rồi lão thò tay vào trong áo, giơ nách gãi gãi vài cái rồi xòe bàn tay ra, trong kẽ tay bám đầy những cục ghét đen sì.
Tôi nhăn mặt, mím chặt môi, không dám chạm vào chúng, vừa nhão vừa nhơn nhớt lại còn bốc mùi thum thủm, chỉ muốn phát mửa.
Lão Ngũ vẫn đứng bên cạnh nói thêm vài câu vẻ rất khoái chí:
- Đây là vảy rồng của Lão Ngũ đấy, bình thường muốn lấy cũng không cho đâu.
Tôi lè lưỡi, phục sát đất lão, không biết lão nghĩ gì mà gọi đấy là “vảy rồng”.
Quan sát thấy đầu ổ khóa đã bị hơ nóng đỏ lên, tôi mới vê “vảy rồng” thành từng cục nhỏ, lần lượt nhét vào những khe hở nơi tám thanh then nối với thân khóa, rồi dùng đầu trâm Quý Phi cào nhẹ lên đó. Kim loại gặp lửa sẽ dãn nở ra, khiến các đường khe cũng nhờ thế mà to hơn, nên việc nhét “vảy rổng” của Lão Ngũ vào cũng dễ dàng hơn.
Tôi thay một chiếc kim loại khác cào lên thân khóa, cảm giác như dung dịch thủy ngân khi gặp “vảy rồng” đã dừng chuyển động. Trong lòng tôi mừng thầm, lập tức tăng lực tác động lên cây kim cào mạnh thân khóa, thúc cho sợi dây da lừa từ từ cuộn vào đường xoắn ốc trên tám thanh then. Khi cảm thấy sợi dây đã cuộn chặt vào thanh then, tôi dùng một chiếc kim khác thắt tám đầu sợi dây da lừa thành một nút thật chặt, rồi không ngừng kéo ra, đồng thời dùng một chiếc kim khác cào mạnh lên thân khóa.
Hai tay tôi liên tục thao tác mở khóa, cứ như vậy khoảng năm mươi phút, thì bỗng nghe thấy tiếng động lách cách từ trong lõi vọng ra, đó chính là tiếng đường xoắn ốc bị nới lỏng. Tôi lập tức thả chiếc kim đang cầm trên tay trái, và miết tay lên thân khóa, tay phải vẫn cầm chiếc kim từ từ cậy thanh then tối, khiến chúng nhô lên khỏi bề mặt khóa. Cứ như vậy cho tới khi thanh then thứ tám cuối cùng cũng nhô lên, một tiếng “keng” vang lên, then sắt rơi xuống mặt sàn, để lộ ra tám lỗ nhỏ vuông vức trên thân khóa.
Tôi lấy kính chuyên dụng ra, nheo mắt nhìn thẳng vào bên trong, quả nhiên bên trong đó là một chiếc hộp sắt nhỏ, trên mặt có hai miệng lỗ hình vuông, bị bịt chặt bởi lớp thạch cao màu trắng, tôi đoán chắc rằng trong chiếc hộp đó chứa đầy dung dịch thủy ngân.
Tôi dùng đầu kim men theo đường khe để cậy lên, dần dần cuối cùng cũng mở được hai bánh răng trên thanh then sáng. Cạch! Cả thân khóa rơi xuống sàn đá, chỉ còn lại thanh then móc lủng lẳng trên cửa. Vậy là, chiếc khóa Thập diện mai phục coi như đã mở xong.
Lão Ngũ đá thân khóa rơi cạnh chân mình sang một bên, nói:
- Nhóc con, khá lắm, đến khóa Bá Vương mà cũng không cản được mi. Hay đây, hay đấy!
Tôi liền tỏ vẻ đắc ý, chọc chọc chiếc kim lên thanh then, định tháo chúng ra rồi mở cánh cửa để vào bên trong.
Thế nhưng, thật kỳ lạ, mặc dù thanh then đã tuột khỏi thân khóa, nhưng rơi xuống chừng một đoạn thì nó dừng lại treo lơ lửng trước cánh cửa, lắc qua lắc lại va cả vào cánh cửa phát ra âm thanh lục cục, rồi lại từ từ được kéo lên, giống như được nối với một sợi dây cao su vô hình vậy.
Cả ba chúng tôi đều hết sức ngạc nhiên, vội vàng ngồi sụp xuống để quan sát. Lão Ngũ vội tóm thanh then lại để nhìn rõ hơn mặc dù biết thừa nó vẫn còn bỏng rát, thì ra thanh then dính chặt vào mặt trong của cánh cửa bằng sợi dây tơ mỏng đến nỗi khó có thể nhận ra, để đánh lừa người mở khóa lúc không để ý.
- Lại trò gì nữa đây? – Lão Ngũ ra sức kéo sợi dây nhưng nó cứ thế giãn dài ra gấp nhiều lần. – Ái chà, hay đấy, hay đấy… - Lão vừa nói vừa bước lùi ra đằng sau, sợi dây cũng bị kéo mỗi lúc một dài hơn, nhưng không hề bị đứt mà chỉ nhẹ nhàng giãn ra bay phất phơ.
Lão Ngũ vừa thả tay ra, thân khóa liền rơi đánh cạch xuống mặt sàn, ngay sau đó thân khóa dựng thẳng dậy dịch chuyển dần về phía cánh cửa, hai sợi dây tơ kia cũng từ từ co lại.
Tôi thấy vô cùng kỳ quái, hùng hổ bước tới cánh cửa ra sức kéo đẩy nhưng cánh cửa sắt vẫn không một chút nhúc nhích, vẫn đứng lừng lững trước mặt tôi. Tôi suy nghĩ một lúc, rồi lôi chiếc kim ra, cào sâu vào đường khe trên cánh cửa, đầu kim đi qua một khoảng không ở giữa, rồi mới bị chặn lại bởi một bề mặt bằng đá tít sâu bên trong.
Lão Ngũ tỏ vẻ thiếu kiên nhẫn, tung người đạp mạnh chân lên cánh cửa.
- Tránh ra, tránh ra để ta thử mở xem sao! – Lão đạp mạnh lên cánh cửa khiến tôi có cảm giác mặt sàn bên phía dưới chân mình bỗng rung lên bần bật, nhưng ngay lập tức dừng lại.
Đang lúc chán nản, thì chị Giai Tuệ đứng đằng sau bỗng hét to.
- Mọi người nhìn lên tường xem!
Tôi lập tức hướng mắt nhìn lên bốn phía.
Không biết tự khi nào, ba bức tường sau lưng chúng tôi đã xuất hiện những đốm nhỏ màu trắng bạc, ban đầu nó chỉ là những điểm thưa thớt, nhưng sau đó xuất hiện dày đặc hơn, giống như một bầu trời đầy sao, chúng càng ngày càng lớn dần lên và khuếch tán một cách nhanh chóng, chỉ trong phút chỗ, cả bức tường đã biến thành một màu trắng bạc sáng loáng. Hình bóng của chúng tôi khi đó bị chia thành hàng trăm, hàng nghìn hình ảnh nhỏ xíu, lại còn không ngừng uốn lượn biến hình, giống như chúng tôi đang đứng trong ngôi nhà gương vậy.
Lão Ngũ tiến sát lại gần bức tường gương, lập tức lão nhảy dựng ra sau, hét toáng:
- Mẹ kiếp! Thủy ngân! Khi nãy ta đá vào khóa nên giờ nó bắt đầu chảy ra rồi.
Nghe đến thủy ngân bị rò, tôi hốt hoảng sợ hãi lùi người ra sau, dựa sát lưng vào cánh cửa sắt, rồi bịt chặt mũi, vì sợ bị nhiễm độc. Tôi hãi hùng nhìn dòng thủy ngân từ phía trong bức tường rò ra ngoài, chảy tràn xuống mặt sàn rồi từ từ tiến về phía chúng tôi, giống như dòng thủy triều đang dâng vội vã.
Lão Ngũ giậm chân giục giã, hối thúc tôi mau mở cánh cửa, dư vị chết chìm trong dung dịch thủy ngân không hề dễ chịu tẹo nào đâu. Tôi cũng cuống cuồng, nhưng tìm khắp mọi góc trên cánh cửa không thể nào tìm ra lỗ khóa. Trong lúc đang hốt hoảng tôi chợt nghĩ ra hai sợi dây kia, liệu có điều kì diệu xảy ra không?
Nghe thấy tôi nói vậy, chị Giai Tuệ lập tức lao tới giẫm chân lên sợi dây, kế đó dùng một con dao nhỏ chuyên dụng lấy hết sức mình cứa mạnh lên sợi dây. Ken két, ken két… Đến mặt sàn đá còn tóe ra tia lửa, vậy mà hai sợi dây tưởng chừng rất mỏng manh kia vẫn không hề sứt mẻ gì.
Lão Ngũ giọng hơi run run.
- Mẹ kiếp, là… là… sợi tơ bà bà. Nhanh cắt chúng đi, hãy dùng chiếc hộp tích lực ấy.
Mặc dù không biết “sợi tơ bà bà” là cái gì, nhưng giờ không phải là lúc hỏi, tôi lập tức lấy chiếc hộp tích lực ban nãy dùng để cắt sợi dây tơ đính viên ngọc bạc trên tường Quy Tàng. Tôi nhanh chóng đặt sợi dây da lừa lên lưỡi răng cưa, cuốn quanh một sợi tơ rồi lấy hết sức xoay nút lên dây cót. Phải ra sức xoay một lúc sau, sợi tơ mới đứt phựt, thế nhưng sợi dây da lừa cũng không còn trụ được lâu.
Tôi quay đầu lại, cả hành cung đá bỗng chốc như biến thành phòng chứa thủy ngân, dung dịch lóng lánh ấy chảy lan khắp mọi nơi, chỉ còn cách chân chúng tôi đứng rộng chừng hai mét vuông là chưa bị tràn tới, nhưng diện tích đó ngày càng bị thu hẹp lại.
Tôi vội vàng thay một sợi dây da lừa khác, để cắt sợi dây tơ còn lại. Khi sợi dây còn lại vừa đứt, tôi liền nghe thấy một âm thanh nhẹ phát ra, chiếc cửa sắt bỗng nhiên bung mở vào bên trong. Do không chú ý, tôi đã bị cánh cửa va vào, loạng choạng suýt ngã xuống dòng dung dịch thủy ngân đang lan tới phía sau.
Thấy người mình sắp ngã ngửa ra phía sau, tôi hốt hoảng thốt ra một tiếng “mẹ kiếp”, trong lúc chới với, hai tay tôi khua khoắng loạn lên. Lão Ngũ cực kỳ nhanh nhẹn, vội giơ tay tóm lấy tôi, rồi đẩy chị Giai Tuệ, quát lớn:
- Chạy, chạy nhanh đi! – Rồi cả ba chúng tôi vội bước qua cánh cửa sắt vừa mở được một nửa, chạy thục mạng vào bên trong.
Phía sau cánh cửa lại là một đường hầm bằng đá rất hẹp, bốn bức tường vuông vức, chạy thẳng tắp và hơi nghiêng về phía trước. Mới chạy được vài bước, tôi đã cảm thấy bước chân nặng nề như đang chạy trên một lớp keo dày, đi chưa được bao xa mà đã thấy quá mất sức.
Tôi quỳ xuống nhìn kỹ lại một lượt, mặt sàn như được phủ một lớp nhựa dẻo trong suốt, phản chiếu ánh sáng lấp lóa. Tôi thử sờ tay lên đó, cảm giác nó mềm và dính giống như kẹo kéo, thậm chí còn có mấy sợi tơ mỏng manh vương trên đầu ngón tay, đích thị đây chính là những sợi tơ bà bà.
Lão Ngũ lẩm bẩm câu gì đó, rồi nhổm người dậy lôi chiếc gương Dạ Minh ra soi lên hai bên tường và phía bên trên đỉnh đầu. Tôi thấy cả bốn phía đều một màu trắng đục, chăng đầy những sợi tơ bà bà, thì ra cả bốn bức tường của đường hầm đều bị lớp lớp sợi tơ bọc kín.
- Bà nó chứ, rơi đúng vào động bàn tơ rồi! – Lão Ngũ vừa lẩm bẩm chửi vừa cúi xuống nhấc đôi giầy lên. Tôi thấy tò mò nên dùng đầu kim gẩy lên vài sợi, thấy chúng mỏng manh chẳng khác những sợi tơ nhện bình thường là mấy.
Tôi đang định quay sang hỏi Lão Ngũ thực hư sự tình thì chị Giai Tuệ bỗng lên tiếng nhắc nhở:
- Lão Ngũ, chúng ta nên đi nhanh lên, một chút nữa là thủy ngân sẽ chảy vào trong này đấy.
Tôi hốt hoảng quay lại phía sau, thấy bậc cửa cũng tương đối cao, nên tôi cũng an tâm phần nào, để thủy ngân chảy được tới đây chắc cũng phải mất nửa ngày.
Không thể nào! Tôi dụi dụi mắt, thật không thể tin được! Cả khung cửa lẫn bậc cửa giờ đã biến sang màu trắng sáng giống như được khảm bạc, chỉ trong nháy mắt, đầu bên kia đường hầm đã biến thành một chiếc ống bạc, cả bốn bức tường cũng nhuộm mình trong màu trắng sáng lấp lánh của thủy ngân và chúng đang lao về phía chúng tôi với tốc độ chóng mặt. Cảnh tượng diễn ra trước mắt tôi giống như tất cả mọi vật xung quanh bỗng dưng bị đóng băng đột ngột.
Lão Ngũ vỗ mạnh lên đùi, hốt hoảng nhảy dựng lên.
- Mẹ kiếp! Chạy! – Lão thúc mạnh chúng tôi tiếp tục lao về phía trước, lực đẩy quá mạnh khiến tôi ngã dúi về phía trước.
Tôi lập tức đoán ra, dòng chảy thủy ngân này không dâng lên, mà nó men theo bốn bức tường để vào đây. Trời ơi! Vậy thì loại thủy ngân này là sinh vật sống có chân hay sao? Tại sao lại không chảy dưới mặt đất?
Thấy tôi vẫn ngơ ngác, chị Giai Tuệ liền kéo tôi chạy về phía trước, gần như lấy hết sức vừa chạy vừa đẩy lưng tôi, thế nhưng Lão Ngũ chạy sau cùng vẫn không ngừng thúc giục.
- Nhanh lên, nhanh lên… sắp chảy tới nơi rồi, sắp tới nơi rồi…
Do mặt sàn dưới chân quá dính, nên khi giẫm chân xuống phải dùng một lực mạnh mới có thể rút được chân lên. Tôi cắm đầu cắm cổ chạy miết, mệt đến đứt hơi, tim như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực, thở hồng hộc bằng mồm, thế nhưng càng cố sức càng chạy chậm đi.
Lão Ngũ có vẻ rối trí thực sự, nên khi chạy vượt qua tôi, lão cầm lấy tay tôi kéo cật lực, lại thêm chị Giai Tuệ đẩy từ phía sau lưng, tôi mới chạy nhanh hơn một chút.
Đường hầm thẳng tắp chạy hun hút về phía trước, không có một lối quặt hay ngã rẽ, và cũng không biết được chúng tôi còn phải chạy như vậy trong bao lâu nữa. Tôi vài lần tò mò quay đầu lại phía sau xem xét, nhưng mỗi lần quay lại đều khiến tôi sợ hãi vô cùng, dòng thủy ngân đó như đang rượt đuổi chúng tôi, chúng lan nhanh chóng trên tường, chỉ cách chúng tôi khoảng hơn chục mét, còn phát ra một thứ âm thanh rất lạ giống như đang có một đàn côn trùng đang tập hợp lại đây. Đoạn đường hầm phía sau gần như đã biến thành một ống bạc lớn đang phát ra những tia sáng long lanh.
Chạy thêm hơn chục phút nữa, tôi thấy mình mệt tới mức không thể nhấc nổi chân lên, đầu óc đau tới mức như muốn nổ tung, toàn thân không còn một chút sinh lực. Lúc này tôi gần như phó mặc cho hai người họ xô đẩy về phía trước. Bỗng nhiên, tôi chợt cảm thấy mặt đất dưới chân mình như cao dần lên. Tôi sung sướng hét to:
- Hay… quá, nâng… lên rồi!
Lão Ngũ nói mà không quay đầu lại:
- Hay cái con khỉ, tới miệng hầm rồi!
Không chờ cho tôi kịp phản ứng, Lão Ngũ bỗng dưng dừng phắt lại, hai chân đạp mạnh xuống mặt sàn vài cái, rồi quay đầu lại nhìn chúng tôi với vẻ mặt dữ tợn:
- Hai đứa, nắm chặt lất tay ta, chúng ta cùng bơi thôi!
Tôi ngồi thụp xuống, há miệng thở dốc, ngẩng đầu nhìn về phía trước, toàn thân phút chốc lạnh toát. Đúng là chúng tôi đã chạy đến miệng hầm, thế nhưng trước mặt chúng tôi lại là một tảng đá lớn màu đen dựng sừng sững, bịt kín lối đi phía trước. Tôi vội vã nhìn lại phía sau, dòng thủy ngân vừa đúng lúc lan tới đoạn dốc vừa xong, cách chúng tôi chừng hai mươi mét thì dừng lại. Điều kỳ lạ là ở chỗ, chúng không hề lan tới nữa, nhưng lại từ từ dầy lên, rồi hòa vào nhau thành một đám, tạo nên những bong bóng rất lớn, khi bị vỡ, chúng phát ra tiếng lục bục.

Chương 12:
Tôi vừa sợ hãi vừa rối trí, lập tức đứng phắt dậy, cầm tay Lão Ngũ lắc mạnh.
- Lão Ngũ, làm thế nào bây giờ? Lão hãy nghĩ cách đi.
Đôi ngươi Lão Ngũ không ngừng đảo ngược xuôi trông rất lung, kế lão chán nản và thất vọng buông một câu:
- Chẳng còn cách nào nữa.
Rồi quay lưng bước tới hòn đá tảng phía trước lần xét thật kỹ. Chị Giai Tuệ cũng bước tới cùng quan sát, hy vọng tìm ra manh mối để mở hòn đá.

Tôi đứng bên cạnh, mắt không rời khỏi dòng thủy ngân đang sôi ùng ục cách đấy không xa, chỉ sợ chúng lan tới.
Bỗng nhiên, Lão Ngũ quát to:
- Nhanh nhanh nhanh, lùi ra đằng sau!
Chị Giai Tuệ kéo tôi lùi ra sau vài bước, đứng chắn trước tôi. Lão Ngũ lại lôi chuỗi vòng Ô Kim ra, hai tay kéo sang hai bên, sau một tràng tiếng lách cách vang lên, chuỗi hạt đã biến thành một đoạn dây xích, sau đó dồn lực lên cánh tay phải cầm sợi xích vừa hét lớn vừa vung mạnh cánh tay. Sợi xích vẽ nên một vệt sáng đen rồi đập mạnh vào tảng đá, tạo ra một vệt nứt dài trên bề mặt. Rồi cứ thế lão lại vung tay lần thứ hai, thức ba…. Tại khe giữa tảng đá dần dần tạo thành một đường rãnh sâu. Lão Ngũ vẫn ra sức quất mạnh sợi xích vào như lão có mối hận thù sâu đậm với nó. Lực mỗi lúc một lớn hơn, những mảnh đã dăm văng ra tứ phía.
Chị Giai Tuệ thấy không an toàn liền quay người sang đưa tay lên bịt mắt tôi, nhưng qua đường kẽ tay của chị tôi vẫn nhìn rõ lần cuối cùng Lão Ngũ vụt chuỗi dây xích vào tảng đá, vết rãnh kia tách đôi ra, để lộ ra một đám lúc nhúc những cục thịt nhỏ màu trắng muốt, còn ứa ra dịch mủ màu xanh lá cây đậm, nhỏ tí tách xuống mặt sàn.
Lão Ngũ lùi bước, tay xoa cằm, bật một nụ cười lạnh lùng.
- Mẹ kiếp, đúng là bọn giòi bọ thối tha. Hay đấy, hay đấy!
Tôi kinh hãi, nắm chặt tay chị Giai Tuệ bước tới gần để quan sát, nhìn thấy cảnh tượng này tôi sợ đến sở da gà. Thì ra phía sau tảng đá kia không phải là những viên thịt mà chính là những con sâu lớn màu trắng, chúng nhung nhúc trườn đè lên nhau, nhiều vô kể, mỗi con to chừng ngón tay cái, dài gần bằng chiếc bút chì. Lớp ngoài cùng có vài chục con bị chuỗi dây xích chém phải nên bị đứt đôi, dòng mủ màu xanh lá cây kia chắc là dịch thể trong người chúng tiết ra.
Nhìn kỹ lại, tôi thấy thân những con sâu kia giống như ống dẫn nước của máy giặt với những đường gân xoắn xung quanh ống, phần thân lại mọc ra rất nhiều những cái chân ngắn không ngừng cựa quậy, giống như chân rết, phần đầu có hai hạt màu đen sáng long lanh, hơi nhô ra ngoài, chắc là hai mắt, cạnh đó là chiếc mồm dẹt xấu xí đang nhả ra sợi tơ phóng thẳng vào trong tường.
Tiếng nhả tơ lạo xạo của chúng khiến tôi nghe đến rợn người, vội quay sang hỏi Lão Ngũ đây là con gì. Lão cười khùng khục và nói đây chính là tầm ngũ sắc, nó được Hoàng Đạo bà bà nuôi nên người ta gọi nó là Trùng bà bà.

Tôi không biết Hoàng Đạo bà bà là ai, liền hỏi chị Giai Tuệ. Chị Giai Tuệ kể rằng bà là người gốc Thượng Hải, làm nghề dệt vải. Tôi lại thắc mắc là tại sao nghề dệt vải lại có liên quan trong chuyện này?
Lão Ngũ nhìn chằm chằm vào đám tằm ngũ sắc mà nói:
- Nói về Hoàng Đạo bà bà này còn lưu truyền lại một câu chuyện nữa đó là, từ khi còn là thiếu nữ bà ta đã tới miền Nam Phúc Kiến để học nghề, rồi mang theo loại tằm của vùng đó về quê hương nuôi, qua nhiều lần lai tạo đã tạo ra một loại tằm khác.
Đừng chỉ có quan tâm tới vẻ ngoài xấu xí, mà hãy quan tâm đến loại tơ đặc biệt do loại tằm này nhả ra, nó thậm chí còn có độ bền chắc không dễ gì cắt được, câu thành ngữ tơ trời không đứt cũng chính từ đây mà ra… - Nói rồi lão liền nở nụ cười khóa chí. – Tơ trời không đứt, loại hoạt bảo được lưu truyền qua nhiều đời nay, vậy là chúng ta đã may mắn được tận mắt chứng kiến, hay đấy, hay đấy!
Lão Ngũ còn nói với chúng tôi, giờ đây người ta hay nhắc đến từ “hoạt bảo”, nhưng thực ra từ này đã được dùng từ thời cổ đại với ý nghĩa là bảo bối sống. Trong truyền thuyết, miền Bắc và miền Nam mỗi nơi đều có một hoạt bảo. Miền Bắc là cây Bất tử, gỗ của loại cây này có khả năng hồi sinh, nên không bao giờ diệt được nó. Miền Nam chính là loại tằm ngũ sắc này, loại tơ chúng nhả ra cũng không thể nào tiêu hủy nổi. Thế nhưng hai loại bảo bối này vốn chỉ được lưu danh trong giới giang hồ vài trăn năm nay mà chưa có ai được tận mắt chứng kiến, hóa ra chúng ở dưới lòng đất của Cố Cung, vậy thì loại cây bất tử kia chắc cũng là có thật, coi như ba ông cháu chúng tôi đã được mở mang đầu óc.
Nghe Lão Ngũ giải thích, trong lòng tôi chợt nhớ ra: Hoạt bảo, chẳng phải hồi nhỏ ông nội hay gọi tôi là “hoạt bảo” hay sao, xem ra nó cũng có một ý nghĩa rất đặc biệt.
Lão Ngũ vỗ tay lên bức tường bên trái, cắn răng nói:
- Mẹ kiếp, đúng là rơi vào động bàn tơ rồi, ta đoán rằng phía sau này cũng có không ít loại tơ như thế. Thằng khốn độc địa nào tạo ra động này không những nuôi bọn sâu bọ thối tha này ở sau bức tường mà còn dùng khóa Bá Vương để khóa lại bên ngoài, rồi hút những dòng thủy ngân chạy tới, quả thật là quá cao tay.
Tôi nghe mà thấy đầu óc mơ hồ như đang nghe truyện thần thoại vậy, tưởng chừng những thứ này chỉ có thể xuất hiện trong Tây du kí mà thôi. Trong đầu tôi bỗng vụt ra một câu hỏi, đã qua bao nhiêu năm rồi, vậy thì những con tằm này chúng ăn gì để sống?
Nghe câu hỏi của tôi, Lão Ngũ vừa lạnh lùng vừa đáp:
- Chúng ăn thịt! – Nói rồi lão kéo tôi bước gần tới nhìn cho rõ.
Tôi hoảng hốt phát hiện ra, những con tằm bị thương đang bị những con còn lại bâu tới ăn thịt, chúng đau đớn kêu lên, cả thân quằn quại lăn trườn cố thoát ra, nhưng chỉ một lúc sau chúng đã bị ăn sạch tới nỗi cả những sợi tơ chúng nhả ra cũng bị nuốt trọn, nhìn thấy cảnh tượng trên, tôi dựng cả tóc gáy.
Chị Giai Tuệ kéo tôi tới gần, rồi hỏi Lão Ngũ làm thế nào để thoát ra, liệu có phải khoét lỗ trên tường không?
Lão Ngũ suy nghĩ một lúc, rồi bảo chị Giai Tuệ lôi chiếc bật lửa ra, đốt nóng góc tường bên phía tay trái. Những đám tơ ngũ sắc càng bị hơ nóng thì càng trắng bệch ra, dần biến thành trong suốt và phát sáng, nhưng không thấy dấu hiệu bị đứt đoạn. Khi ngọn lửa lan đến đám tằm ngũ sắc, lập tức phát ra âm thanh xì xèo như đang xào nấu, một lúc sau tỏa ra mùi thịt nướng khét lẹt. Những con tằm phía ngoài vội vàng bò vào trong, những con không kịp chạy đã bị lửa đốt cháy biến thành màu vàng nhạt, rồi co thành một dúm rơi xuống mặt sàn, nhưng những sợi tơ trong bụng chúng vẫn dính chặt trên tường.
Lão Ngũ bật cười khoái chí, nói:
- Ha ha, mẹ kiếp! Hoạt bảo thì cũng là sinh vật sống. Chúng sợ lửa, vậy thì cũng dễ giải quyết thôi. – Nói rồi lão bảo tôi và chị Giai Tuệ đứng lùi ra xa, vung mạnh chuỗi Ô Kim quật vào bức tường, tạo thành một khe nhỏ, giờ mới nhìn được hết phía sau, những con tằm ngũ sắc chi chít dày đặc, cũng không đếm xuể là bao nhiêu con, chỉ thấy đầu đuôi chúng chen chúc lên nhau, nhung nhúc cử động, nhìn đã thấy buồn nôn.
Lão Ngũ bảo chị Giai Tuệ lôi ra vài viên đạn, rồi dùng mũi dao tách vỏ đạn ra, lấy thuốc nổ bên trong rắc lên trên chốc đám tằm ngũ sắc, dùng một nhúm vải cuộn chặt, châm lửa ném vào trong.
Một tiếng nổ vang lên, đám tằm ngũ sắc lập tức bị thiêu rụi bởi một ngọn lửa màu xanh lam, chúng kêu lên rin rít, rồi tự co rúm lại thành một nhúm rơi xuống mặt đất. Những con thoát được thì bò sát vào phía trong bám chặt lên tường, khi ngọn lửa lụi tắt, tôi thấy miệng khe đang dần dần mở rộng ra. Mùi thịt nướng tỏa ra thơm nức, khiến tôi phải bịt chặt mũi, vì cảm thấy mình đã bắt đầu đói.
Nhìn một lúc, Lão Ngũ vỗ lên hai vai đứa chúng tôi, cười vang và nói:
- Thế nào, hai nhóc, nếu không sợ bẩn thì đi vào trong đó với ta. – Nói rồi, lão tiến thẳng vào bên trong.
Tôi nhìn chị Giai Tuệ với ánh mắt sợ hãi, trong lòng không khỏi lo lắng vào trong đó nhỡ bị lũ tằm ngũ sắc đó ăn thịt thì làm sao? Chị Giai Tuệ vẫn giữ vẻ điềm nhiên, an ủi tôi vài câu rồi kéo tay tôi từ từ bước vào trong.
Phía sau bức tường đá là khoảng không gian trống trải, nóng hừng hực giống như đang đứng trong lò nướng vậy, khói trắng bay cuồn cuộn khắp nơi, dày đặc tới mức không thể nào mở mắt ra. Tằm ngũ sắc bị cháy sẽ tiết ra chất dầu, khiến cho ngọn lửa càng cháy mạnh, không thể nào dập được, những con tằm tránh lửa càng lùi về phía sau, hang càng đi càng thấy sâu, chúng tôi tiến thẳng về phía trước chừng hơn hai mươi mét, mà vẫn chưa tới được miệng hang.
Những xác tằm cháy lép bép dưới chân khiến tôi vừa sợ hãi vừa cố liều mình bước tới trước, Hoàng Đạo bà bà kia vốn là người miền Nam, còn Thẩm Dương lại ở miền Bắc, vậy hàng ngàn con tằm ngũ sắc này từ đâu ra? Đang miên man suy nghĩ thì chợt nghe Lão Ngũ hét dừng lại, tôi vội quay sang nhìn theo hướng tay lão chỉ.
Trước mắt chúng tôi, ngọn lửa vẫn đang bùng bùng cháy, nhưng không biết vì sao, những con tằm ngũ sắc kia biết là sẽ bị thiêu cháy mà vẫn không hề nhúc nhích, thậm chí còn bám chặt vào ngọn lửa. Trên tường hang chi chít những lỗ nhỏ bằng đầu ngón tay, một đám tằm ngũ sắc còn nhiều hơn lúc nãy bò ra, theo hàng tiến thẳng tới ngọn lửa như con thiêu thân, dường như chúng đang muốn lấy thân mình lấn át ngọn lửa kia.
Lão Ngũ chửi thề vài câu rồi lập tức lôi mấy viên đạn khác ra, tách lấy thuốc nổ bọc vào mảnh vải rồi ném về phía ngọn lửa, khiến ngọn lửa càng bùng lên dữ dội hơn. Lũ tằm ngũ sắc bị thiêu cháy quằn quại không ngừng nổ lách tách, nghe mà thấy inh tai.
Chúng tôi từ từ ngồi xuống, vừa quan sát vừa thắc mắc không hiểu bọn tằm ngũ sắc kia cuối cùng là bị điên hay do chúng quá ngốc nghếch. Không biết lửa đã cháy trong bao lâu, chỉ thấy rằng xác lũ tằm phủ lên mặt đất một lớp dầy đen sì, những con tằm bò ra ít dần đi. Đang lúc mơ hồ, tôi bỗng nhìn thấy hình như sau đống lửa đang cháy kia có một cái gì đó màu đen.
Lão Ngũ nhảy chồm lên, chửi thề một câu:
- Mẹ kiếp, gặp phải con yêu tinh chúa rồi!
Lúc đó, ngọn lửa đang yếu dần đi, chị Giai Tuệ cầm chiếc đèn soi vào đám lửa, tôi sợ hãi đứng núp vào phía sau Lão Ngũ, thò đầu nhìn qua vai lão. Con vật phía sau ngọn lửa kia màu nâu đậm, có hai đầu nhọn, phần giữa thô và to, hình như nó chính là con tằm chúa, toàn thân nó kéo ra vô số những sợi tơ mảnh và din dít với nhau, đầu còn lại của tằm chúa cắm vào thân tường. Con tằm chúa có vẻ cũng không chịu được nóng nên toàn thân cũng đang run lên. Trên đầu nó chỉ có một con mắt tròn xoe to chừng hai đầu ngón tay, thỉnh thoảng lại nhả ra một sợi tơ, sợi tơ được nhả cũng nhanh chóng bị cháy rụi bởi ngọn lửa trong chốc lát.
Lão Ngũ cười sang sảng, nói với chúng tôi đây chính là nhộng chúa. Con tằm ngũ sắc sau khi nhả hết tơ sẽ chỉ biến thành nhộng chúa mà không biến thành ngài, cả ngày không làm gì khác ngoài nhiệm vụ chính là sinh sản. Có thể là do nóng quá không chịu nổi, nên lũ tằm con mới lao vào đống lửa hi sinh thân mình để cứu lấy nhộng chúa! Lão còn nói thêm, lao vào đám lửa để dập lửa chính là bản năng của loài ngài, bướm đêm, bản năng này được hình thành từ khi chúng còn nằm trong bụng mẹ.
Tôi ngẩn ngơ đứng nhìn lũ tằm con cứ thế lao vào đám lửa mà thấy thương xót cho chúng, lúc trước, khi nhìn chúng ăn thịt đồng loại tôi thấy sao mà quá sức tàn nhẫn, còn giờ đây khi chứng kiến cảnh chúng lao vào lửa hi sinh quên mình để bảo vệ nhộng chúa, mới thấy rằng thì ra loài động vật cũng có tình cảm. Tôi chợt nghĩ tới ông nội, nhớ hồi còn nhỏ ông nội đi đâu cũng ôm theo tôi, vì chỉ sợ tôi sơ sẩy ngã vào đâu đấy, sau này khi tôi đã lớn, mỗi lần trước lúc đi ra khỏi nhà ông đều dặn dò cẩn thận. Nghĩ đến đó, tôi không cầm được nước mắt, quay sang phía chị Giai Tuệ, tôi cũng thấy chị nhíu đầu mày lại như đang có tâm trạng, và không nỡ lòng nhìn sự việc đang diễn ra.
Khi nghe Lão Ngũ nói:
- Đợi đến khi lửa tắt, ta sẽ dùng chuỗi xích này giết chết con nhộng chúa kia, mở đường cho hai đứa mi đi.
Trong lòng tôi bỗng thấy áy náy vô cùng, kéo nhẹ tay áo lão, nói nhỏ:
- Lão Ngũ, chúng ta không giết nó có được không, thôi, lão tha cho nó đi.
Lão Ngũ trợn trừng mắt, đang định nói, thì nhìn thấy hai mắt tôi đỏ hoe giàn giụa nước mắt nên lão suy nghĩ một lúc rồi nói:
- Thôi được, để xem tình hình thế nào đã.
Chỉ một lúc sau, ngọn lửa bị lũ tằm con kia dụi tắt dần đi, chỉ còn sót lại vài chục con, nhưng cũng bị thương nghiêm tọng, nằm cạnh đống lửa quằn quại trong vô vọng. Mùi thịt cháy khét nồng lên khiến tôi thấy buồn nôn.
Thấy tôi mềm lòng, Lão Ngũ cũng không nhắc đến chuyện giết con nhộng chúa, mà chỉ kéo chúng tôi đi vòng qua nó. Những sợi tơ nhả ra từ con nhộng chúa đan thành một chiếc lưới lớn, ba chúng tôi phải khoét một lỗ ở giữa để chui qua. Con nhộng chúa vẫn đứng yên không nhúc nhích, dường như cũng muốn cảm ơn chúng tôi vì đã tha mạng.
Đi chừng hai mươi mét, chúng tôi lại gặp một bức tường đá màu đen chặn lại, Lão Ngũ tiến đến gần nhìn qua, rồi dùng chuỗi xích đập lên mặt tường vài cái thì thấy có tiếng cộp cộp, có vẻ như bức tường này không dày lắm. Lão nói thêm đây chỉ cánh cửa đá nhô từ dưới lên, chỉ cần tìm ra nơi ổ khóa được cất giấu, là có thể đi qua.
Không lâu sau, tôi phát hiện ra hai lỗ mắt cách nhau chừng vài centimet nằm ở phía dưới chân cánh cửa đá, dùng chiếc kim dài chọc vào bên trong để thăm dò, tôi thấy rằng kết cấu của chúng khá đơn giản, nó gồm hai chiếc bản lề có trục giữa, chúng giao với nhau để đóng chặt cánh cửa lại. Tôi nhanh chóng mở chiếc bản lề, nhưng cánh cửa vẫn nằm im lìm không nhúc nhích, đúng lúc đó con nhộng chúa phía sau chúng tôi bỗng nhiên chuyển động, phát ra tiếng kêu ù ù rất lạ, giống như lũ tằm kia đang cắn kén chui ra.
Lão Ngũ giật nảy người lùi về phía sau vài bước, ngón tay vừa nắm những sợi tơ lập tứ hét lớn:
- Mẹ kiếp, đây chính là cỗ máy liên hợp!
Lão nói thật nhanh về cỗ máy liên hợp vừa nhắc đến, từ căn phòng chứa dung dịch thủy ngân cho đến cánh cửa đá trước mặt đều được nối bằng vô vàn sợi tơ tạo thành một cỗ máy hoàn thiện, còn gọi là cỗ máy liên hợp. Mà mắt xích của chúng lại chính là con nhộng chúa kia, xem ra không giết nó không xong.
Lão Ngũ dùng mũi dao rạch lên thân con nhộng chúa tạo thành một đường dài, rồi cầm hai mảnh da lớn của con nhộng chúa phanh ra. Tôi ngó vào phía trong bụng nhộng chúa thì thấy có một con tằm lớn trắng nõn to chừng cánh tay đang cuộn tròn, bề ngoài giống như củ sen, thế nhưng điều đáng sợ là ở chỗ, trên thân nó móc đầy những vòng tròn bằng sắt màu bạc to bằng chiếc nhẫn, chúng móc lại với nhau, và chỉ nhô ra ngoài một nửa. Những sợi tơ được giăng ra từ bên trong chiếc vòng sắt, đâm xuyên qua thân nhộng chúa và bức tường đá.
Chứng kiến cảnh tượng trên khiến tôi vô cùng choáng váng, đây chẳng phải chính là chiếc khóa tơ vòng, là một loại khóa kết hợp giữa tơ và khóa vòng hay sao? Thế nhưng thật không ngờ tới, nó lại được giấu trong bụng của con nhộng chúa này. Vậy là bao nhiêu năm nay, con tằm này bị xích lại bằng những vòng sắt, phải nằm đây chịu tội, thật quá dã man, không biết kẻ thất đức nào đã gây ra tội ác này. Trong đầu đang chồng chất những suy nghĩ, thì tôi thấy con tằm trong bụng nhộng chúa ngẩng đầu lên hướng về phía tôi, đầu không ngừng lắc qua lắc lại, đôi mắt to bằng hạt lạc long lanh nhìn thẳng vào mắt tôi như van xin tôi hãy giải thoát cho nó khỏi nỗi đau về thể xác.
Lão Ngũ vỗ vai giục tôi nhanh chóng giải quyết. Tôi cau mày, dồn hết sức tập trung của mình vào lưng con tằm, đưa tay lôi một vòng xích lên, con tằm dường như sợ đau nên cũng rung mình. Tôi nhẹ nhàng vuốt ve để trấn an nó. Quan sát một lúc tôi phát hiện chiếc khoa tơ vòng này vô cùng phức tạp, vô số những sợi tơ xuyên qua những chiếc vòng nối chúng lại, rồi móc chặt lên lưng con tằm, nếu để tháo từng cái một thì không biết sẽ phải mất bao lâu, chỉ còn cách giết con tằm đi, nhưng tôi nỡ lòng nào giết nó đây?
Đang lúc còn do dự, chị Giai Tuệ bỗng hét lên bên tai tôi:
- Thủy ngân! – Tôi vội vàng ngẩng đầu nhìn lên. Trời ơi! Không biết từ bao giờ dung dịch thuỷ ngân đã lọt qua khe đá chảy vào trong này, chỉ còn cách chúng tôi khoảng tám chín mét, mặt đất giờ đã phủ đầy dung dịch màu xám.
Tôi sợ hãi tới mức tay run lên cầm cập, vô ý giật mạnh chiếc vòng sắt khiến con tằm quằn quại đau đớn, dòng thủy ngân phút chốc đã tiến vào thêm vài mét. Con tằm dường như cảm nhận được mối nguy hiểm nên lập tức nằm yên, dòng thủy ngân cũng theo đó dừng lại.
Tôi nuốt nước bọt, trong lòng rối như tơ vò, phải làm sao bây giờ? Nói thật tôi không muốn giết con tằm kia chút nào, thế nhưng không giết nó thì chúng tôi sẽ mãi bị nhốt ở đây không ra được.
Thấy tay tôi lóng ngóng, Lão Ngũ rút chuỗi xích Ô Kim ra, vừa vung lên vừa nói:
- Nhóc con, tránh ra. Không giết nó thì ra không thoát ra được đâu.
Chị Giai Tuệ cũng nắm chặt hai vai tôi, an ủi:
- Lan Lan, để Lão Ngũ xử lí đi, con tằm đó cũng đã phải chịu đau đớn hàng trăm năm như thế là đủ rồi, giờ ta phải giải thoát cho nó thôi.
Trong lòng tôi vô cùng đau xót, nước mắt chỉ chực trào ra, tôi đưa tay nhẹ nhàng vuốt ve đầu con tằm rồi nói nhỏ với nó:
- Tằm ơi, xin lỗi! – Nói rồi tôi mím chặt môi, từ từ quay đầu bước ra sau.
Lão Ngũ lập tức vung chuỗi xích Ô Kim, trong nháy mắt đập mạnh lên đầu con tằm. Phựt một tiếng, rồi từ vết thương trên thân con tằm tiết ra dung dịch màu xanh lá cây, sợi xích hoàn toàn chìm sâu vào bên trong.
Tiếng kêu của con tằm thét lên chói tai, toàn thân nó giãy giụa điên cuồng, có vẻ như chưa thể chết được. Ngay lập tức, dung dịch thủy ngân trên bốn bức tường tràn vào, có vẻ như sắp nhấn chìm chúng tôi chỉ trong giây lát.
Lão Ngũ cũng không kịp vụt thêm một lần nữa, vội ném chuỗi xích đi, hét lên:
- Chạy! – Rồi kéo mạnh hai đứa chúng tôi bỏ chạy, thế nhưng chúng tôi đang mắc kẹt bên trong lớp lưới tơ dày đặc, thì chạy được đi đâu chứ?
Đúng lúc đó, con tằm bỗng nhiên ngoi nửa thân người lên, phần đầu vị vụt nát bét vẫn cố vươn về phía chúng tôi. Nhìn thấy chiếc đầu nhầy nhụa dịch xanh lè đang tiến sát đến, tôi giật nảy mình, bất giác đưa tay lên che, sẵn trong tay có chiếc kim dài, đầu mũi kim quay ra ngoài, trong lúc hoảng loạn, tôi nhìn thấy hai con mắt của nó ánh lên tia sáng vàng.
A!... Chiếc kim đã đâm sâu vào trán con tằm, thứ dịch nhơn nhớt xanh xanh bắn đầy lên mặt và lên tay tôi, vị đắng chát, con tằm quay phắt đầu lại, run lẩy bẩy rồi trườn về phía con nhộng chúa.
Mọi việc chỉ diễn ra trong nháy mắt, đầu óc tôi hoàn toàn trống rỗng, không kịp nghĩ đến điều gì, chỉ có cảm giác mọi thứ coi như đã chấm dứt, chỉ còn biết nhắm chặt mắt đợi cho dòng thủy ngân kia tràn đến nhấn chìm mình. Thế nhưng, chỉ một lúc sau, cảm thấy phía dưới chân tôi không có điều gì khác đặc biệt xảy ra, tôi vội mở mắt ra, dung dịch thủy ngân đã đông đặc lại ngay bên dưới chân tôi và càng ngày càng mỏng dần, cứ như dưới mặt đất có một lớp bông khổng lồ đã hút hết đống thủy ngân này đi, tôi vội vàng ngó xung quanh, hai bên tường cũng xảy ra tương tự. Chỉ một lúc sau dòng thủy ngân đã biến mất không để lại chút dấu vết gì. Quay sang nhìn những sợi tơ trong suốt kia thì thấy chúng cũng nhanh chóng biến thành màu đen và mềm oặt rơi xuống mặt đất.
Lão Ngũ vội chạy ra đưa tay khua khoắng sờ soạng lên mọi chỗ trên bề mặt bức tường, hai chân giẫm mạnh xuống đất, nói với vẻ hồ nghi:
- Mẹ kiếp! Vẫn chưa chết. Hay đấy, hay đây!
Tự tôi cũng thấy rất kỳ lạ, rồi nghĩ đến tia sáng vàng vừa nhìn thấy lúc này, vội vàng ngó vào trong bụng nhộng chúa. Con tằm đang nằm cuộn tròn bất động, chết cừng, giữa trán bị xỏ một vòng tròn màu vàng. Tôi đưa tay thận trọng rút chiếc vòng ra, lấy tay áo lau chất dịch bám trên bề mặt, lập tức sửng sốt đến ngây người. Đây thực chất chính là chiếc nhẫn vàng, một mặt rộng một mặt hẹp, bề ngoài nhẵn thín nhưng mặt trong lại khắc chìm vài biểu tượng rất kỳ lạ, không biết nó có nghĩa là gì.
Lão Ngũ giật lấy, rồi lôi thêm mấy chiếc vòng khác trên thân con tằm, chúng thực ra là những chiếc nhẫn bạc rất đỗi bình thường. Lão nghiên cứu một hồi lâu, mới đưa ra kết luận rằng, đây thực ra chỉ là những chiếc nhẫn bình thường, chắc là do người tạo ra cỗ máy này nhét vào đây.
Tôi ngẩn ngơ nhìn xác con tằm đã chết, thấy thật tội nghiệp, nó khiến tôi nhớ ra vài điều. Ông nội đã có lần kể rằng, kết cấu của khóa tơ vòng có rất nhiều dạng, không chỉ có khóa Thiên Cương nối tơ mới có kết cấu kiểu này, mà cả khóa vòng luồn tơ hay khóa xích đều có kết cấu dạng mạng, trong số đó nhất định phải có một mắt xích chính đảm đương vai trò khống chế và điều khiển, còn gọi là điểm then chốt, bình thường người ta hay nói “điểm then chốt” của vấn đề, chính là từ đây mà ra. Phải chăng trước khi chết, con tằm kia đã gắng hết sức ra ám hiệu cho tôi nhìn thấy chiếc nhẫn vàng trên trán, vừa đúng lúc tôi cầm chiếc kim trên tay chọc thủng, nên đã may mắn vượt qua ải này. Nghĩ đến đây tôi lại xúc động rơi nước mắt, cảm thấy con tằm kia quá đỗi cao thượng, nó thà hi sinh thân mình còn hơn giết hại chúng tôi.
Nghe tôi kể lại sự tình, Lão Ngũ và chị Giai Tuệ cũng cảm kích vô cùng, Lão Ngũ còn thở dài nói:
- Con vật cũng có linh hồn, có thể nó đã nhìn thấy mi là người lương thiện, nên trước khi chết còn cố ra hiệu. Chiếc nhẫn này cũng thật cổ quái coi như là một món quá, hãy giữ lấy làm kỉ niệm.
Tôi từ từ nhận lấy chiếc nhẫn đeo vào ngón trỏ, thế nhưng trong lòng lại vô cùng buồn bã, cảm giác như mình vừa gây ra tội lớn. Tôi thành khẩn quỳ xuống, nhẹ nhàng nói:
- Tằm bà bà, cảm ơn người, cháu nhất định sẽ giữ cẩn thận món quà của người.
Lão Ngũ nhìn vào bên trong con nhộng chúa, vừa thò tay vào lôi ra mấy hạt màu đen, vừa giải thích với chúng tôi cái này gọi là phân tằm, thông thường người ta còn có thể dùng chúng làm thuốc, phân của loại tằm ngũ sắc này thì càng quý hơn, nghe nói còn có thể phòng độc.
Chương 13:
Hắc cẩu linh môn và hắc xà linh môn
Tôi đưa tay nhận lấy, nhìn qua thì thấy chúng nhỏ bằng hạt gạo, hình trụ dài, rất cứng, không hôi chút nào thậm chí còn có mùi hương thanh nhã. Lão Ngũ là người cực kì tham lam, lão nhét đầy chúng vào balô của tôi và chị Giai Tuệ, làm xong lão quay ra cười khì rồi nói, đợi sau khi ra khỏi đây sẽ nhồi thành gối, mùa hè nằm ngủ thì muỗi cũng không dám bén mảng tới.
Chúng tôi lại tiến tới tảng đá phía sau lưng xem xét, lần này chỉ cần vỗ nhẹ lên đó vài cái là cánh cửa đá tự động nâng lên. Nhờ ánh sáng của chiếc gương Dạ Minh, tôi nhìn thấy phía sau đó lại có một đường hầm khác, thế nhưng phía bên trên đỉnh đầu là một hình vòm cung, phía dưới chân là những bậc thang bằng đá xám dốc xuống dưới khoảng bốn mươi lăm độ. Ánh sáng của chiếc gương Dạ Minh có hạn, nên chúng tôi không nhìn rõ phía dưới kia là gì. Thế nhưng, thật sự không biết sẽ phải làm thế nào, vì một luồng khí trong trẻo và mát lành thổi ngược từ phía dưới lên, xem ra phía dưới kia là một loại máy lọc khí vô cùng kỳ diệu.
Chúng tôi cùng nhau bước tiếp, những bậc cầu thang cứ thế dẫn lối thẳng tắp xuống dưới, đi chừng hơn năm trăm bậc mà vẫn chưa tới điểm cuối. Từ lúc giết con nhộng chúa, tâm trạng tôi không được tốt, cảm thấy trong lòng day dứt có lỗi, nên cũng không muốn nói chuyện với ai cả. Nhưng có Lão Ngũ và chị Giai Tuệ luôn bên cạnh an ủi, nên cũng làm cho tôi nguôi ngoai phần nào. Lão Ngũ lại nhắc đến Hoàng Đạo bà bà, rõ ràng đây là một nhân vật sống ở cuối đời nhà Nguyên đầu nhà Minh, vậy tại sao phải đợi đến tận đầu đời nhà Thanh mới được tôn làm Bà chúa Dệt vải, chắc cũng phải có nguyên do của nó, nếu không thì hoàng đế Nỗ Nhĩ Cáp Xích[1] làm sao lại sử dụng loại tơ tằm đó khi xây sửa lại Cố Cung chứ? Lão Ngũ vừa đi vừa kể cho chúng tôi những câu chuyện ly kỳ về Bà chúa Dệt vải. Tôi nghe một cách rất nhập tâm, trong lòng thực sự nể phục người đàn bà vô cùng tài giỏi đó. Thấy chị Giai Tuệ có vẻ cũng rất hứng thú hỏi lão về Hoàng Đạo bà bà, tôi nhận thấy một nữ cảnh sát vừa xinh đẹp vừa anh dũng vừa quả cảm như chị cũng có thể được coi là mẫu người con gái tài giỏi, xuất chúng.
[1] Nỗ Nhĩ Cáp Xích là hoàng đế Hậu Kim, người đã cho xây dựng Cố Cung Thẩm Dương năm 1625.

Chúng tôi vừa đi vừa trò chuyện như thế chừng nửa tiếng đồng hồ, thì phía trước bỗng hiện ra một khoảng không rộng rãi và thoáng đãng, bề mặt được lát bằng những phiến đá xanh khổng lồ, cả mặt sàn có diện tích ước chừng gần bằng một sân bóng rổ với bốn cạnh vuông vức, đều chằn chặn.
Tôi đưa chiến đèn pin lên cố soi về phía đằng xa, đầu bên kia bị chặn bởi một tảng đá lớn, nó đủ dài để tạo thành một bức tường đá chặn ngang lối đi của chúng tôi. Tại phía góc tường, hình như có hai vật gì đó màu đen đang ngồi bất động, mà tôi tạm thời chưa nhận ra là để làm gì.
Lão Ngũ lắc lắc đầu và nói:
- Phải tới gần đó xem thì mới biết được thế nào, hai đứa đứng ở đây đợi, ta qua đó xem sao.
Nói rồi, lão đưa chiếc gương Dạ Minh cho chị Giai Tuệ cầm, chỉ nói với vài cú phi người, lão đa tiến tới gần bức tường đó.
Thế nhưng, chưa đợi lão kịp đứng vững thì hai vật ở góc tường bỗng dưng chồm dậy, từ hai bên chúng lao thẳng về phía Lão Ngũ với tốc độ cực nhanh, giống như hai con hổ dữ đang chuẩn bị vồ mồi. Tôi và chị Giai Tuệ đều giật mình hoảng hốt, hét ầm lên:
- Cẩn thận!
Lão Ngũ là người có thân thủ phi phàm, lão chửi thề một câu, rồi nhanh trí đạp chân lên bức tường đá lấy đà quay ngược trở lại.
Lão đáp xuống cách bức tường chừng hai mét,vừa đủ giữ khoảng cách với hai con quái vật màu đen kia.
Choang! Hai con vật màu đen đều lao thẳng vào nhau, phát ra âm thanh chát chúa giống như tiếng hai quả chùy thép đập vào nhau làm vang động cả khoảng không yên tĩnh. Lão Ngũ vừa loạng choạng đặt chân xuống mặt sàn cũng liền phấn khích hét lớn:

- Khá lắm, chó mực canh cửa… khá… - Lão chưa kịp nói hết câu, hai con vật kia đã vặn mình, co người xuống sàn đá thủ thế, rồi lập tức vươn mình đuổi theo Lão Ngũ, một lần nữa chúng lại lao tới như tên bắn.
- Ái chà, lại va vào nhau rồi… - Lão Ngũ lần này chưa kịp quay đầu thoát thân, nên nhón chân ngửa người ra phía sau. Khi lão sắp quay trở lại bậc thang cuối cùng, thì không ngờ, một hàng rào sắt từ trên trần bỗng nhiên sập xuống, một tiếng “ầm” vang lên, hàng rào đã đóng chặt ngăn cách khoảng sân phía dưới với đoạn bậc thang chúng tôi đang đứng, hoàn toàn chặn lối quay lên của Lão Ngũ.
Lão Ngũ đứng trơ trọi ở giữa khoảng không, không còn điểm bật, cũng không thể tự đối phó, lưng lão ép chặt vào bức tường rào. Lão khẽ chửi thề, bải hoải ngồi tụt xuống sàn, thở hồng hộc. Xem ra, cú va chạm vừa xong không hề nhẹ.
Đúng lúc đó, hai con vật đen sì kia cũng quay đầu lao với tốc độ và phản ứng vô cùng nhanh nhạy, y hệt như động vật sống.
Lão Ngũ không dám dừng lại, hai tay quắp ra đằng sau nắm chặt lấy thanh rào sắt, hóp chặt bụng dưới, dồn hết sức vào bàn tay, đu người lên không trung. Lão nhanh tay leo lên được thanh rào trên cùng, rồi áp sát người lên phía đinh, hai chân quăp chặt vào khe giữa hai thanh rào. Hai con quái thú kia vẫn điên cuồng húc mạnh vào chân hàng rào.
Cảnh tượng hãi hung vừa xong chỉ diễn ra trong vài giây ngắn ngủi khiến tôi và chị Giai Tuệ không kịp báo động cho lão. Lão Ngũ từ đầu tới cuối đều dựa vào kinh nghiệm và sự nhanh nhạy của mình để đối phó, thật không thể tưởng tượng nổi ông già hom hem này lại biết những tuyệt chiêu đó.
Chị Giai Tuệ lập tức lao tới, hai tay nắm chặt hàng rào sắt, ngửa cổ hỏi:
- Lão Ngũ, lão có sao không, chuyện gì xảy ra thế?
Lão Ngũ vẫn đang bám chặt ở phía trên, mồm không ngừng chửi rủa ầm ĩ:
- Mẹ kiếp! Không chú ý một chút là mất mạng ngay. Bà nó chứ, hết Tam Linh môn, giờ lai thêm cái bọn Hắc Cẩu này.
Tôi nghe mà chẳng hiểu lão đang nói đến chuyện gì, Tam Linh Môn và cẩu hắc ám là cái gì? Lão Ngũ đưa tay ra chỉ về phía hai con vật màu đen đang gầm gừ ở bên dưới:
- Hai đứa nhìn xem, thứ kia giống cái gì?
Qua hàng rào sắt, chúng tôi mới yên tâm quan sát kỹ hai con vật đó, chúng chính là hai con chó lớn được đúc bằng gang đen, đôi tai nhọn vểnh lên, cái mồm há to để lộ hai chiếc răng nanh chìa ra ngoài trông hết sức dữ tợn. Đặc biệt là đôi mắt, không biết trong hốc mắt của chúng khảm loại đá gì mà có thể phát ra tia sáng quắc màu xanh nhìn thật ghê rợn.
Ở phần thân sau của chúng, thò ra hai đoạn xích sắt dài đang bị kéo căng, đầu còn lại móc chặt vào góc tường, tôi đoán rằng đó chính là sợi dây xích dùng để điều khiển hoạt động của chúng. Lúc đó, tôi cũng đưa mắt nhìn về những vật màu đen ở phía xa, thì ra chúng là cả một đoàn hắc cẩu, nhưng có hình thù nhỏ hơn nhiều, và trong hốc mắt không được lắp viên đá màu xanh.
Lão Ngũ đang bám trên hàng rào cũng đổi lại tư thế, vừa thở gấp vừa nói:
- Bọn cẩu Thanh này tin vào đạo Shaman, nên coi hắc cẩu, hắc xà, hắc ưng là ba linh vật dùng để giữ cửa. Giữa hai hàng hắc cẩu đứng bảo vệ chính là cánh cửa đá, gọi là Hắc cẩu linh môn, còn hai con hắc cẩu này là cẩu bố cẩu mẹ. Lúc nãy khi bị tấn công, ta không ngờ sàn đá phía dưới chân lại bị rỗng, nên khi dẫm chân xuống, sẽ phát ra âm thanh dụ chúng lao tới. Hai đứa bay mau nghĩ cách mở rào sắt này ra. Mẹ kiếp! Bám trên này nãy giờ tay ta mỏi nhừ rồi. Hay đấy, hay đấy!
Dáng vẻ của Lão Ngũ đang quắp chặt trên thanh sắt chẳng khác gì con khỉ bị nhốt trong chuồng đang nghịch ngợm leo trèo, thò tay ra xin thức ăn của du khách khiến chị Giai Tuệ không nhịn được cười, quay sang nói với tôi:
- Lan Lan, em mau mở cánh cửa thả Lão Ngũ ra khỏi chuồng đi.
Nghe thấy giọng hài hước trêu đùa của chị, tôi cũng không nhịn được, phá lên cười nắc nẻ.
Biết chúng tôi đang cười trêu mình, Lão Ngũ tay vẫn bám chặt song sắt quát ầm ĩ:
- Hai đứa ranh này, lúc này mà vẫn còn cười được à? Nhanh mở cửa cho ta, ta sắp không trụ được nữa rồi.
Tôi liền im bặt, ngồi sụp xuống quan sát chân hàng rào. Ở phía dưới cùng của hàng rào, tôi tìm ra một lỗ mắt hình tròn, rồi dùng đầu kim móc gẩy vài cái,hàng rào dần dần được nâng lên. Khi hàng rào vừa mới nhấc lên được một khoảng, Lão Ngũ vội thả tay nhanh chóng tụt xuống, co người sát xuống sàn, uốn éo lăn qua, y hệt như con rắn nước.
Tôi quay sang đếm nhẩm, đàn hắc cẩu kia tổng cộng có ba mươi sáu con, một cảm giác bất an chợt bao trùm trong lòng tôi, nếu như chúng cùng lao ra đuổi cắn thì sẽ nguy hiểm chừng nào. Chị Giai Tuệ quay sang hỏi Lão Ngũ, làm thế nào để vượt qua cửa ải này, lẽ nào phải ra tay diệt lũ hắc cẩu?
Lão Ngũ vội xua tay, nói:
- Thôi đừng có nằm mơ, mấy con này đều đúc bằng hợp kim đặc biệt, đến thuốc nổ còn chẳng làm sứt mẻ được chúng nữa là. - Lão trầm ngâm một lúc, kế quay sang đếm nhẩm, mặt sàn được lát bằng ba mươi sáu phiến đá. Rồi quay sang nói với chúng tôi, trong số ba mươi sáu phiến đá lát đó chắc chắn sẽ có một phiến chứa điểm mấu chốt ở bên dưới, nếu như ta hóa giải được nó thì Hắc cẩu linh môn sẽ tự động được mở ra.
Tôi nôn nóng muốn biết làm cách nào để nhận biết được điểm mấu chốt liền quay sang gặng hỏi Lão Ngũ:
- Vậy ta phải làm thế nào để nhận ra phiến đá đó?
Lão Ngũ vuốt râu, đăm chiêu đả mắt qua các phiến đá rồi trả lời:
- Ta cũng không biết, chỉ còn cách là thử thôi.
Lão Ngũ quay sang hỏi chị Giai Tuệ còn bao nhiêu đạn. Chị Giai Tuệ nói trước khi xuống đây đem theo mình tám băng đạn. Lúc nãy đã dùng mười ba viên để đốt lũ tằm tơ, giờ chỉ còn bốm mươi ba viên.
Lão Ngũ cúi đầu tính toán một hồi rồi nói:
- Vậy thì cứ giữ lại đi, sau này còn phải dùng đến. - Lão lôi từ trong áo ra một viên đá hình tròn dẹt, to chừng quả óc chó, vân vê trong tay. - Lúc nãy ta đã bước chân qua phiến đá thứ ba, phiến thứ mười một và phiến thứ hai mươi hai, vậy thì vẫn còn ba mươi ba phiến nữa.
Lão nheo một bên mắt, kẹp viên Phi Hoàng Thạch vào giữa hai đầu ngón tay cái và ngón trỏ, dùng lưc búng thật mạnh, viên đá bay vút tới phiến đá nằm sát bên trái của cánh cửa. Viên đá vừa chạm đất, hai con hắc cẩu vội vùng dậy lao đến, đầu chúng lại va vào nhau, bốn chiếc răng nanh nhe ra trắng nhởn. Những con hắc cẩu nhỏ ở phía đàng xa cũng chồm lên như muốn lao tới hỗ trợ.
Do đã được tính toán góc độ một cách chính xác, viên đá kia sau khi chạm mặt sàn, văng lên tường, lách cách một hai tiếng rồi quay đầu lao về phía chúng tôi, Lão Ngũ nhẹ nhàng đưa tay bắt lấy.
Lão Ngũ gật gật đầu, nói:
- Phiến thứ nhất không phải, chúng ta thử sang phiến thứ hai. – Lão lại quăng viên đá lần nữa, hai con hắc cẩu nghe thấy động lại lao vào nhau… Cứ như vậy đến phiến đá thứ mười chín, viên đá ngay sau khi chạm đất, hai con hắc cẩu đứng im không nhúc nhích, chắc chắn điểm mấu chốt được giấu ở dưới đó.
Lão Ngũ chỉ tay về phía phiến đá, nói với chị Giai Tuệ:
- Dùng súng bắn vào tâm điểm của phiến đá đó cho ta, không cần nhiều, chỉ cần bắn thủng một lỗ là được rồi.
Chị Giai Tuệ “vâng” một tiếng rồi lập tức rút khẩu súng đang đeo bên mình ra, không cần mất nhiều thời gian để căn chỉnh, chị bóp cò, một tiếng nổ vang lên. Ngay lập tức tại đúng điểm giữa của phiến đá, một làn khói trắng mờ bay lên, để lại một lỗ đạn nhỏ trên bề mặt.
Lão Ngũ vươn cổ ra nhìn thật kỹ rồi nói:
- Cũng được đấy, nhưng có vẻ vẫn hơi nhỏ, bắn thêm một viên nữa đi.
Lại một phát súng nữa vang lên, lỗ đạn to ra được vài phân, trên miệng cũng hiện ra vài vết rạn nứt.
Lão Ngũ gật đầu tỏ vẻ hài lòng rồi nói:
- Làm tốt lắm, như vậy là đủ dùng rồi. - Nói rồi lão quay đầu lại cười tươi - Đứng lùi ra sau đi, để Lão Ngũ thể hiện cho hai đứa xem.
Tôi và chị Giai Tuệ cũng không dám hỏi nhiều, chỉ nắm tay nhau lùi lên vài bậc thang.
Lão Ngũ lôi từ phía sau lưng ra chuỗi hạt Ô Kim, nắm chặt trong hai lòng bàn tay, nhào nặn một lúc nó đã biến thành một đoạn dây xích. Lão cầm mỗi tay một đầu, lấy hết sức kéo mạnh sang hai bên, ở giữa mỗi mắt xích kéo ra một sợi dây mảnh màu đen, cuối cùng cả đoạn dây xích đã được kéo dài hơn chục lần.
Lão Ngũ cuốn chặt một đầu xích vào tay, xoay vài vòng, mỗi lúc một mạnh hơn, lão vừa hét vang vừa quăng đoạn xích về phía phiến đá. Một âm thanh lớn vang lên kèm với tia lửa tóe ra khi đoạn xích quật đúng vào lỗ đạn trên phiến đá. Vài mảnh đá bị vỡ vụn bắn ra, khiến miệng lỗ đạn to ra vài phân. Dừng một lúc, tay phải lão kéo mạnh, thu đoạn dây xích về.
Cứ thực hiện như vậy chừng hơn ba mươi lần, thì cả phiến đá đã bị vỡ tan. Lão Ngũ thu nhỏ đoạn xích, chỉ vài động tác nó đã cụp vào giống như vỏ trai màu đen. Rồi lão nói với chị Giai Tuệ:
- Giờ thì đến lượt mi giải quyết. Phía dưới đó là hai chiếc kim móc gắn lò xo, hãy ngắm cho chuẩn, bắn rơi chúng cho ta, có thể mới mở được cánh cửa này.
Phía dưới phiến đá là khoảnh đất nhỏ màu đen, ở giữa chon một cái ống bằng kim loại, miệng ống to chừng chiếc bát, bằng khít với mặt đất. Trong lòng chiếc ống căng ngang một sợi dây kim loại mảnh, ở giữa sợi dây lại móc thêm hai miếng thép mỏng như lá liễu, dài gần bằng ngón tay út, màu bạc sang không hề có vết hoen gỉ, vẫn còn đang rung rinh lắc qua lắc lại.
Lão Ngũ kéo tay chị Giai Tuệ lại gần, chỉ tay về phía hai miếng thép kia, nói:
- Mi có nhìn thấy hai chiếc kim đó không, đó được coi là công tắc chính của cả cỗ máy này, chúng lần lượt điều khiển hai con hắc cẩu lớn kia. Chỉ cần có lực tác động xuống sàn, thì sẽ khiến hai chiếc kim đó rung lên và điều khiển hướng cho hai con hắc cẩu lao tới tấn công. Mi cần phải bắn rơi hai chiếc kim đó, nhưng tuyệt đối không được làm đứt hai sợi dây kia, nếu không Hắc cẩu linh môn này sẽ bị khóa lại vĩnh viễn, và đánh động lũ hắc cẩu con sống lại.
Chị Giai Tuệ gật đầu đồng ý. Sau khi đã nhắm chuẩn góc bắn, chị gần như nín thở, tay phải giữ chặt cổ tay trái đang cầm súng, nheo mắt, nhắm thật chuẩn góc bắn chừng vài chục giây, bóp mạnh cò súng. Sau hai hồi súng vang lên, tôi vội đưa mắt tìm hai chiếc kim kia, thế nhưng không biết chúng đã bị bắn rơi đi đâu. Sợi dây kim loại trong lòng ống do bị tác động mạnh nên giống như sợi dây đàn run lên bần bật, phát ra âm thanh ù ù.
Chị Giai Tuệ chưa kịp giải thích cho chúng tôi về cách bắn vừa xong, thì Hắc cẩu linh môn bỗng dưng phát ra một tiếng nổ lớn, cánh cửa nứt làm đôi rồi từ từ thu sang hai bên, một vùng sang lấp lánh mở ra trước mắt chúng tôi cùng một làn hơi nước mát lành lập tức thổi tới.
Phía sau cánh cửa không giống như lúc nãy mà bỗng nhiên trở nên vô cùng rộng mở. Đoạn đường lát đá xanh kéo dài thẳng tắp giờ đã hoàn toàn biến mất, trước mắt chúng tôi bây giờ là một mặt nước phẳng lặng như gương, dưới ánh sang phản quang của chiếc gương Dạ Minh, nó giống như một viên đá quý lớn màu xanh đậm.
Cơn tò mò thôi thúc tôi chạy tới trước cánh cửa đá, bám chặt tay vào bức tường để ngó nghiêng bên trong. Chị Giai Tuệ đứng ở đằng sau giữ chặt lưng tôi.
Hồ dài chừng hơn năm mươi mét, hai bên bờ mịt mờ rộng chừng hơn một trăm mét, qua làn hơi nước mù mịt, tôi nhìn thấy một bức tường đá rất cao chắn ngay bên bờ bên kia.
Chị Giai Tuệ quan sát kỹ càng mọi thứ xung quanh, rồi nói với tôi, phía dưới có một dòng kênh ngầm, sau khi nạo kênh, những người thợ đã áp dụng những phương pháp xử lý chống thấm, sau đó dẫn những mạnh nước ngầm trong lòng đất vào kênh. Cúi xuống nhìn dưới chân, mặt nước phẳng lặng cách miệng hồ chừng chục centimet, theo như tôi quan sát, phần tường đá không bị ngập nước vẫn sạch nguyên, không hề thấy có dấu vết của rong rêu, chứng tỏ rằng mực nước ở đây rất ổn định, không hề bị thay đổi, chắc chắn khi thi công họ đã phải sử dụng một hệ thống dẫn thoát nước rất phức tạp, nên mới có thể duy trì được mực nước như vậy dưới lòng đất hằng trăm năm nay.
Tôi ngẩn ngơ ngắm nhìn dòng kênh, cảm thấy chúng thật sự kỳ diệu, sau đó quay đầu gọi Lão Ngũ. Lão Ngũ đang mải loay hoay lấy mấy viên đá xanh trong hốc mắt hai con hắc cẩu ở đằng sau, lão ngẩng đầu nhìn hai chị em tôi đang ngó mặt xuống mặt nước, mặt lão bỗng biến sắc, quát ầm lên:
- Hai mẹ trẻ, quay lại đây ngay, không lại bị Hắc xà cắn bây giờ.
Vừa được chứng kiến tận mắt cảnh hai con hắc cẩu hung dữ đuổi theo tấn công Lão Ngũ nên khi nghe thấy lão nói vậy, tôi và chị Giai Tuệ mặc dù chưa biết được mức độ nguy hiểm của loài hắc xà như thế nào, nhưng đó nhất định lại là một mối nguy hiểm khác nên chúng tôi vội vàng quay người lại lùi về phía sau.
Hai tay Lão Ngũ cầm bốn viên đá màu xanh, rảo bước đến bên cạnh chúng tôi, mặt rất hí hửng nói:
- Lần này ta phát tài rồi, đây chính là đá m Sơn Hải Lan loại hảo hạng nhất. Để ta chia mỗi đứa một viên, không lại bảo lão già này ích kỷ, chỉ biết ăn mảnh.
Tôi đưa tay đỡ lấy, viên đá tròn xoe nằm gọn trong lòng bàn tay tôi trơn trơn, mát lạnh, nhìn lại kỹ hơn, viên đá không ngừng tỏa ra những tia sáng lóng lánh, chứng tỏ bên trong nó có chứa một lượng lớn hypo, đúng là một báu vật. Tôi không ngừng mân mê viên đá, càng ngắm nhìn càng cảm thấy nó quả là vật quý hiếm.
Chị Giai Tuệ chỉ nhìn lướt qua viên đá, rồi thả luôn vào trong ba lô, kế quay sang hỏi Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, trước mặt là dòng kênh. Không biết đây là cửa ải gì nữa đây, liệu có phải bơi qua nó không ạ?
Lão Ngũ vội cất hai viên đá vào trong người, hai tay phủi phủi vài cái, bước tới sát mép nước, nheo mắt nhìn sâu xuống phía dưới. Sau một hồi, lão quệt ngón cái qua cánh mũi, nói:
- Bơi cái đầu mi ấy, phía dưới dòng kênh này chắc chắn có thả hắc xà, ngửi mùi nước ta đoán chắc nó còn đầy chất độc, chỉ cần nhúng người xuống đây là coi như bong thịt tróc da ngay lập tức.
Nghe thấy Lão Ngũ nói vậy, tôi vội co người thụt cổ lại, sợ sệt hỏi lão:
- Lão Ngũ, vậy thì phải làm sao đây, ở chốn này cũng không kiếm đâu ra được cái bè nào.
Lão Ngũ đảo mắt nhìn một lượt rồi trầm ngâm trả lời:
- Đợi ta xem xét đã!
Nói rồi, lão dò dẫm xung quanh, chọc sâu vào hai bên bức tường đá ở cạnh miệng động. Tôi cũng không biết lão đã làm thế nào mà bỗng nhiên trên mặt nước cách miệng động chừng nửa mét nổi lên vô số bọt khí, phía dướt mặt nước cũng vang lên một tràng âm thanh lách cách rất lớn như tiếng những bánh răng đang chuyển động cùng lúc.
Nhìn thấy mặt nước rung chuyển, Lão Ngũ lập tức nhảy ra đằng sau, kéo tay tôi và chị Giai Tuệ lùi lại.
Sau khi vòng xoáy trên mặt nước dần dần tan ra, một chiếc cột trụ tròn màu đen, to chừng một chiếc ô nhô lên khỏi mặt nước, cách mặt nước chừng một gang tay thì dừng lại. Lập tức một cột trụ khác cách đó chừng hơn nửa mét cũng ngoi lên, rồi đến cái thứ ba, cái thứ tư, cái thứ năm… cứ như thế chúng nối nhau ngoi lên khỏi mặt nước và tạo thành một đường thẳng tiến vào tận đầu bên kia.
Nhìn những cột trụ màu đen ướt sũng nước, Lão Ngũ gật gù, mồm lẩm bẩm:
- Chúng là những cột trụ để vượt kênh, giờ chỉ còn cách bước lên chúng để qua thôi.
Tôi nhìn lại, dòng kênh này dài chừng năm mươi mét, cứ cách khoảng một mét lại mọc lên một cột như thế, tổng cộng có bốn mươi chín cột, chỉ cần giữ thăng bằng để không bị rơi xuống nước là có thể đi qua, cũng không khó lắm.
Tôi hỏi Lão Ngũ vậy những con hắc xà ở đâu, liệu có phải chúng nấp ở trong chiếc cột đó? Lão ậm ừ một tiếng, rồi lấy ra viên đá lúc nãy, lia thật mạnh lên đầu cột trụ đầu tiên để thử.
Viên đá rơi trúng đầu cột trụ và bật lên chừng nửa mét thì lập tức từ hai cạnh bên cột trụ lao lên hai con rắn kim loại dài màu đen, mỗi con to chừng cánh tay của một đứa trẻ, toàn thân phủ kín những vẩy hình tròn, đầu chúng được khắc rất sinh động với hai chiếc răng nanh nhọn hoắt trong miệng, cùng lao đến đớp lấy viên đá. Hai con rắn đan chéo lao qua cột trụ, rồi nhanh chóng lặn xuống mặt nước.
Cảnh tượng này khiến tôi vô cùng hoảng hốt, nếu dại dột bước chân lên đó thì không biết sẽ nguy hiểm tới mức nào.
Chị Giai Tuệ vội vàng quay sang hỏi Lão Ngũ có cách nào hóa giải trận địa này không. Lão cũng chỉ biết lắc đầu và nói:
- Chẳng còn cách nào khác, ta phải khống chế sợi dây điều khiển con hắc xà giấu bên trong trụ sắt kia, đứng trên này sẽ không thể mở được chúng vậy chỉ còn cách lội xuống nước, cắt đuôi của từng con rắn một thôi.
Lão Ngũ có vẻ lo lắng, lão vân vê mấy sợi râu dưới cằm, do dự nói tiếp:
- Cắt đuôi rắn không thành vấn đề nhưng chỉ e dòng nước độc này không dễ đối phó chút nào đâu. - Lão cúi mặt suy nghĩ một hồi, rồi ngẩng phắt đầu vỗ mạnh tay lên trán. - Có rồi, Lan Lan, hãy đưa cho ta cặp tỳ hưu ngọc mi đang đeo trên cổ.
Tôi vội vàng tháo cặp tỳ hưu ngọc ra đưa cho Lão Ngũ. Đã vài ngày nay tôi không lôi ra xem, giờ mới phát hiện ra, màu sắc của cặp tỳ hưu càng hòa quyện vào nhau hơn, giờ đây chúng gần như đã biến thành một khối ngọc màu vàng trắng.
Lão Ngũ đưa tay đón lấy cặp tỳ hưu, nắm chặt chúng trong lòng bàn tay, quan sát kỹ càng một hồi lâu, đôi mắt lão sáng rực lên.
- Phái Kiện Môn thật không hổ danh chế tạo ra nhiều bảo bối, cặp tỳ hưu này đã được lưu truyền qua bao đời nay, cũng không biết được rằng bên trong chứa bao nhiêu loại hương liệu hiếm có, bản thân nó vốn đã là một loại bảo bối chuyên dùng để chống độc rồi. Nếu hai mảnh đươc ghép lại với nhau, tác dụng của những loại hương liệu này còn tăng lên gấp bội, xem ra nó có thể địch được tất cả loại cực độc đây. Ha ha, hôm nay lão già này sẽ dùng thử nó xem sao.
Chương 14:
Thấy Lão Ngũ nhìn chằm chằm vào cặp tỳ hưu, nước bọt như cũng sắp rớt khỏi mép, tôi bỗng thấy lo lắng, nhỡ lão dùng xong không trả lại cho tôi thì sao?
Lão Ngũ dùng vài sợi tơ tằm để đeo cặp tỳ hưu vào cổ, vừa làm vừa nói rằng phải cẩn thận gấp đôi bình thường. Sau khi đeo xong sợi dây lên cổ, lão thò tay rút dây vải màu xám bạc buộc quanh eo ra và nói:
- Nọc của loại hắc xà này vô cùng độc, ta cũng phải chuẩn bị trước tinh thần.
Thấy lão vừa tháo dải dây rút buộc quần ra vừa nói những lời trên, tôi tò mò hỏi:
- Lão Ngũ, lão muốn đi vệ sinh sao?


Lão Ngũ quay lại lườm tôi một cái, giậm chân rồi nói:
- Vớ vẩn… mi mới là đứa sợ đái ra quần ấy! - Nói rồi, lão quay đầu không thèm để ý tới tôi nữa, ngón út miết theo dải dây, “phạch”, tiếng vải bị xé rách toạc, bên trong lộ ra một tia sáng trắng chói lóa.
Tôi đưa mắt nhìn thật kỹ, thì ra bên trong dải quần bọc một lưỡi gươm vừa nhỏ vừa mỏng. Thân gươm dài chừng một mét, màu trắng sáng, phía cuối thân là một chuôi gươm được quấn quanh bằng những sợi tơ ngắn màu vàng.
Lão Ngũ lột lớp vải tả tơi bên ngoài ra, lưỡi gươm rất mềm có thể uống cong và vô cùng sắc bén, lão cầm lấy thanh gươm múa vài đường quyền, tưởng chừng như những dòng điện lóe sáng vút qua trong không trung, khiến cho người ta không dám nhìn thẳng vào đó. Đồng thời, thanh gươm cũng tạo ra những luồng gió mát lạnh văng ra tứ phía, quật vào mặt cảm giác hơi ran rát. Nghe giọng Lão Ngũ vừa cười khoái chí vừa nói:
- Đeo nó quanh bụng suốt, mẹ kiếp, làm ta sắp suy thận đến nơi rồi. Ha ha ha!
Tôi dán mắt vào thanh kiếm đang múa lượn trong không trung, lòng thầm nghĩ, Lão Ngũ đúng thật là biết võ thuật, nên mới giấu gươm trong người như thế chứ.
Chị Giai Tuệ quay sang dò hỏi lão, có vẻ chị vẫn chưa tin lắm vào sức mạnh của thanh kiếm:
- Lão Ngũ, chiếc gươm này chém đứt đươc hắc xà không?
Lão Ngũ chớp mắt, nói với vẻ không hài lòng lắm:
- Với cột trụ kia thì không chặt được, chứ mấy con rắn nhi đồng này thì chỉ như trò đùa.

Sau đó, hai tay lão vừa múa may vừa lôi trong áo ra mấy thứ đồ, trong đó có cả chuỗi hạt Ô Kim và vài viên Phi Hoàng thạch. Ngoài ra, còn vài vật khác với những hình thù rất lạ lùng mà chúng tôi không biết gọi thế nào cũng được lão lấy ra đặt xuống mặt sàn.
Chúng tôi nhìn mà hoa cả mắt, thật không thể tưởng tượng nổi, bao nhiêu thứ linh tinh thế này không biết lão giấu trong người như thế nào mà chúng tôi không nhận ra.
Sau khi lấy hết đồ ra, lão mới bắt đầu cởi áo khoác ngoài ra, tôi ngại ngùng quay mặt đi không dám nhìn lão nữa.
Lão Ngũ cởi hết quần áo chỉ còn lại chiếc quần đùi, để lộ một thân hình gầy gò đầy xương sườn. Lão khởi động vài đường, cảm thấy nhẹ tênh như không có gì xảy ra, rồi lão quay sang chúng tôi cười:
- Hai nhóc con, lùi ra xa một chút, nhìn Lão Ngũ ta đùa với nước. - Lão hung hổ bước tới mép hồ, hít một hơi thật sâu mà không hề thở ra, rồi nhảy tùm xuống nước.
Tôi và chị Giai Tuệ đều đứng ở đằng xa, nhìn thấy làn nước khoắng động lên, rồi Lão Ngũ lặn xuống mất hút. Mặt hồ có màu xanh đen, thì ra là chúng không hề trong suốt như tôi nghĩ. Đợi khoảng hai mươi giây, mặt nước bỗng lặng yên bất thường đến một bong bóng nước cũng không nổi lên, trong lòng bắt đầu cảm thấy bất an.
Chị Giai Tuệ cũng lo lắng chau mày, lẩm bẩm vài câu trong miệng, đang chuẩn bị lại gần để nhìn xem tình hình thực hư thế nào, thì bỗng nhiên mặt nước bắt đầu lục bục lên giống như nồi nước sôi, nổi lên vô số những bong bóng nước từ đáy hồ nổi lên mỗi lúc một nhanh hơn, cả mặt hồ bắt đầu dập dềnh nổi sóng.
Chị Giai Tuệ kéo tôi lùi ra sau, mặt nước bắt đầu gợn sóng lăn tăn đằng sau cột trụ, liền ngay sau đó, hai cột nước phụt lên cùng hai con hắc xà, chúng lien tục xoắn mình lao thẳng lên tận đỉnh hầm.
Đến lúc này tôi mới nhìn thấy Lão Ngũ miệng ngậm lưỡi gươm, hai tay nắm chặt cổ một con hắc xà, người lão ướt sũng, xoay vòng theo con hắc xà, treo mình lơ lửng trên không trung.
Tôi không giữ được bình tĩnh hét lên sợ hãi, ôm chặt lấy chị Giai Tuệ. Một tay chị giữ chặt vai tôi, tay kia lập tức rút khẩu súng ra.
Hai con hắc xà sau khi lao len không trung chừng tám chín mét, hai mắt trợn trừng, đầu lắc mạnh như muốn giãy giụa thoát khỏi bàn tay Lão Ngũ.
Nhưng cho dù chúng ra sức vùng vẫy thế thì hai bàn tay Lão Ngũ vẫn nắm thật chặt không dám nới lỏng, nét mặt lão vô cùng đáng sợ.
Hai con rắn dường như linh cảm được là không thể thoát khỏi bàn tay của Lão Ngũ, nên cả hai bỗng cùng ngoặt đầu chúi xuống nước, kéo theo cả lão lao xuống nước.
Nước trong hồ không ngừng cuộn sóng với những đám bọt khí và bong bóng lớn, đồng thời tỏa ra một mùi nồng nặc đến rợn người. Tôi lờ mờ nhìn thấy hai con hắc xà đang cố bơi thật nhanh, còn Lão Ngũ thì như bị kẹp giữa chúng.
Thấy Lão Ngũ gặp nguy hiểm, tôi bắt đầu rối trí, rối rít kêu chị Giai Tuệ nghĩ cách kịp thời để cứu lão. Chị Giai Tuệ cũng đang bối rối, hết giơ súng lên, nheo một mắt ngắm một lúc, rồi lại hạ súng xuống, không biết phải làm thế nào.
Cả hai chúng tôi lại thấp thỏm, lo lắng cho sự an nguy của Lão Ngũ, mắt vẫn không ngừng dán chặt xuống mặt nước, hai con hắc xà kéo lão xuống nước chừng một phút rồi lại lao ngược lên trên. Lần này thậm chí chúng còn vọt lên cao hơn lần trước, giãy giụa kịch liệt, rồi lao thẳng lên đỉnh hầm, phát ra những tiếng va đập dữ dội.
Sau tiếng va đập, nửa thân dưới của hai con hắc xà bắt đầu xoắn lại từng vòng như đuôi sam, nếu như lúc ấy Lão Ngũ không kịp buông tay, thì chắc chắn hai bàn tay lão ấy sẽ bị nghiền nát nhừ như miếng thịt xay.
Lão Ngũ đá hai chân đạp mạnh lên đỉnh hầm rồi lộn đầu lao xuống mặt nước. Hai con rắn, cũng lập tức quay đầu lao xuống, đuổi theo Lão Ngũ.
Hai chân lão đạp nước, thanh gươm trong tay không ngừng vụt chém để chống chọi với những đợt tấn công liên tiếp của hai con hắc xà, tiếng kim loại va vào nhau chói tai. Sau mỗi tiếng va chạm phát ra, hai con hắc xà như cũng biết đau, nên hơi ngừng lại trong giây lát, nhưng sau đó vẫn rượt đuổi ráo riết Lão Ngũ.
Lão Ngũ có vẻ hơi đuối sức, tay kiếm dần dần chậm lại, có thể do phải nhịn thở quá lâu, thêm cả âm khí dưới nước hơi nặng, nên lão đã thực sự bị đuối sức, khó có thể đối phó được tiếp.
Thấy tình hình hết sức nguy kịch, chị Giai Tuệ quyết định ra tay, ngắm thật chuẩn hai con hắc xà, nổ súng.
Đúng lúc đó, Lão Ngũ dồn hết sức lực quay mình, bơi nhanh tới hai con hắc xà, hai tay giữ chắc thanh gươm, chém thật mạnh ngang người chúng.
Lưỡi gươm chém xuống như con dao lướt qua miếng đậu phụ, không một chút trở ngại, hai con hắc xà đang cuộn xoắn mình bị chặt đứt làm đôi, phần thân trước vẫn cố bơi thêm một đoạn thì chìm xuống, nửa còn lại quằn quại một lúc, rồi cũng mềm nhũn chìm xuống đáy hồ.
Ra tay xong, Lão Ngũ vội ngoi lên mặt nước, miệng ngậm chặt lưỡi gươm, hai tay gắng sức bơi vào bờ. Vừa bơi về đến nơi, hai tay lão lập tức bám lên mép bờ, mồm thở dốc và liên tục chửi rủa:
- Mẹ nó chứ, quá… quá… quá… là hay!
Tôi và chị Giai Tuệ tới kéo lão lên bờ, tìm quần áo đắp tạm lên người cho lão.
Lão Ngũ lạnh cóng tới mức răng môi đánh cầm cập, lập tức lấy quần áo cuốn quanh người, vuốt sạch nước trên mặt, nhổ ra vài ngụm nước màu xanh, rồi nói với vẻ hận thù:
- Mẹ kiếp, thì ra thân lũ hắc xà này được bọc bằng đồng Triều Tiên nên không thể nào chém đứt, may thế nào ta đã phát hiện ra một điểm yếu ngay ở đoạn giữa thân chúng, nếu không thì cái mạng già này cũng không thể giữ nổi.
Lão quay sang bảo chị Giai Tuệ đưa cho ít phân tằm, lập tức nhai rau ráu rồi nuốt chửng, lão nói muốn làm sạch dạ dày, nếu không thì chỉ một chút nữa thôi sẽ phóng uế khắp nơi mất.
Tôi tò mò hỏi lão, loại đồng Triều Tiên kia là mắt xích như thế nào? Lão Ngũ nói:
- Thực ra nó không được coi là mắt xích, đó là một loại đồng đặc biệt mà chỉ nước Triều Tiên mới có, ta cũng không biết bên trong đó có gì mà thậm chí còn cứng hơn cả kim cương. Vừa xong khi ta bơi xuống tận chân cột trụ, một nhát kiếm không thể chặt đứt được thân con hắc xà, nhưng có vẻ như đã chạm vào một mắt xích nào đó, nên đã không bị bọn hắc xà cắn. Cũng may ta đã kịp thời bóp chặt đầu của chúng, nếu không thì cũng chẳng còn ý nghĩa gì. - Nói đến đây, lão bỗng nhổ phì ra vẻ rất cay cú - Mấy tên này cũng hiểm thật, lại đặt điểm yếu của chúng ở chính giữa thân, cách đầu chừng một gang tay, ta phải lần mò mãi mới phát hiện ra được vị trí đó.
Chị Giai Tuệ nghe xong, có vẻ rất đăm chiêu gật gật đầu suy tư rồi bước sát mép hồ ngồi xuống, ngó xuống dưới đáy, nhìn kỹ lại hai mảnh thân rắn bị chặt đứt đôi đang nằm bất động, dùng tay ước chừng một hồi lâu rồi quay đầu lại nói cho Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, cháu đã hiểu rồi. Lão đưa cặp ngọc tỳ hưu cho cháu, cột trụ tới để cháu xử lý cho.
Do vừa xong phải bận rộn khá lâu với hai con hắc xà nên giờ Lão Ngũ đã thấm mệt, nên khi nghe chị Giai Tuệ nói vậy, lão cũng không từ chối, tháo cặp tỳ hưu đưa cho chị, rồi dặn đi dặn lại:
- Nhóc con, hãy nhắm thật chuẩn khoanh thứ hai mươi chín, chỉ cần một nhát gươm là xong. Nhớ rằng, đừng có tham, giết chúng xong là phải lên ngay, ta chỉ ngồi nghỉ một chút cho hồi sức rồi ta và mi sẽ thay phiên nhau giải quyết chúng.
Chị Giai Tuệ gật gật đầu đồng ý, rồi lập tức quay ra cởi bỏ áo khoác, giày và tất để sang một bên, chỉ giữ lại bộ quần áo giữ nhiệt bó sát người. Thân hình của chị rất đẹp, tôi cúi xuống nhìn lại cơ thể thậm chí còn chưa phát triển hết của mình mà cảm thấy ngưỡng mộ lẫn ghen tỵ.
Chị Giai Tuệ đứng khởi động vài động tác cho ấm người, cầm thanh gươm rồi nhẹ nhàng lội xuống dưới, chỉ còn nhô chiếc đầu lên khỏi mặt nước, rồi từ từ bơi tới cột trụ thứ hai.
Đến giờ tôi mới hiểu rõ, thì ra thân của hai con hắc xà cùng cuốn quanh cột trụ, đầu của chúng bám chặt lấy mép trên, trông thì có vẻ rất ngoan ngoãn.
Chị Giai Tuệ đạp nước tiến tới thật sát, đếm số khoanh trên thân con hắc xà bên trái, rồi cầm chặt thanh gươm chém nhẹ nhàng vào đúng khoanh thứ hai mươi chín, lập tức bơi thật nhanh ra thật xa.
Chỉ một nhát gươm thân con hắc xà đã bị chém làm đôi, mềm oặt rồi từ từ chìm xuống đáy hồ.
Thấy con hắc xà không có vẻ giãy dụa đau đớn nên chị Giai Tuệ cũng lấy lại tinh thần, nhanh chóng bơi tới con ở bên phải. Ngay lập tức con hắc xà bên phải cũng bị chặt đứt làm đôi. Chị vẫn chưa an tâm, sau khi chặt đứt con thứ hai còn bơi vòng qua cột trụ vài vòng, hai chân nhẹ nhàng đạp xuống nước, thấy chiếc cột trụ nằm yên không động đậy, không có dấu hiệu gì khác thường mới yên tâm.
Chị Giai Tuệ quay đầu lại phía chúng tôi giơ tay ra hiệu mọi việc đã hoàn thành, rồi quay người bơi tới chiếc cột trụ thứ ba, kế lại thao tác giống như vừa xong, chém đứt đôi hai con hắc xà khác… cứ như thế cho tới khi chị chém xong hai con hắc xà bám trên cột trụ thứ mười tám, Lão Ngũ nhổm dậy, gọi chị:
- Được rồi, quay lại đây đi, để ta làm thay cho!
Đợi kéo chị Giai Tuệ lên, Lão Ngũ quay sang nói với chúng tôi, lần này lão sẽ giải quyết nốt chỗ trụ còn lại, rồi sẽ lên bờ bên kia luôn, dặn tôi và chị Giai Tuệ bước trên những trụ sắt kia để vượt qua, nhớ rằng phải giữ thăng bằng, đừng để rơi xuống nước. Và nhớ phải mang theo quần áo cùng những vật dụng linh tinh kia của lão đi cùng.
Lão Ngũ cầm lấy thanh gươm, rũ quần áo xuống rồi lập tức tụt xuống nước và bơi thật nhanh đến chiếc trụ thứ mười chín.
Chị Giai Tuệ mặc lại quần áo, hà hơi một chút cho cơ thể ấm lên, rồi ôm đống quần áo cùng những vật dụng của Lão Ngũ đi trước, bảo tôi đi theo sau, trước khi bước lên những cột trụ chị dặn tôi không được sợ hãi, chỉ cần nhảy lên là sẽ giữ được thăng bằng.
Tôi gật gật đầu, đi ngay sau chị. Vừa đặt chân lên hai đỉnh trụ, tôi đã thấy có một luồng khí lạnh đâm xuyên qua đế giày, làm bàn chân lập tức tê buốt. Tôi vội vàng cúi đầu nhìn xuống, ngay chỗ giẫm chân lên, có một vật gì đó màu đen to chừng nắm tay, đang giữa lúc hoảng hốt tôi không nhìn rõ đó là cái gì.
Chị Giai Tuệ quay đầu, giục tôi:
- Cái cọc này lạnh quá, chúng ta phải đi nhanh hơn thôi.
Tôi vừa nhảy lên phía trước vừa nhìn xuống mặt nước. Làn nước xanh nhạt giờ đã trở nên trong vắt, rất nhiều đoạn thân hắc xà bị chặt chìm xuống đáy hồ, dưới sự tác động của dòng nước, trông chúng vẫn như đang mềm mại chuyển động. Cứ nghĩ đến cảnh chúng vừa vật lộn hung dữ với Lão Ngũ, tôi không khỏi hoang mang, thế nên cũng không dám nhìn chúng nhiều mà chỉ chăm chăm hướng thẳng về phía trước bám sát theo sau chị Giai Tuệ, bước nhanh về phía bờ bên kia.
Lão Ngũ xử lý những con hắc xà còn lại rất nhanh, thoáng một cái đã xong và lên bờ bên kia, co gối ngồi thu lu một góc đợi chúng tôi.
Thấy hai đứa chúng tôi an toàn vượt qua được đoạn hồ, vừa tới nơi lão đã đón lấy đống quần áo từ chị Giai Tuệ, lấy chiếc thắt lưng vải ra bọc lại chiếc gươm, cẩn thận vòng qua eo rồi lần lượt mặc quần áo vào, kế đó quay sang bảo tôi:
- Cánh cửa Hắc xà linh môn này có vài chỗ cấu tạo ta không hiểu nổi, mi thử xem xem.
Cánh cửa Hắc xà linh môn này cũng giống với cánh cửa Hắc cẩu linh môn lúc nãy, đều được làm bằng phiến đá xanh, và thuộc dạng kết cấu khóa trong, có điều bên trên cánh cửa này khắc một con rắn cực lớn, đang vắt chéo mình qua cánh cửa từ trái sang phải.
Đầu rắn hình tam giác nhô ra ngoài, miệng rắn há to để lộ hai chiếc răng nanh nhọn hoắt, hình dạng hết sức dữ tợn. Thân rắn khắc trên tấm đá cùng mười đường rãnh khá nông, qua hình dạng và đường viền nối giữa chúng, tôi đoán trước đây đó chính là vị trí dùng để phủ những chiếc vẩy rắn. Thế nhưng, những chiếc vẩy rắn này không biết đã bị ai đó cậy ra.
Tôi đưa tay miết lên khắp cánh cửa vài lần, rồi lần theo hai vách động, nhưng không hề phát hiện ra một dấu hiệu nào để mở cánh cửa kia.
Lão Ngũ đứng bên cạnh nhìn theo tôi, nói với vẻ hoài nghi:
- Ta nói đúng không, cánh cửa này không hề giống với những cánh cửa trước đây ta từng mở, không có một dấu hiệu gì thì mở thế nào đây?
Tôi cau mày suy nghĩ, không nói lời nào, ngón tay vẫn từ từ lần theo những đường rãnh trên thân con rắn khổng lồ này. Tôi lại nghĩ rằng những miếng vẩy bị rụng này mới là điểm mấu chốt của vấn đề.
Trong đầu tôi nhanh chóng lật lại tất cả những loại khóa mà ông nội đã từng nói với tôi, một ý nghĩ bỗng vụt qua đầu, tôi dần nghĩ ra một điều gì đó.
Để thử cách mình vừa nghĩ ra, tôi lôi ra một chiếc kim móc rất nhỏ, từ từ cào lên những đường rãnh. Hai tai chú ý lắng nghe những âm thanh bên trong phát ra, dự đoán của tôi không hề sai, tính toán một chút, tôi quay đầu lại nói với hai người:
- Đây chẳng qua là một dạng biến thể của loại khóa ghép, chỉ cần ghép hết những miếng vảy trên thân rắn về đúng vị trí của nó là sẽ có thể mở được cánh cửa.
Nghe tôi nói như vậy, Lão Ngũ lập tức ngó nghiêng ra bốn phía, rồi ngồi sụp xuống dưới sàn, hai tay khua khoắng khắp nơi.
Chị Giai Tuệ tò mò hỏi lão đang làm gì. Lão Ngũ trả lời gỏn lọn:
- Tìm vẩy rắn! Không biết chúng được cất giấu ở đâu, trên này tìm không ra thì để ta lội xuống dưới nước tìm lại xem.
Tôi bật cười nói với lão:
- Lão Ngũ, không đến nỗi phiền phức thế đâu, cháu đã biết chúng ở đâu rồi.
Lão Ngũ và chị Giai Tuệ cùng quay sang tôi hỏi chúng ở đâu. Tôi bước tới mép hồ, chỉ tay về phía cột trụ thứ bốn mươi chín rồi nói với chị Giai Tuệ:
- Chị còn nhớ khi chúng ta bước chân lên cột trụ, lạnh tới mức cảm giác chân mình bị đóng băng không?
Chị Giai Tuệ nhìn xuống dưới mặt nước, gật đầu tán thành:
- Đúng thế, chúng thật sự lạnh như băng.
Tôi tiếp tục suy luận:
- Khi bước qua các cột trụ em đã có cảm giác rất lạ, nên đã quan sát chúng rất kỹ, thấy mặt trên của chúng hình như có khảm một vật gì đó màu đen to gần bằng nắm tay. Em đếm lại, trên thân rắn cũng có tổng cộng bốn mươi chín chiếc vẩy, mà ở đây cũng có đúng bốn mươi chín chiếc cột trụ, hơn nữa độ to nhỏ của chúng gần như nhau. Em nghĩ rằng những vật màu đen kia có thể chính là mắt xích để mở cánh cửa này.
Nghe tôi nói vậy, Lão Ngũ bán tín bán nghi bước tới mép hồ, vươn cổ ra nhìn lên chiếc cột trụ gần nhất, lão cười khoái chí, rồi nói:
- Hay đấy, hay đấy, xem ra cái trò này lại đúng là có thật. - Nói rồi lão bước qua, giẫm chân lên cột trụ dò dẫm tìm kiếm.
Vừa chạm tay xuống phía dưới, lão đã hơi lảo đảo rồi hét toáng lên:
- Mẹ kiếp, lạnh cóng tay rồi. - Lão quay đầu lại nói với tôi. - Đưa cho ta một miếng kim loại mỏng mỏng.
Tôi chọn ra một miếng tương đối mỏng, ném sang cho Lão Ngũ, lão đưa tay bắt lấy, hai chân nhích sang tận rìa mép của miếng cột trụ, rồi nhẹ nhàng dùng miếng kim loại lần theo đường viền, sau đó dùng lực cậy mạnh, mảnh ghép bung lên, theo lực đẩy bắn thẳng về phía bờ.
Lão Ngũ chỉ kịp “ái chà” một tiếng rồi vội vàng rụt cổ lại, lùi người ra sau, luồng khí trắng vẫn bám sát và sượt qua người lão. Thế nhưng do lão nghiêng người quá mạnh nên đã bị mất đà và ngã tùm xuống hồ nước.
Lão Ngũ vội vã với tay bơi về bờ. Tôi thấy mái tóc, lông mày và chòm râu lưa thưa của lão đều bám đầy những hạt băng li ti màu trắng, trông lão như già đi rất nhiều, trông rất giống ông già Noel. Tôi lập tức nhìn về phía cột trụ, luồng khí trắng giờ đã yếu đi, chỉ còn phụt lên chừng vài centimet, giống như một tia nước, rồi dần dần đùn nhẹ lên và men theo mép trụ tràn xuống dưới nước.
Mặt nước xung quanh cột trụ khi bị luồng khí trắng tràn xuống, cũng lập tức kết thành một lớp băng mỏng trên bề mặt, phát ra những tiếng lách cách rất nhỏ. Luồng khí trắng lan đến đâu, mặt nước đóng băng đến đó, diện tích mặt băng mỗi lúc một rộng hơn, thậm chí ngày một dầy lên, tiếng băng lách cách nghe cũng rõ hơn.
Chứng kiến cảnh tượng đang diễn ra khiến chúng tôi vô cùng ngạc nhiên chỉ biết mắt tròn mắt dẹt nhìn theo, tôi cũng không biết rằng luồng khí trắng đó là chất gì, tại sao lại có tốc độ đóng băng nhanh đến như vậy?
Sắc mặt Lão Ngũ trông rất khó coi, hoảng hốt hét toáng lên:
- Chết rồi, chết rồi, những cột trụ chết tiệt này nối liền với âm mạch dưới lòng đất, mảnh ghép màu đen đó chính là nắp đậy tránh cho luồng khí này trào ra. Giờ nó đã trào ra rồi, nếu không nhanh chóng mở cửa thoát thân, e rằng cả ba chúng ta sẽ bị đóng băng chết cứng ở đây thôi.
Chúng tôi chưa kịp phản ứng gì, Lão Ngũ đã đặt tay lên vai hai đứa, vội nói:
- Nhanh lên, nhanh lên, lôi hết các túi ra, bỏ hết đồ trong túi đó đi!
Tôi và chị Giai Tuệ vẫn ngơ ngác, nhưng lập tức hiểu ra ý đồ của lão, thì ra lão muốn móc hết chỗ vẩy rắn kia trước khi quá muộn.
Hai chị em chúng tôi cũng lập tức lôi hết đồ trong balô ra bỏ lên mặt sàn, chị Giai Tuệ lôi đôi gang tay màu đen chuyên dụng của cảnh sát đưa cho Lão Ngũ, rồi dặn dò kỹ càng:
- Lão Ngũ, đeo găng tay vào, cẩn thận không tay bị đóng băng đấy!
Lão Ngũ lắc đầu quầy quậy, nói liến thoắng:
- Được rồi, đừng có lề mề nữa, tay đóng băng còn hơn là chết cứng ở đây! - Mặc dù nói như vậy, nhưng Lão Ngũ vẫn đeo chiếc găng tay vào, rồi lập tức vòng hai chiếc balô qua cổ. Lão nhảy qua chiếc cột trụ đầu tiên vẫn đang đùn khí lên, bước tới những cột trụ tiếp theo tiến về chiếc cột trụ sát đầu bên kia.
Sau khi bước lên cột trụ thứ nhất ở phía đầu bên kia, Lão Ngũ chọn vị trí đứng sao cho vững vàng, hít một hơi thật sâu, sau đó một tay ấn chặt lên mảnh ghép, tay còn lại cầm miếng kim loại cậy theo đường viền một cách rất cẩn thận.
Chỉ một lúc sau, lòng bàn tay lão run lên, lực đẩy từ phía trong chiếc cột trụ mỗi lúc một mạnh, Lão Ngũ lập tức dùng hết sức mình ấn xuống, biết rằng mảnh ghép đó đã được cậy ra. Lão không dám chủ quan, trước khi từ từ thả tay ra, lão đã đứng lùi ra phía sau, cố gắng tránh đầu khỏi vị trí thẳng đứng với cột trụ, sau đó mới cầm chắc mảnh ghép nhấc ra khỏi miệng lỗ khí. Lập tức một luồng khí phụt mạnh lên trên, đồng thời phát ra một âm thanh vô cùng chói tai.
Do đã được phòng bị từ trước, nên lần này Lão Ngũ không phải khốn khổ như lần trước. Lão lập tức bỏ mảnh ghép vừa cậy được vào balô, kế tiếp nhẹ nhàng nhảy ra sau một bước, chân hạ đúng mặt trụ thứ hai, giống như lão đã ước lượng được khoảng cách giữa hai cột trụ nên mới có thể bước chính xác mà không cần nhìn.
Lão Ngũ nhanh chóng cậy tầm mười tám mảnh ghép, khuôn mặt lão giờ đã bị phủ một lớp băng trắng, cả quần áo cũng đã bắt đầu bị đóng băng cứng đơ.
Cậy được càng nhiều mảnh ghép thì lượng khí phun ra càng nhiều, cả đường hầm giờ đã bị bao phủ bởi một lớp khí lạnh dày đặc, khiến nhiệt độ ở đây nhanh chóng giảm xuống.
Mặc dù tôi và chị Giai Tuệ đứng ở đầu bên này, nhưng vẫn cảm nhận rõ rệt cái lạnh thấu xương, cả người run lên bần bật. Nhìn xuống mặt nước, giờ đã bị đóng băng hơn một nửa diện tích, nhìn sang bờ bên kia, dường như băng đóng mỗi lúc một dầy hơn, thậm chí còn có chiều hướng kéo xuống tận đáy hồ.
Thấy thao tác của Lão Ngũ đã bắt đầu chậm chạp, chị Giai Tuệ giậm chân thật mạnh để giữ ấm cơ thể, hét lớn gọi lão:
- Lão Ngũ, nhanh quay về đưa mảnh ghép để cháu và Lan Lan ghép trước đã.
Nghe thấy vậy, Lão Ngũ mới sực nhớ ra, hét thật lớn trả lời:
- Mẹ kiếp, ta già nên lú lẫn cả rồi, cứ đâm đầu cậy hết chỗ mảnh ghép này để làm cái mẹ gì chứ, trong khi hai đứa bay lại đứng chờ trên bờ. Một trong hai đứa là chuyên gia mở khóa, đáng lẽ phải sớm quay về cho hai đứa ghép trước mới phải.
Nói rồi, lão vội bước qua những cột trụ còn lại quay về bờ bên này, dốc hơn chục mảnh ghép trong balô ra đất, vừa giậm chân vừa xoa bàn tay rồi úp lên mũi cho đỡ cóng, lão nói:
- Lạnh… mẹ kiếp… lạnh quá, hay, hay đấy!
Chị Giai Tuệ vội vàng chà xát người lão cho đỡ lạnh, và phủi đống băng đang dính đầy trên mặt và quần áo.
Thấy người đã đỡ hơn một chút, lão mới nói:
- Không phí thời gian nữa, hai đứa lấy chỗ mảnh ghép này ghép trước đi, ta cậy nốt chỗ còn lại đây. - Chúng tôi chưa kịp trả lời, lão đã xoay người bước tới mép hồ, rồi nhảy qua những cột trụ.
Chương 15:
Tôi nhặt những mảnh ghép đang nằm trên mặt đất lên, vừa chạm vào chúng tôi đã cảm thấy lạnh tê tay, nhưng giờ không phải là lúc chần chừ. Tôi nhìn lại thật kĩ, những mảnh ghép đen bóng này không biết được làm bằng kim loại gì mà khá nặng tay. Chúng dày chưa đến một phân, bốn phía xung quanh có những đường gân nổi, có cả những đường khe lõm, có thể đó chính là để nối ghép với những mảnh khác.
Tôi nói với chị Giai Tuệ:
- Chị Giai Tuệ ơi, giờ hai chị em mình đối chiếu chúng với những hình khắc trên thân con rắn kia để ghép nhé.
Chị Giai Tuệ gật gật đầu, rồi lật đi lật lại mảnh ghép một lần nữa quan sát thật kỹ, rồi nói:
- Chị nghĩ cánh cửa này sẽ mở bung giống như Hắc cẩu linh môn, thế nên nhất định sẽ phải có vài miếng nằm ở vị trí cắt đôi đó, chúng sẽ có một góc vát thẳng, ta hãy tìm những mảnh ghép đặc biệt này trước đi, để tí nữa mới tìm sẽ khó hơn.

Đúng là cảnh sát vẫn thận trọng và chuyên nghiệp hơn, trong tình thế nguy hiểm, mà vẫn có thể bình tĩnh suy xét mọi việc chu toàn như thế. Tôi theo những phán đoán và gợi ý của chị Giai Tuệ để tìm ra những mảnh ghép đặc biệt.
Chỉ một lúc sau, chúng tôi đã tìm ra ba mảnh ghép tại vị trí khe cửa mở, đặt lên cánh cửa cũng thấy tương đương. Tôi tìm một góc chuẩn đặt miếng ghép lên, dùng hai tay ấn chặt xuống, miếng ghép theo lực đẩy của bàn tay nằm vừa khít với thân rắn. Sau khi thả nó cũng không bị rơi ra.
Sau khi đã có kinh nghiệm, hai mảnh còn lại cũng dễ dàng hơn. Vậy là chúng tôi đã ghép xong những vị trí đặc biệt tại đường biên phân chia cánh cửa trên thân rắn khổng lồ, mười lăm mảnh còn lại dần dần chúng tôi cũng lần lượt ghép được chúng lên đúng vị trí.
Vừa mới ghép xong mảnh thứ mười tám, Lão Ngũ lại đeo chiếc balô run cầm cập bước tới, lanh canh vài tiếng, những mảnh ghép còn lại đã được lão đổ ra sàn. Do quá lạnh nên lão lập cập nói không thành câu.
- Hai… hai… mươi… mảnh. Ghép… ghép lại… nhanh lên, Lão Ngũ ta… sắp không… thể chịu được… nữa rồi.
Do lúc trước quá tập trung vào ghép các mảnh ghép lại nên tôi cũng không có thời gian để nghĩ đến những thứ khác, giờ nghe Lão Ngũ nói, tôi mới cảm thấy lạnh thấu xương, răng đánh cầm cập. Nhìn sang bốn phía, các bức tường cũng đã bị phủ một lớp băng trắng mỏng từ lúc nào, mặt hồ chỉ còn lại hai góc sát bờ là thấy những mảnh băng nhỏ đang trôi bồng bềnh, còn những chỗ khác đều đã bị đóng băng dày đặc, nhiệt độ giờ đây ước chừng đã đi xuống tới âm mười mấy độ.
Lão Ngũ vỗ vỗ lên mặt, cắn chặt răng, nói với chúng tôi:
- Ta đi nốt lần này, xong quay lại sẽ giúp hai đứa ghép nốt. - Nói rồi, Lão Ngũ quay người chạy đi.
Nhìn thấy thân hình gầy gò của Lão Ngũ đang bị tầng tầng lớp lớp khí lạnh bao quanh, tôi và chị Giai Tuệ hết sức lo lắng, thế nhưng tình hình trước mắt không cho phép chúng tôi suy nghĩ lung tung, đành quay lại tập trung tiếp tục ghép những mảnh ghép còn lại.
Nhiệt độ trong đường hầm giờ đã xuống tới mức hơi thở của chúng tôi cũng bị đóng băng. Cả mặt hồ giờ đã thành một sân trượt băng lớn, chỉ lộ ra những đầu trụ với luồng khí trắng đang cuồn cuộn lan ra tứ phía, dần dần lấp kín cả không gian bên trong gian hầm này. Luồng khí bay tới đâu, vách tường, mặt nước hay bất kì vật gì bên trong đường hầm đều lập tức phủ kín một lớp băng màu trắng trong suốt.

Con rắn khổng lồ trên cửa cũng bị ảnh hưởng bởi luồng khí lạnh, nên những đường rãnh trên đó cũng dần xuất hiện một lớp băng mỏng, chỉ trong chốc lát chúng đã bị lấp đầy, khiến những mảnh ghép không thể nào đặt khít vào nhau. Tôi và chị Giai Tuệ cũng đang lạnh cóng, toàn thân run bần bật, nhưng vẫn không ngừng dùng kim loại và mũi kim để cậy chỗ băng bám vào, như thế mới có thể lắp từng miếng ghép đúng vào vị trí.
Lão Ngũ quay trở về sau lần thứ ba, đã đổ hết chỗ mảnh ghép con lại xuống sàn, rồi lập tức tới giúp chúng tôi ghép những mảnh ghép còn lại lên thân rắn.
Khi tất cả những mảnh ghép đã được đặt vào đúng vị trí, tôi thầm nghĩ: Đến nước này mà cánh cửa vẫn không mở ra thì chắc chắn chúng tôi phải chết cóng ở đây thôi.
Chúng tôi đứng có quắp, nhảy lò cò cho đỡ lạnh, mắt nhìn không chớp vào cánh cửa đợi nó mở ra, nhưng đợi mãi mà chẳng thấy có dấu hiệu gì, cánh cửa vẫn im lìm đứng đó.
Tôi vô cùng hoảng hốt, tiến tới sát cánh cửa kiểm tra lại trên dưới một lượt, tất cả bốn mươi chín mảnh ghép đều ở đúng vị trí, và vừa khít với nhau, không thể nào có sai sót ở đây. Thế nhưng tại sao cánh cửa vẫn chưa được mở ra, lẽ nào lại có thêm một mắt xích khác? Nghĩ đến đây, tôi bước sang hai bên mép cửa đá quan sát một lượt nữa, hi vọng có thể tìm ra được mắt khóa hoặc là một cái gì đó đại loại như thế.
Lão Ngũ thấy tôi mò mẫm một hồi lâu, mà chưa tìm ra manh mối, nên cuống cuồng chửi bới:
- Mẹ kiếp! Tại sao cái đồ sâu bọ này vẫn không có động tĩnh gì thế?
Chị Giai Tuệ xoa mạnh hai tay vào nhau, miệng không ngừng xuýt xoa vì lạnh, chị tiến tới cạnh tôi hỏi han tình hình, có phải chúng tôi đã ghép sai mảnh ghép, hay còn có vấn đề khác nữa.
Nhìn thấy khuôn mặt chị trắng bợt đi vì lạnh, lông mày cũng bám đầy hạt băng trắng, tôi biết mình cũng không khá gì hơn, lắc đầu nói với chị:
- Mảnh… ghép… ghép… đúng rồi… nhưng… không biết… tại… tại… sao… lại không được.
Lão Ngũ hít một hơn nói:
- Đầu… tiên… là… hắc xà, giờ thì… mẹ kiếp… lại thêm… cái trò này… - Lão vừa nói vừa oán hận phi lên đạp thật mạnh vào thân con rắn.
Bỗng nhiên, tôi phát hiện ra một chỗ rất lạ, ngay tại chỗ Lão Ngũ đạp chân lên, sau khi lớp băng bị vỡ ra, phía trên mảnh ghép hiện ra một lỗ tròn rất nhỏ, vì khi ghép đã quá vội vã, với lại chúng bị phủ một lớp băng dầy bên ngoài, nên vừa xong tôi đã không để ý tới.
Lẽ nào đây chính là mắt khóa? Nghĩ đến đó, tôi vội ngồi sụp xuống, dùng một mảnh kim loại cạo chỗ băng còn sót lại trên mảnh ghép, lấy từ trong túi ra một chiếc kim mảnh, rồi chọc thẳng vào lỗ khóa, bên trong dường như có một vật gì đó châm thẳng vào đầu mũi kim. Tôi bỗng mừng thầm, trong lòng chắc chắn đây chính là mắt xích.
Địa kiện cốt đoạn phá xà môn
Tôi thử áp dụng những cách mở khóa quen thuộc, nhưng do hai bàn tay đã tê cóng tới mức các đầu ngón tay đều đã đông cứng lại và không tuân theo sự điều khiển của trí óc, tôi run rẩy mân mê chúng một hồi lâu, đến việc cầm chiếc kim móc cũng không chắc chứ đừng nói đến việc chọc kim vào lỗ khóa sao cho chính xác.
Tôi cuống cuồng, lo lắng đến mức phát khóc và tự nguyền rủa mình: Mày quả là con ngốc, đang trong lúc quyết định sinh tử mà không mở nổi một cái khóa cho ra hồn. Trong lúc bấn loạn, bỗng nhiên tôi nhớ lại những lời ông nội từng nói, kĩ thuật mở khóa chia làm ba cấp độ, lần lượt ứng với ba giới là Thiên - Địa - Nhân, mà người ta hay tóm lại bằng một câu: “Thiên Kiện quỷ thủ, Địa Kiện cốt đoạn, Nhân Kiện nhục khai.”
Thiên Kiện, dựa vào những năng lực hiện tại của mình, tôi không dám hão huyền; thế nhưng cơ thịt trên hai bàn tay tôi giờ đã cứng đờ tới mức không tuân theo sự điều khiển của lý trí. Chỉ còn cách mạo hiểm thử dùng “ Cốt Đoạn” xem sao. Việc này có thành công hay không không còn quan trọng nữa, đằng nào chúng tôi cũng chẳng còn con đường nào khác. Nghĩ vậy, tôi cắn chặt răng, quyết tâm thực hiện ý nghĩ vừa vụt qua đầu. Tôi lôi từ trong túi ra một chiếc kim nhỏ cực kỳ sắc bén, đưa cho chị Giai Tuệ.
Tôi nhìn thẳng vào mắt chị, giọng đầy quyết tâm sắt đá:
- chị Giai Tuệ, chị chọc sâu chiếc kim này vào đây, kể cả chọc tới tận xương cũng không được rút ra, mà phải tiếp tục xoáy sâu vào để tạo thành lỗ nhỏ ở đó cho em. - Tôi vừa nói vừa xòe bàn tay phải của mình ra, chỉ vào vị trí giữa lòng bàn tay, hơi chệch xuống một chút. - Đây, chị chọc vào đúng điểm này cho em.
Những lời cứng cỏi của tôi khiến chị Giai Tuệ giật nảy mình. Chị co rúm người ra sau, không dám nhận chiếc kim, hoảng hốt nói với tôi:
- Lan Lan, em làm sao thế, sao tự dưng lại nói những lời hàm hồ như vậy?
Lão Ngũ vốn là người ngang dọc trong giới giang hồ đã lâu nên lập tức hiểu ý đồ của tôi. Lão một tay giữ chiếc kim, tay còn lại nắm chặt cổ tay tôi, nghiêm túc hỏi:
- Đấy chẳng phải là kĩ thuật mở khóa cấp Địa Kiện sao? Lan Lan, như vậy có ổn không? Đừng cố gắng quá sức như thế.
Tôi lắc đầu quầy quậy, rồi dứt khoát trả lời:
- Được hay không thì vẫn phải thử một lần xem sao, không thể để mọi người chết cóng ở đây được.
Lão Ngũ nhìn tôi trân trối hồi lâu, rồi gật đầu ra chiều cảm thông:
\\\\
- Được! Nếu như thành công, thì cũng coi như mi đã bước đầu đạt tới cấp Địa Kiện, được như vậy thì cũng xứng đáng để hy sinh. Lại đây, cũng may khả năng lần mò vị trí của Lão Ngũ ta cũng khá chuẩn xác, để ta giúp.
Chị Giai Tuệ lập tức lao tới đứng chắn trước mặt tôi, nhìn thẳng vào mắt Hắc Lão Ngũ, lắc đầu quầy quậy rồi ra sức ngăn cản:
- Không được, cách này mở khóa được hay không cháu không cần biết, nhưng không thể để đôi tay của Lan Lan tàn phế như thế được.
Tôi vô cùng xúc động vì chị Giai Tuệ đã thực lòng lo lắng cho tôi, nhưng việc này không thể trì hoãn được, tôi đành nhẹ nhàng ôm vai chị nói:
- Chị Giai Tuệ, trước mắt chỉ còn cách này mới giúp chúng ta an toàn thoát khỏi nơi đây. Chị yên tâm đi, nếu thành công thì coi như kĩ năng của em cũng được tiến thêm một bước; còn nếu không thành công, thì chúng ta sẽ biến thành băng đá trong nháy mắt, lúc đó đôi tay của em giữ lại cũng còn ý nghĩa gì nữa?
Nghe tôi nói vậy, chị Giai Tuệ im lặng suy nghĩ, nét mặt chị vô cùng đau khổ và day dứt. Sau một hồi, chị hít một hơi thật sâu, không nói thêm câu nào, chỉ lẳng lặng bước sang bên cạnh.
Lão Ngũ búng búng ngón tay vào mũi kim, rồi quay sang nói với chị Giai Tuệ:
- Nhớ giữ chặt lấy Lan Lan, chắc là sẽ đau ra trò đấy.
Chị Giai Tuệ lập tức vòng tay ôm chặt lấy eo tôi. Tôi cảm giác như chị đang dồn hết sức để ghìm chặt nhất có thể, cứ như sợ tôi bay đi mất, khiến tôi đau tức cả vùng bụng.
Lão Ngũ nắm chặt lấy bàn tay đang xòe rộng của tôi, đầu ngón tay cái lần nhẹ theo các khớp xương trong lòng bàn tay tôi, lão chậm rãi giảng giải:
- Lòng bàn tay có tổng cộng mười ba khớp xương, trong đó khớp nối các xương ngón tay với nhau là nơi nhạy cảm nhất, vì vậy người mở khóa cấp Địa Kiện vô cùng coi trọng vị trí này. Khi chọc kim vào sẽ hơi tê và đau một chút, thế nhưng cũng không đến mức quá nghiêm trọng. Dĩ nhiên là…
Đang nói tới đó, tay phải của lão đột ngột ấn mạnh xuống, đầu mũi kim sắc nhọn cũng theo đó đâm sâu vào lớp thịt trong lòng bàn tay tôi.
Ban đầu, tôi không thấy đau lắm, cảm giác chỉ hơi nhoi nhói giống như bị tiêm thuốc, nhưng đến khi mũi kim chạm đến xương, thì lòng bàn tay tôi giống như bị một chiếc búa lớn đập nát. Cảm giác đau đớn lan dần đến mọi điểm trong cơ thể, ngấm vào từng mạch máu nhỏ trong người tôi.
Tôi gào lên đau đớn, toàn thân quằn quại như muốn nổ tung, hai chân giãy giụa điên cuồng. Chị Giai Tuệ càng ôm siết chặt hơn, khiến tôi không thể nào nhúc nhích. Lão Ngũ lập tức thả chiếc kim, hai tay nắm thật chặt cổ tay tôi.
Kể cũng rất lạ, cơn đau vừa xong xảy ra đến bất chợt và đau đến tê dại, nhưng nó cũng trôi qua rất nhanh, chỉ vài giây sau tôi đã không còn cảm thấy đau đớn nữa. Chiếc kim vẫn đang cắm thẳng giữa lòng bàn tay, hơi chuyển động theo từng cơn rùng mình của tôi.
Tôi ngẩng đầu lên nhìn Lão Ngũ qua làn nước mắt giàn giụa, đôi mắt lão rơm rớm, vẻ mặt cũng rất khó hiểu, nhưng lão vẫn nói tiếp với giọng thản nhiên:
- Dĩ nhiên là khi chọc mũi kim vào sẽ khiến ta đau đớn tới tận xương tủy…
Nói xong câu này, lão nhìn tôi, gật gật đầu, nở nụ cười ra chiều hài lòng, tôi có thể cảm thấy sự khích lệ và tự hào lấp lánh trong ánh mắt đùng đục ấy. Tôi hiểu rằng, những câu nói lúc ấy của lão thực ra chỉ là nhằm đánh lạc hướng sự chú ý, để tôi thả lỏng cơ thể và thoải mái tinh thần hơn. Nếu không làm như vậy, tôi e rằng mình không thể nào chịu nổi sự đau đớn tột cùng đó.
Tôi gắng gượng đưa tay gạt những giọt nước mắt đang lăn dài trên má, rồi cúi xuống nhìn lại kĩ hơn lòng bàn tay phải của mình. Cùng lúc đó, vị trí chọc kim vẫn đang tê buốt, nhưng một cảm giác ấm nóng dần lan tỏa, sưởi ấm bàn tay tê cứng của tôi. Cảm giác ấm áp này giống như mạch nước ngầm, chúng nhanh chóng lan tỏa từ lòng bàn tay tới mọi ngõ ngách dù là nhỏ nhất trên cơ thể, khiến tôi cảm thấy như có ngọn lửa đang cháy bập bùng bên trong cơ thể, xua tan cái giá lạnh đang vây bủa.
Chuyện gì đang xảy ra vậy? Tôi cảm thấy hết sức ngỡ ngàng, lẽ nào tôi đã bước đầu đạt tới cấp độ Địa Kiện rồi sao? Và đây chính là cảm giác đó? Tôi ngẩng đầu lên nhìn Lão Ngũ và chị Giai Tuệ đang đứng co ro trước mặt, khuôn mặt hai người vẫn phủ đầy một lớp băng mỏng như muối trắng, đôi môi đã chuyển sang màu thâm tím, run rẩy nhìn tôi chờ đợi.
Nhìn thấy họ trong bộ dạng như vậy, tôi vô cùng hoảng hốt, chắc chắn hai người họ không thể chịu đựng được lâu hơn nữa, giờ không phải là lúc mơ màng nghĩ mình đã đạt được cấp độ nào, mà trước mắt là phải nhanh chóng mở cánh cửa đá kia ra, để mọi người thoát ra ngoài.
Tôi không đắn đo rút chiếc kim đang cắm thẳng vào xương bàn tay ra, những giọt máu trào ra từ miệng vết thương nhanh chóng đông cứng lại thành những hạt băng nhỏ xíu màu đỏ. Tôi lôi một chiếc kim móc vô cùng mảnh từ trong túi ra, dùng đầu kim gảy những giọt băng - máu ra, rồi từ miệng vết thương đang rớm máu, chọc thẳng vào vị trí vừa khoan trên khớp xương nối. Lần này tôi chỉ thấy hơi đau nhức một chút, nhưng cảm giác đó qua đi rất nhanh.
Tôi hít một hơi thật sâu để lấy thêm can đảm, sau đó ngửa lòng bàn tay phải lên rồi thận trọng dò từng bước tới cánh cửa đá. Khi tới nơi, tôi từ từ xoay cổ tay nghiêng xuống, đặt mũi kim vào đúng vị trí lỗ khóa trên mảnh ghép kia, rồi nhanh chóng ấn sâu vào.
Mảnh ghép đó không dày lắm, nên chỉ trong tích tắc, mũi kim đã chạm tới lõi khóa. Đúng lúc đó, tôi bỗng nghe thấy một âm thanh kì lạ phát ra, hơi giống tiếng bật nắp sâm banh. Tiếng động đó ban đầu chỉ vẳng đến bên tai, rồi sau đó không ngừng lớn dần lên.
Tôi giật mình, lòng bàn tay cũng vì thế mà hơi run lên, chút xíu nữa đã làm chiếc kim rơi xuống đất. Tôi bặm môi bặm lợi ấn lại thật chặt, rồi vội vàng quay đầu hỏi chị Giai Tuệ:
- Có tiếng gì thế?
Chị Giai Tuệ ngẩn người ra nghe ngóng một chút rồi hồ nghi hỏi lại tôi:
- Tiếng gì cơ?
Rõ ràng là chị không nghe thấy gì. Tôi quay đầu sang nhìn Lão Ngũ, lão đưa mắt nhìn bốn phía thăm dò, có vẻ cũng thắc mắc không biết chuyện gì đang diễn ra.
Tôi chau mày, rõ ràng là âm thanh đó vọng đến rõ mồn một cơ mà? Tôi không yên tâm, hỏi lại Lão Ngũ:
- Hai người đều không nghe thấy gì sao? Vừa xong có một tiếng động rất lớn vang lên mà.
Lão Ngũ cau có lắc đầu.
- Ta không nghe thấy gì cả. - Rồi lão quay sang nhìn các bức tường một lần nữa, sau đó nuốt nước bọt đánh ực. - Mẹ kiếp, không phải là sắp sập xuống đấy chứ?
Thấy lão ngơ ngác, tôi lắc đầu định thần lại, đành tạm thời bỏ qua vấn đề này vậy. Tôi tiếp tục ấn nhẹ chiếc kim vào bên trong khóa, lần này lại có tiếng lách cách vang lên, giống như một vật gì đó rất sắc nhọn đang cào lên tấm kim loại, vô cùng chói tai. Tôi vội dừng tay lại, những âm thanh đó cũng ngừng theo, thế nhưng bên tai tôi vẫn còn văng vẳng tiếng vọng đang nhỏ dần đi.
Tôi đang định quay sang hỏi lại hai người kia, thì trong đầu bỗng lập tức hiểu ra vấn đề. Tiếng động kia thực chất không phải phát ra từ bên ngoài, mà do chiếc kim móc chạm vào lõi khóa, âm thanh truyền qua các khớp xương khuếch đại lên bội phần và vọng đến khắp cơ thể tôi. Lúc này, tôi mới lĩnh hội được chữ “ Nghe” trong ba bí kíp được truyền lại trong giới Kiện môn. Hóa ra, ý nghĩa của chữ “Nghe” không đơn thuần là dùng tai để lắng nghe mọi vật xung quanh, mà nó còn bao hàm một tầng nghĩa sâu hơn thế, mặc dù mới chỉ nghe được những âm thanh đơn giản, thế nhưng điều đó phần nào đã khẳng định được khả năng của tôi. Xem ra, tôi đã thực sự đạt được cấp Địa Kiện rồi.
Thế nhưng ngay lúc này đây, tôi không có thì giờ để cảm nhận niềm hạnh phúc và cảm giác lâng lâng tự hào đó. Nhiệt độ đang giảm xuống một cách nhanh chóng. Sau khi đạt được cấp Địa Kiện, cơ thể tôi có ấm lên chút ít, nhưng cảm giác đó đã nhanh chóng biến mất, thế nên tôi bắt buộc phải tranh thủ từng giây từng phút để mở cánh cửa đá càng nhanh càng tốt.
Tôi cắm mũi kim vào vị trí thích hợp bên trong lõi khóa, xoay tròn bàn tay một vòng để mũi kim không ngừng chọc sâu vào kết cấu bên trong. m thanh truyền qua xương cốt vang đến tai vô cùng lớn, thế nhưng giờ tôi cũng đã quen dần với chúng, nên cũng không còn hốt hoảng như lúc ban đầu nữa.
Tôi dồn hết sức mình vào lòng bàn tay, xoáy chiếc kim sâu vào trong. Bỗng nhiên, miệng vết thương trong lòng bàn tay trào ra một giọt máu tươi, nhưng nó không rớt xuống đất, mà men theo thân kim từ từ chảy vào bên trong lỗ khóa. Đáng ngạc nhiên hơn nữa là, mặc dù nhiệt độ trong phòng đã xuống thấp đến độ mọi thứ đóng băng trong nháy mắt, thế nhưng giọt máu đó tuyệt nhiên không hề bị ảnh hưởng.
Khi giọt máu chui hẳn vào trong lỗ khóa, những gì cảm nhận được qua da thịt khiến tôi ngạc nhiên đến tột độ. Giọt máu kia đang lan tỏa khắp mọi nơi trong lõi khóa, nó chảy đến đâu là từng bộ phận bên trong được “rã đông”đến đó. Thậm chí, từng phần trong lõi khóa như bánh răng, trụ khóa, lò xo hay thanh móc sau khi thấm máu nóng, liền phát ra thứ âm thanh vô cùng chói tai, giống như những vật đang reo hò ầm ĩ vì đã sống sót qua mùa đông lạnh giá, giờ là lúc mùa xuân sang, chúng ló đầu ra khỏi hang để tận hưởng không khí trong lành và tắm mình trong làn nắng ấm áp.
Tôi cố dồn nén sự kinh ngạc đang trào dâng trong phòng, dựa vào những càm nhận từ xương cốt, để đưa ra phán đoán chính xác về kết cấu bên trong lõi khóa. Thật là thần kỳ, cho dù mắt tôi không nhìn thấu tận bên trong, nhưng trong não bộ lại hiện ra một sơ đồ vô cùng chi tiết và rõ ràng, giờ thì tôi đã có thể dễ dàng nhận biết được đây là loại khóa gì.
Theo dự đoán ban đầu của tôi, con rắn lớn bám trên cánh cửa đá chính là chiếc khóa ghép với bốn mươi chín rãnh lõm xuống…
Dựa vào nguyên lí thông thường mà nói, với loại khóa này chỉ cần ghép đúng các mảnh ghép vào vị trí của nó là cánh cửa sắt sẽ tự động được mở ra. Thế nhưng, bốn mươi chín mảnh ghép kia lại bị lồng trong một kết cấu vô cùng đặc biệt. Trong số đó, có một mảnh ghép mang lỗ khóa và cũng là điểm mấu chốt của cả chiếc khóa khổng lồ này. Tất cả những miếng ghép được liên kết với nhau bằng đường rãnh và đường vân trên thân rắn, tạo thành một mạng lưới ảnh hưởng trực tiếp đến nhau; và cuối cùng, tất cả đường dẫn ngầm đều tập trung đến mảnh ghép mang lỗ khóa. Có thể nói rằng, đây chính là một biến thể của loại khóa lồng khóa với các mảnh ghép nối liền và liên kết chặt chẽ với nhau. Đấy là lí do vì sao chúng tôi đã lắp đúng tất cả các mảnh ghép rồi mà cánh cửa vẫn không chịu mở ra.
Mặc dù loại khóa lồng khóa này có kết cấu phức tạp, khó mở vô cùng, thế nhưng do đã đạt cấp Địa Kiện nên khả năng và kỹ thuật của tôi không còn như trước nữa. Dựa vào những cảm nhận từ khớp xương tay, chỉ một lúc sau tôi đã tìm được sợi dây nối của kết cấu phức tạp này.
Tôi xoay nhẹ kim móc sao cho sợi dây nối kia cũng chuyển động theo, chỉ có điều đoạn cuối của sợi dây nối bị quấn chặt lại thành một búi, nên phải dùng một lực lớn để tháo từng chút ra, lúc đó mới được coi là thành công.
Cho dù đã đạt tới cấp Địa Kiện, nhưng bản thân tôi chỉ là một cô gái, thậm chí còn chưa hoàn toàn trưởng thành, nên sức lực cũng có hạn. Tôi đã làm đi làm lại nhiều lần nhưng sợi dây nối cũng chỉ chuyển động được tí chút. Tôi loay hoay một lúc, quyết định đặt bàn tay trái lên bàn tay phải, dồn toàn lực nhấn mạnh chiếc kim xuống.
Chiếc kim chọc mạnh vào khớp xương, rồi trượt sang hai bên, phát ra âm thanh lạo xạo, khiến phần thịt xung quanh đó cũng bị chọc nát. Không biết tại sao lần này tôi mới cảm thấy đau thực sự.
Đau! Đau đến tột cùng! Lòng bàn tay tôi như bị hàng nghìn con kiến thi nhau xâu xé, mà mỗi vết cắn của chúng đều khiến tôi đau đớn đến tận xương tủy, đau đến điên dại. Cảm giác đau đớn đó khiến cho nước mắt, nước mũi tôi ầng ậc tuôn trào.
Lão Ngũ và chị Giai Tuệ tái mặt không hiểu vì sao tôi lại giãy giụa điên cuồng như thế, vội hốt hoảng chạy tới hỏi han, vì sao lại như vậy? Chị Giai Tuệ cuống cuồng lo lắng, không biết làm cách nào để giúp, chị đành đặt tay lên vai tôi định vỗ về cho đỡ đau.
Thấy vậy, tôi vội vàng né sang một bên, vừa khóc nấc vừa nghẹn ngào nói trong nước mắt:
- Đừng… đừng động vào em, không ai được động vào em, cả hai người đừng động vào em, hu hu… u… u, đừng động vào em…
Trong hoàn cảnh này, bây giờ không phải là lúc giải thích với họ, nhưng trong đầu tôi luôn hiểu rất rõ là dù loại khóa phức tạp đến mấy thì cũng đều có chung một đặc tính vô cùng kỳ quái, đó là khi mở chỉ một người được phép động tay vào, chứ nhất định không thể có bàn tay của người thứ hai. Chỉ cần một tác động nhỏ từ người khác thôi cũng sẽ khiến cho lực cân bằng của kết cấu trong lõi khóa tự động biến mất, điều đó sẽ khiến cho những sợi dây nối bị đảo lộn vị trí, lúc đó thì không thể đoán nổi sẽ nguy hiểm tới mức nào.
Hai người thấy tôi hét ầm lên như vậy liền lập tức đứng khựng lại, ngơ ngác nhìn nhau không biết phải làm sao cho đúng.
Tôi cố gắng chớp mắt, ép những giọt nước mắt rơi ra để nhìn rõ mọi vật hơn, khó nhọc lên tiếng:
- Đừng… đừng lo cho cháu, tí nữa cháu sẽ nói với mọi người, hu hu… u… u…
Lão Ngũ đưa tay lên xoa chòm râu đầy suy tư, rồi bỗng nhiên vỗ trán đánh đét, vẻ như đã hiểu ra vấn đề. Lão vội kéo tay chị Giai Tuệ lại, thì thào:
- Đừng động vào nó, biết là rất đau, nhưng giờ mở khóa mới là việc quan trọng nhất.
Chị Giai Tuệ cũng hiểu được phần nào lời của lão, chị hơi chau mày, nhìn tôi đầy thương xót.
Tôi dường như không thể nào tiếp tục chịu đựng nỗi đau này, liền khóc toáng lên, nhân thể lòng bàn tay đang tê dại vì đau nhức đến tột đỉnh, rồi tiếp tục ấn mạnh chiếc kim vào sâu bên trong.
Sự đau đớn khiến đầu óc cũng trở nên nhức buốt, nước mắt nước mũi không ngừng tuôn ra làm mọi vật đều trở nên mờ ảo trước mắt tôi, mũi kim cũng dần chọc tới điểm tận cùng. Cuối cùng, tôi chốt chặt mũi kim tại vị trí tâm điểm của những sợi dây nối kia.
Tôi chỉ biết gắng sức mở được tâm điểm này thì cả mạng lưới kia sẽ tự động được mở ra. Nghĩ vậy, tôi liền quay đầu lại, nói với chị Giai Tuệ và Lão Ngũ trong nước mắt:
- Hu hu, hai… hai người… đừng… đừng động vào cháu, giờ mới là lúc quan trọng nhất.
Chương 16:
Tôi quay đầu lại, nhắm chặt mắt, đặt trán lên mu bàn tay, rồi dồn toàn bộ cơ thể đè lên mũi kim. Mọi thứ trước mắt tôi đột ngột trở nên tối om và vô cùng hỗn độn. Lúc này đây, tôi chợt nhớ đến ông nội, nhớ hồi nhỏ ông vẫn thường hay chải đầu tết tóc cho tôi, còn tôi ngồi trên chiếc ghế nhỏ, mắt vẫn dán chặt vào bộ phim hoạt hình yêu thích; nhớ những lần ông cốc yêu đầu tôi, nhớ những lần ông cháu cùng đi xem lễ hội hoa đăng ở Trường Xuân,… và cả những vết sẹo lồi lõm ngang dọc trong lòng bàn tay ông. Hồi đó, ông cũng phải chịu nỗi đau đớn cắt da cắt thịt này sao?
Nghĩ đến những ngày ông nội bị mất tích, tôi còn thấy lòng mình quặn đau hơn thế, nỗi đau tinh thần này khiến tôi dần quên đi nỗi đau về thể xác. Ông nội ơi, Lan Lan nhớ ông nội vô cùng.
Như được tiếp thêm sức mạnh, hai chân tôi trụ vững trên sàn, một lần nữa hai tay ấn xuống thật mạnh. Cách… cách… cách…cộp… cộp… cộp… Một tràng những âm thanh kỳ quặc vang lên, búi dây nối kia cuối cùng cũng bị tôi tháo rời. Cùng lúc đó, những sợi lò xo trong lõi khóa giãn ra, những sợi dây nối bốn mươi chín mảnh ghép kia cũng tự động thu về vị trí ban đầu, ổ khóa từ từ được mở ra.
Tôi rút mạnh tay về, chiếc kim móc theo đà rớt xuống đất, rồi quay sang ôm chặt lấy chị Giai Tuệ khóc nức nở. Tôi biết mình khóc không chỉ bởi nỗi đau thể xác, mà còn do từ lúc xuống đây tìm ông nội, tôi đã phải chịu đựng không biết bao nhiêu áp lực đè nặng lên vai, chúng cứ tích tụ cho đến bây giờ, khiến tôi không thể chịu đựng thêm được nữa nên đã òa khóc để giải tỏa nỗi lòng.
Chị Giai Tuệ dường như cũng hiểu cảm giác của tôi, chị ôm chặt tôi vào lòng, an ủi vỗ về đứa em bé bỏng, miệng liên tục dỗ dành.

- Lan Lan nín đi, ngoan nào, em đừng khóc nữa…
Lão Ngũ bước tới bên cạnh chúng tôi, cầm bàn tay tôi ngửa lên, cúi đầu nhìn vết thương giữa lòng bàn tay tôi rồi thở dài, nói:
- Khổ thân nhóc con quá, nhưng dù sao cũng chúc mừng mi đã đạt được cấp Địa… - Chưa kịp nói xong chữ “Kiện” thì bỗng nhiên lão reo ầm lên đầy ngạc nhiên, vỗ mạnh vào hai vai chúng tôi đầy hào hứng. - Nhìn kìa, cửa mở rồi!
Chúng tôi vội vàng quay sang nhìn về phía cánh cửa đá, nó đã tách đôi con rắn trên đó không một tiếng động, rồi từ từ kéo sang hai bên. Đường phân chia cánh cửa càng lúc càng rộng mở hơn, phía sau cánh cửa vẫn chỉ là một màu tối đen như mực, thế nhưng chúng tôi có thể cảm nhận thấy luồng khí ấm áp đang thổi tới.
Luồng khí nóng bay tới bắt gặp không khí lạnh trong hầm phát ra tiếng xèo xèo khe khẽ rất kì lạ, vừa giống tiếng đá viên thả vào chiếc chảo gang đang bị nung nóng, vừa giống tiếng của những kẻ điên dại đang gào thét, mỗi lúc một vang xa, khiến cho người ta cảm thấy vô cùng khó chịu.
Hai luồng khí nóng lạnh đột ngột gặp nhau, ngưng tụ thành một màn sương mờ ảo, rồi nhanh chóng hình thành những giọt nước lớn, giống như những viên trân châu trong suốt bay lơ lửng trên không. Cảnh tượng đó chỉ diễn ra trong nháy mắt, sau đó những giọt nước kia vội vã rơi xuống. Mặc dù luồng không khí trên không rất ấm áp, nhưng dưới mặt sàn vẫn lạnh căm căm, giọt nước chưa kịp chạm sàn đã đóng băng ngay lập tức, rồi vỡ tung bắn ra tứ phía. Cứ như thế, những giọt nước lớn nhỏ không ngừng được hình thành ở phía trên, rồi nối tiếp nhau rơi xuống đất, quy trình đó cứ lặp đi lặp lại liên hoàn.
Chứng kiến cảnh tượng vô cùng hiếm có này, tôi trợn tròn mắt nhìn như bị thôi miên, miệng há hốc đầy kinh ngạc, dường như nó đã làm tôi quên sạch mọi đau đớn trong lòng.
Thấy tôi cứ ngẩn mặt ra nhìn, Lão Ngũ quát ầm lên:
- Còn đần mặt ra đứng đấy làm gì, không nhanh chân đi thôi.
Không đợi tôi kịp phản ứng, lão đã cầm tay tôi, tay kia nắm lấy tay chị Giai Tuệ kéo đi. Khuôn mặt vẫn phủ trắng đầy những hạt băng li ti, lão nhanh chóng bước qua cánh cửa đá, tiến thẳng vào bên trong.

Đi qua cánh cửa đá một đoạn, không gian bên trong tứ phía tối đen, không thể nào nhìn thấy bất cứ thứ gì, thế nhưng bù lại nhiệt độ đã dần trở lại bình thường, luồng khí ấm không ngừng thổi tới từ bốn phương tám hướng, giống như bước vào căn phòng được lắp điều hòa vậy, xua tan cái lạnh cóng người, khiến tôi cảm thấy vô cùng dễ chịu.
Nhưng chỉ một lúc sau, những giọt băng bám trên mặt, trên người chúng tôi bắt đầu tan chảy, nhỏ xuống làm ướt đẫm quần áo, đem lại cảm giác ẩm ướt rất khó chịu.
Tôi ngoảnh đầu nhìn lại phía sau, những giọt nước ngưng tụ lại giờ đã phủ kín không trung, đọng bên ngoài cánh cửa, giống như những sinh vật chuyển động liên tục và cố gắng bay vào trong này. Thế nhưng, chính tại cánh cửa đá - trung tâm gây ra hiện tượng ngưng tụ, những giọt nước đều bị đóng băng ngay lập tức rồi rào rào rơi xuống, phủ thành một lớp dày trên mặt đất. Chỉ có vài viên lăn được vào, nhưng ngay lập tức bị tan chảy thành nước và biến mất trong nháy mắt.
Quan sát một lúc, chị Giai Tuệ mới chậm rãi thở dài, rồi nói với vẻ tiếc nuối:
- Cánh cửa này cũng thật kỳ lạ, nhiệt độ bên trong và bên ngoài sao lại cách nhau một trời một vực như vậy nhỉ? - Chị quay sang nói với tôi. - Lan Lan, tay em thế nào rồi, để chị băng lại cho, không lại bị nhiễm trùng bây giờ.
Nghe chị nhắc tôi mới chợt nhớ ra, lòng bàn tay giật lên đau nhói. Tôi ngửa bàn tay phải lên xem, miệng vết thương giờ đã khô lại và đóng vẩy.
Tôi nhẹ nhàng xoa tay lên vết thương, đáp lời chị Giai Tuệ:
- Giờ em vẫn chưa băng lại được, dù sao tay cũng đã khoan thành lỗ rồi, đành giữ lại, coi như chiến tích vậy.
Nói rồi, tôi cúi đầu xuống lôi từ trong balô ra một ống kim loại vừa ngắn vừa nhỏ nhưng rỗng lõi, ướm vào lòng bàn tay. Thấy kích thước có vẻ vừa vặn, tôi liền cắn chặt răng, lấy hết can đảm cậy miếng vẩy đóng ra. Miệng vết thương lập tức trào máu, men theo rìa bàn tay, nhỏ tí tách xuống sàn.
Chị Giai Tuệ hết sức ngỡ ngàng, vội vã nắm chặt cổ tay tôi, hốt hoảng hỏi tôi có chuyện gì.
Tôi cố nén đau, giải thích với chị:
- Nếu không làm thế thì một lúc nữa miệng vết thương sẽ liền lại, như vậy không phải mọi cố gắng của em đều trở nên vô nghĩa hay sao.
Lão Ngũ gật gù tán thành cách làm của tôi, lão kéo tay chị Giai Tuệ ra.
- Cứ mặc nó, muốn thành tài cần khổ luyện, chứ tài nghệ không phải tự dưng mà có.
Nghe lão nói vậy, chị Giai Tuệ cũng không ngăn cản tôi nữa, mà chỉ nhìn tôi đầy thương xót.
Tôi nghiến chặt răng, chọc chiếc ống kia vào tận bên trong xương khớp nối. Khi chiếc ống không thể vào sâu hơn được nữa, phần đuôi ống chìm ngang bề mặt lòng bàn tay, tôi gần như nín thở vì cơn đau lại ập đến. Tôi từ từ duỗi các ngón tay ra, vết thương không gây cản trở đến hoạt động của chúng.
Đến giờ tôi mới cảm thấy toàn thân nhức mỏi, cơ thể như bị xé ra thành nhiều mảnh, không còn chút sức lực nào. Tôi cố phều phào nói với Lão Ngũ và chị Giai Tuệ rằng muốn nghỉ ngơi một lúc. Chị Giai Tuệ vội vàng đỡ tôi ngồi xuống, để tôi dựa vào vai chợp mắt một lúc, còn chị thì vừa thổi vừa xoa dịu vết thương cho tôi.
Lão Ngũ ngồi khoanh chân bên cạnh, lão hỏi tôi tình hình lúc nãy, lúc thì nghe thấy tiếng động lạ, lúc thì lại khóc ầm lên, có phải đấy là sự trả giá khi đạt đến cấp Địa Kiện, đau đớn tới mức hoang tưởng chăng?
Tôi cũng đang hoài nghi chính bản thân mình, nên đã kể lại tường tận toàn bộ sự tình cùng như cảm giác của tôi, về những điều thần kỳ khi đạt được cấp Địa Kiện cho hai người nghe, về những vết sẹo chằng chịt trên lòng bàn tay của ông nội, chúng thậm chí còn sâu hơn, đau đớn hơn tôi gấp ngàn lần. Vô tình nhắc tới ông nội, trong lòng tôi buồn tê tái, rồi lại nghĩ đến con nhộng chúa đã chết, nước mắt tôi lại không cầm được, cứ thế tuôn trào.
Chị Giai Tuệ thấy vậy liền vỗ về an ủi tôi, còn Lão Ngũ thì hắng giọng dạy bảo.
- Lớn to đầu rồi mà hơi tí nước mắt nước mũi lại giàn giụa. Từ lúc nãy đến giờ mỗi có một tí thôi mà đã khóc đến mấy lần, làm ông nội mi mất mặt quá đi, chẳng giống con gái nhà họ Sở gì cả.
Thấy lão nói đúng, tôi vội lấy tay quệt nước mắt, trong bụng thầm nghĩ nhất định không được để ông nội xấu hổ vì sự mềm yếu của mình. Thế nhưng, những lời nói của lão lại khiến tôi có chút băn khoăn, lão vừa nói tôi không giống con gái nhà họ Sở, vậy lẽ nào trước đây lão đã từng gặp cô gái nhà họ Sở nào rồi?
Tôi đang định hỏi lại thì Giai Tuệ đã lên tiếng bênh vực, đại để là Lan Lan vẫn còn nhỏ, khóc một tí có làm sao, rồi chị quay sang hỏi tôi về lịch sử loại khóa ghép vừa rồi để không khí bớt căng thẳng.
Câu hỏi đánh lạc hướng của chị khiến tôi quên mất những thắc mắc vừa xong, hào hứng quay sang kể cho hai người nghe điển tích về loại khóa ghép. Tôi nhớ ông nội đã từng kể rằng, loại khóa này bắt nguồn từ thế cờ Hoa Dung Đạo. Thế cờ này dựa trên tích truyện Tam quốc diễn nghĩa, đoạn Quan Vân Trường thả Tào Tháo tại Hoa Dung Đạo, đó là một bàn cờ gồm hai mươi quân cờ nhỏ và vuông vắn, tượng trưng cho trận địa tại Hoa Dung Đạo. Phía cuối bàn cờ có một lối thoát với hai cạnh vuông dài, được gọi là đường tháo chạy của Tào Tháo. Trên bàn cờ có bày tổng cộng mười quân cờ, lần lượt đại diện cho Tào Tháo, Trương Phi, Triệu Vân, Mã Siêu, Hoàng Trung và Quan Vũ, còn lại là bốn quân tốt. Luật chơi là, mỗi bước đi phải cách hai ô cờ, dùng số bước đi ít nhất để lùi quân Tào Tháo ra khỏi bàn cờ. Đến cuối thời Tam Quốc, một người chế tạo khóa cao tay đã dựa vào luật chơi của ván cờ này để cải biến rồi chế tạo ra loại khóa ghép này. Chiếc khóa được lắp đặt trên thân con rắn không hề có ô cách, nó thuộc dạng khóa ghép toàn bộ, tức là phải ghép hết những miếng ghép vào đúng vị trí mới có thể mở được, đây vốn được coi là loại rất khó nhằn.
Chị Giai Tuệ gật gù tán thưởng tài nghệ cao siêu của những người thợ làm khóa ngày xưa vì biết tận dung cục diện trận chiến vào trong một chiếc khóa. Ông nội đã từng kể cho tôi biết, khóa ghép được phân thành rất nhiều dạng khác nhau như ghép toàn bộ, ghép đơn, ghép cách… Trong số đó, có một loại mà chỉ cấp Thiên Kiện mới có thể giải được, nhưng ông nhất định không cho tôi biết.
Lão Ngũ ngồi yên lặng nãy giờ, bỗng cất tiếng giục chúng tôi:
- Hai đứa đừng có huyên thuyên nữa. Ở phía bên này có gì đó lạ lắm, hai đứa mau lại đây xem này.
Tôi ngỡ ngàng một lúc rồi đứng dậy lảo đảo đi về phía lão. Chị Giai Tuệ chật vật dìu tôi bước tới.
- Lão Ngũ, có chuyện gì thế? - Chị vừa hỏi vừa đưa tay giữ chắc khẩu súng đang gài ở thắt lưng.
Lão Ngũ thở hắt ra rồi đảo mắt sang tứ phía, sau đó lão lên tiếng với giọng rất nghiêm trọng:
- Hai đứa lại đây mà xem, căn hầm này hình như không có đường biên.
Không có đường biên? Câu nói của lão không đầu không cuối khiến tôi nghe xong hết sức hoang mang, không hiểu lão muốn nói đến cái gì. Tôi nghiêng đầu sang nhìn khắp một lượt, nhưng trong này tối om om, hình như cũng chẳng có gì đặc biệt.
Chị Giai Tuệ cũng nhìn quanh ngó dọc một hồi rồi cũng kêu lên đầy ngạc nhiên:
- Đúng thế, đúng là không có đường biên thật, ba mặt đều không thấy tường đâu, không biết nó rộng đến cỡ nào đây.
Những lời cảm khái của chị Giai Tuệ khiến tôi phần nào lờ mờ hiểu ra vấn đề. Nhìn kỹ hơn, tôi mới phát hiện ra căn hầm phía trước mặt lớn hơn tất cả những địa đạo trước đó không biết bao nhiêu lần, tôi chỉ có thể nhìn thấy rõ ba người chúng tôi, còn phần còn lại đều bị bao trùm bởi một màu đen kịt, nên không thể ước lượng được nó sâu rộng cỡ nào.
Độ rộng của căn hầm này khiến tôi không thể nào tưởng tượng nổi, chiếc gương Dạ Minh của Lão Ngũ nếu như chỉnh góc độ hợp lí thì có thể nhìn thấy mọi vật trong vòng bán kính vài chục mét cơ mà, vậy tại sao sau cánh cửa đá kia lại không có đến một bức tường? Tôi vội vàng hỏi Lão Ngũ liệu chúng tôi có phải lại rơi vào một cửa ải khác hay không.
Lão Ngũ nhếch miệng cười nhạt, chậm rãi thốt lên:
- Hay đấy! - Rồi lão chỉnh lại góc độ chiếu sáng của chiếc gương Dạ Minh thêm vài lần nữa, lia ánh sáng lên phía trên đầu ngửa cổ quan sát.
Một quầng sáng xanh tụ lại tạo thành chiếc bóng tròn rất lớn, phá vỡ bóng đên dày đặc đang bao trùm phía trên đầu chúng tôi. Thế nhưng, cho dù tôi có cố sức nheo mắt quan sát thế nào cũng không thể nhìn thấy bóng dáng nóc hầm hay đường biên hai bên.
Cảnh tượng này khiến tôi sởn da gà, trên những đoạn hầm chúng tôi đi qua chỗ rộng nhất cũng không quá mười mét, kể cả dòng kênh với những cột trụ kia cũng chỉ rộng khoảng một trăm ba mươi tám mét, vậy tại sao khi vào tới trong này, không gian bỗng nhiên lại trở nên kì vĩ đến mức mơ hồ như thế?
Cả hai chị em tôi đều sững sờ không nói năng gì, Lão Ngũ chỉnh chiếc gương hướng lên phía trên một lần nữa rồi nói:
- Không chỉ có thế thôi đâu, hai đứa nhìn lên trên này xem, mẹ kiếp! Không thấy nóc đâu cả!
Tôi lập tức ngẩng đầu theo lời lão nói, phía trên đỉnh đầu vẫn là một màu đen u ám, với những luồng khí mù mịt chậm chạp bốc lên, giống như những đám mây dày kéo đến trước lúc trời giông bão, hạn chế tầm nhìn của chúng tôi.
Lão Ngũ nhăn mặt, mồm há hốc, mắt vẫn nhìn thẳng lên phía trên, hai tay không ngừng điều chỉnh góc chiếu sáng của chiếc gương Dạ Minh, để chùm ánh sáng xanh được tỏa rộng hơn. Nhưng cho dù có chiếu tới góc độ nào đi chăng nữa thì chúng tôi cũng không thể nào nhìn thấy dấu vết của đường biên.
Tôi ngẩn ngơ nhìn sang bốn phía xung quanh, nhịp tim đập mỗi lúc một nhanh, cảm thấy như từ bốn phương tám hướng có hàng nghìn đôi mắt đang nhìn tôi chằm chằm.
- Hay đấy! Hay đấy! - Lão Ngũ gật gù, mồm lẩm bẩm, tay không ngừng đưa tay lên quệt mồ hôi đang đầm đìa trên mặt.
- Chết rồi… - Chị Giai Tuệ bỗng hét lên đầy hoảng hốt. - Mọi người có cảm thấy nhiệt độ mỗi lúc một nóng hơn không?
Tôi ngớ người ra, đưa tay lên lau mặt, rồi nhìn sang hai người họ, lập tức bừng tỉnh. Đúng thế, không biết từ lúc nào mặt chúng tôi đều đã ướt đẫm mồ hôi, toàn thân nóng bừng bừng, cũng không biết từ lúc nào, nhiệt độ trong hầm đã tăng lên nhanh chóng.
Đất bay cát chuyển và lũ hắc ưng
Lão Ngũ đưa tay lên lau những giọt mồ hôi bám trên chòm râu, rồi lão bắt đầu khởi động chân tay, trông bộ dạng giống hệt như tên hề xiếc. Cho dù trông lão rất ngộ nghĩnh nhưng tôi không dám cười thành tiếng mà chỉ cố nghiến chặt răng nhịn cười.
Lão xoay xoay đầu, đưa tay lên tháo chiếc cúc áo trên cùng, để lộ ra những xương sườn nhô hẳn ra ngoài lồng ngực hom hem, rồi chậm rãi giảng giải:
- Cửa ải cuối cùng của Tam Linh môn có lẽ sẽ là Hắc Ưng môn. Chúng ta đã vượt qua được hai cửa Hắc cẩu và Hắc xà, giờ chắc là lúc phải ứng phó với hắc ưng rồi. Hai cửa ải vừa xong đã khó khăn vô cùng, xem ra cửa ải này sẽ càng khôn lường hơn. Bản thân ta cũng không thể tiên liệu được nó sẽ khó khăn đến mức nào.
Nói xong, lão nhíu mày, đưa mắt nhìn ra bốn phía xung quanh, nói với vẻ dè chừng:
- Người ta vẫn thường nói hắc khuyển trên cạn, hắc xà dưới nước, hắc ưng trên không, nếu theo quy luật này thì chỉ lát nữa thôi, những con chim ưng đó từ phía trên kia sẽ sà xuống. Không gian ở đây rộng lớn như vậy, chắc là để chúng có thể thoải mái vẫy vùng.
Nghe đến đoạn những con chim ưng sẽ bay từ trên xuống, tôi vội vàng giơ balô lên che chắn, chỉ sợ chúng bỗng nhiên từ trên sà xuống mổ vào đầu thật.
Chị Giai Tuệ kéo tôi lại gần, ôm chặt lấy vai tôi, rồi hỏi Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, chỗ này quá rộng lớn, nhất định phải có định hướng rõ ràng, nếu không rất dễ bị lạc đấy.
Lão Ngũ gật gật đầu, rồi ngồi sụp xuống, dùng chiếc gương Dạ Minh soi xuống phía dưới chân, đưa tay lần sờ từng vị trí một, kế đó lão ngẩng đầu lên nói với chúng tôi:
- Hai đứa hãy men theo đường khe giữa mấy tảng đá lót này mà đi, cố gắng đi đúng đường, nếu chệch sẽ rắc rối to đấy.
Tôi nhìn theo hướng tay lão chỉ, mặt sàn trong hầm đều được lát bằng những phiến đá lớn với bốn cạnh vuông vức ghép lại với nhau, nếu cứ men theo một đường khe tiến về phía trước, chỉ cần không đi chệch hướng thì tôi nghĩ chắc cũng sẽ đến được đầu bên kia.
Sau khi dàn xếp ổn thỏa, Lão Ngũ cầm gương Dạ Minh dẫn đầu đi thẳng về phía trước, chị Giai Tuệ đi sau cùng còn tôi thì ở giữa. Ba người chúng tôi lần lượt nắm gấu áo của người đi trước, dò dẫm từng bước chân theo đúng khe lát trên sàn đá, từ từ tiến vào bóng đen mênh mông phía trước.
Càng tiến lên, tôi càng cảm thấy nóng không thể chịu nổi, luồng gió oi nồng liên tục thổi tới từ khắp tứ phía giống như trong lồng hấp khổng lồ, khiến cho mồm miệng tôi khô rát, còn mắt mũi thì cay xè đau nhức đến mức không thể nào mở ra được. Những giọt mồ hôi trên cơ thể vừa túa ra lập tức bốc hơi mất, từng lớp từng lớp một, cứ như thế cả cơ thể tôi trong nháy mắt đã bị phủ đầy lớp muối trắng. Lão Ngũ vốn đen sạm giờ phủ đầy những hạt muối trắng li ti, nền đen hoa trắng, trông lão giống hệt con ngựa vằn.
Đi được một lúc, chị Giai Tuệ mở balô lấy ra ba chai nước đưa cho chúng tôi. Tôi uống ừng ực một hơi hết nửa chai, nửa chai còn lại thì tưới lên hai cánh tay, lên mặt. Hơi nước nhanh chóng bốc lên, mang đến cảm giác mát mẻ dễ chịu trong giây lát.
Lão Ngũ vừa bước về phía trước vừa lẩm bẩm trong miệng:
- Luồng khí lạnh lúc nãy là dải khí Đống Thổ thổi xuyên qua lòng đất ba tỉnh Đông Bắc đấy. Điều này thì cũng không có gì ngạc nhiên, nhưng thực sự ta chưa nghe thấy mấy thứ nham thạch trong lòng đất hay đại loại thế bao giờ. Thêm nữa, ta cảm thấy sức nóng này tỏa ra từ lòng đất, giống như nhiệt của xăng dầu, hay nham thạch núi lửa gì đó. Mẹ kiếp! Không phải là đám cẩu Thanh đã tìm ra mỏ dầu ở dưới này đấy chứ? Hay đấy, hay đấy!
Chị Giai Tuệ mệt mỏi đưa tay lên lau mồ hôi, rồi nói:
- Lão Ngũ, ý của lão là, phía dưới này có một mỏ dầu? Theo như cháu biết, một vài mỏ dầu thường phun trào theo chu kì nhất định, phải chăng những người thợ tu sửa hồi đó đã dẫn dầu xuống địa cung?
Lão Ngũ gật đầu, nói thêm:
- Năm 1960, đó cũng là lúc đất nước rơi vào tình trạng đói kém đến cực điểm, ta và sư phụ cùng một vài sư thúc khác đói đến phát điên, nên đã quyết định mò tới mỏ dầu Karamay để kiếm chác, đồ ăn cắp được đem về đổi lấy cháo loãng ăn tạm qua ngày. Trong một lăng mộ của tên vua nào đó cũng được thiết kế y như thế này. Mẹ nó chứ! Lăng được xây trên miệng núi lửa ở giữa sa mạc, vào đó là coi như trụi lông trụi tóc. Ha ha, mẹ kiếp! Nếu thoát ra khỏi đây được, không khéo chúng ta lại trở thành những người có công phát hiện ra mỏ dầu lớn cho quốc gia đấy chứ. Hay đấy, hay đấy!
Tôi nghe lão nói một hồi mà chả hiểu gì cả, đành phải hỏi lại:
- Cái gì mà mỏ xăng với chả mỏ dầu thế, cái đấy ở đây ạ?
Lão Ngũ bĩu môi:
- Nói linh tinh gì đấy, ta đang nói đến mỏ dầu Karamay thuộc Tân Cương cơ mà, nơi ấy cách chúng ta rất xa.
Tôi gật gù, bụng nghĩ thầm Lão Ngũ chắc chắn là đã được đi đến rất nhiều nơi.
Chúng tôi lặng lẽ tiến về phía trước khoảng hơn nửa tiếng, nhưng vẫn không hề nhìn thấy bất kỳ một đường biên nào. Bước đi trong khoảng tối mênh mông khiến cả ba đều cảm thấy chút hoang mang, lại còn thêm nhiệt độ trong căn hầm tăng cao tới mức khó có thể chịu đựng nổi, môi của ai nấy đều khô khốc, tróc vảy, trên người gần như đã cởi hết những đồ có thể cởi, thế nhưng cơ thể vẫn đầm đìa mồ hôi như tắm.
Tôi cũng không ngượng ngùng gì nữa, cởi hết áo khoác ngoài ra buộc quanh eo, trên người chỉ còn độc chiếc áo lót. Dù sao cũng đang trong bóng tối, hơn nữa Lão Ngũ cũng đã lớn tuổi như thế rồi, nên tôi cũng chẳng ngại ngần gì.
Chúng tôi lê từng bước nặng nề, cả ba đều gần như ở trần, chậm chạp bước từng bước vào chiếc lồng hấp tối đen như mực, đi mãi không đến bờ bên kia. Trên đường đi, do đã bị mất nhiều máu cộng thêm thời tiết quá nóng khiến tôi không ngừng xin nước uống. Chị Giai Tuệ đưa cho tôi chai nước của chị, và dặn tôi nên tiết kiệm một chút, nếu không chỗ nước trong balô sẽ nhanh chóng bị tôi uống sạch.
Biết là như thế, nhưng cổ họng tôi khô rát như lửa đốt, mồ hôi vừa túa ra đã lập tức bốc hơi bay mất, cả người như một miếng củ cải khô, nhăn nheo và khô ráp. Tôi đưa tay sờ lên người, làn da sần sùi đầy hạt li ti, đó là vết tích của mồ hôi sau khi bốc hơi đọng lại những hạt muối, giống như cơ thể bị bao phủ bởi một lớp vảy khô.
Qua ánh sáng của chiếc gương Dạ Minh, khuôn mặt của Lão Ngũ và chị Giai Tuệ cũng phủ đầy những vệt muối ngang dọc màu trắng, trông hết sức buồn cười. Lúc này, đến một người hài hước hay trêu đùa như Lão Ngũ cũng trở nên ủ rũ, lặng lẽ cầm gương Dạ Minh lê bước về phía trước, không còn luôn miệng nói “ hay đấy, hay đấy” như trước nữa.
Do nhiệt độ tăng cao, cộng thêm không khí khô rát trong hầm, khiến cho vết thương trong lòng bàn tay tôi nhanh chóng liền lại, giờ nó không đau buốt nữa mà chỉ còn hơi tê tê. Tôi thử dùng mũi kim móc chọc vào ống sắt, rồi lấy ngón tay búng lên đó vài cái, cảm giác nó đã khô cứng lại, nên tôi nghĩ có lẽ đã giữ được vết sẹo đó mãi mãi.
Vân vê một lúc, trong đầu tôi lại nhớ đến ông nội. Từ khi xuống địa cung, tôi đã vượt qua rất nhiều cửa ải khó khăn, nhưng không hề tìm thấy dấu vết gì của ông để lại, nhất định con đường mà ông nội đi không phải con đường mà chúng tôi đã trải qua. Không biết giờ này ông đang phiêu bạt đến đâu, cảm giác không biết ông đang sống chết ra sao khiến tôi đau đớn vô cùng. Tôi chỉ biết thầm gọi trong câm lặng: Ông ơi, giờ này ông đang ở đâu?
Đang trong lúc vô vọng vì không tìm được dấu vết của ông nội, tôi còn thêm một nỗi niềm khác khiến lòng rối như tơ vò, bàn tay tôi giờ đã có một lỗ sẹo, vậy sau này có nên tiếp tục nâng cao kỹ thuật Địa Kiện nữa không? Trở thành một cao thủ cấp Địa Kiện, hay thậm chí là Thiên Kiện. Có lẽ trong thời gian ở dưới địa cung, tôi đã trải nghiệm được không ít những khó khăn, và quan trọng hơn tôi đã đạt được cấp Địa Kiện, trong lòng tôi bỗng nhen nhóm một động lực để khám phá thế giới dưới lòng Cố Cung.
Chương 17:
Đi thêm hơn một trăm mét nữa, Lão Ngũ bỗng nhiên dừng bước, câu cửa miệng “hay đấy!” lại được thốt ra. Lão nhìn chằm chằm về phía trước, mồm liên tục lẩm bẩm:
- Tốt lắm, hắc ưng chuẩn bị xuất hiện rồi, hay đấy, hay đấy! Thì ra nó được thiết kế như thế này!
Nghe thấy những lời Lão Ngũ thốt ra, chị Giai Tuệ lao lên trước, vội vàng hỏi lão chuyện gì sẽ xảy ra, lũ hắc ưng kia ở đâu?
Lão Ngũ giơ chiếc gương lên thật cao, hướng về một điểm rất xa trên đầu rồi nói:
- Hai đứa nhìn xem, kia là cái gì?

Chúng tôi nhìn theo hướng Lão Ngũ vừa chỉ. Dưới quầng sáng của chiếc gương Dạ Minh, lờ mờ cách chúng tôi chừng ba mươi mét là một vật rất lớn, đen thui đang lơ lửng trên không trung. Theo như những gì chúng tôi quan sát được, vật đó to chừng cái chum, hình dáng không theo một quy luật gì, rất khó để miêu tả nó.
Vật đó dường như đã quá quen với không gian tối om, nên việc bất chợt xuất hiện ở phía trên, khiến người ta rất dễ giật mình hoảng hốt.
Tôi tò mò hỏi Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, liệu đó có phải là hắc ưng không ạ?
Lão Ngũ chưa kịp trả lời tôi, thì chị Giai Tuệ đã hét lên một tiếng thất thanh:
- Nhìn kìa, nó đang di chuyển đấy!
Câu nói này khiến tôi sợ rúm cả người, vội vàng quay đầu nhìn lại cho rõ hơn, đúng là vật đó đang chuyển động thật. Trong bóng tối, con hắc ưng từ từ cất cánh, có vẻ như nó đang bay thẳng lên không trung, cách chúng tôi mỗi lúc một xa. Không chỉ thế, toàn thân nó cũng liên tục thay đổi hình dạng, cảm giác như đã lớn hơn lúc nãy rất nhiều.
Cảnh tượng đó khiến tôi trợn tròn mắt, tim đập loạn xạ, trong đầu bỗng dưng xuất hiện những ý nghĩ kỳ quặc, con hắc ưng này nhất định là chim thật rồi, nếu không thì tại sao lúc nãy nó có thể lơ lửng giữa không trung, chỉ trong nháy mắt lại sải cánh bay vút lên cao và thay đổi hình dạng nhanh như thế?
Lão Ngũ vuốt chòm râu rồi nắm lấy tay hai chị em chúng tôi, nói:
- Nếu như ta đoán không nhầm thì đấy chính là điểm mấu chốt của cửa ải này, giới giang hồ thường gọi là Tiêu Nhãn. Con vừa rồi chính là chim dò đường, chứng tỏ lúc chúng ta tiến vào động Hắc ưng đã chạm vào một bộ phận nào đó khiến con chim kia bay lên. Đừng nghĩ rằng nó có thể lơ lửng trong không trung, chắc chắn nó phải được treo bằng một loại xích lớn, ròng từ trên xuống. Nhưng thôi, đừng có đứng đực mặt ra nhìn nó nữa, sống chết thế nào thì cứ đi về phía trước là biết ngay thôi.

Không đợi Lão Ngũ nói xong, tôi đã nhấc gót đi lên phía trước.
Chưa kịp đặt chân xuống đất, Lão Ngũ từ đằng sau đã giật túm tóc tôi lại, cáu kỉnh nói:
- Con ngốc này, thích chết đấy à? Để ta nói hết câu đã chứ.
Nghe lão nói vậy, tôi lè lưỡi rồi bước ra phía sau lão, thực sự giờ phút này tôi mới ý thức được rằng đã bước chân vào bên trong hầm thì nguy hiểm rình rập khắp nơi, chỉ cần sẩy một li là đi vạn dặm.
Lão Ngũ kéo chúng tôi ngồi xuống, rồi dùng móng tay cào nhẹ lên mặt sàn đá, sau đó quay sang hỏi chị Giai Tuệ:
- Mi đã nhận ra đây là loại khóa gì chưa?
Chị Giai Tuệ cúi sát người xuống, mặt gần như chạm vào sàn đá, chị dùng gương Dạ Minh soi xét hồi lâu rồi mới ngẩng đầu lên nói với Lão Ngũ:
- Cháu không nhìn thấy bất kỳ dấu hiệu gì khác thường, thế nhưng theo cháu thì lũ hắc ưng này bay lượn trên không trung, còn chúng ta thì lại không thể với tới chúng, thế nên chắc chắn cỗ máy điều khiển sẽ phải được lắp đặt phía dưới mặt sàn này.
Lão Ngũ gật gù ra chiều hài lòng, rồi hể hả giải thích:
- Chính xác, đầu óc mi phản ứng cũng không tồi đâu. Vừa nãy khi ở cửa ải nhộng chúa, ta quên chưa nói với hai đứa, ngoài những cỗ máy liên kết, còn có những cỗ máy tách rời nhau. Tức là mặt đất và không trung tuy không tiếp xúc với nhau, nhưng chúng được nối lại bằng một loại dây vô cùng đặc biệt, và đây chính là một trong số đó. Trông thì tưởng như chúng không hề liên quan gì với nhau, nhưng chỉ cần vô tình chạm vào một chi tiết cho dù là nhỏ nhất thì cũng khiến cả cỗ máy hoạt động, đến lúc đó e là tính mạng khó giữ.
Nghe thấy vậy, tôi vội co rúm người lại, đưa mắt nhìn ngó hai bên xem mình có vô tình giẫm vào cái gì không.
Lão Ngũ ngẩng đầu nhìn theo con hắc ưng đang dần biệt tăm trong không trung, lão thở dài nói:
- Ba mươi sáu con hắc cẩu ứng với sáu sáu thuật mở; bốn mươi chín con hắc xà ứng với bảy bảy thuật mở. Mẹ kiếp! Vậy thì hắc ưng chỉ có nhiều hơn chứ không thể ít đi, có khi lên đến sáu mươi tư con cũng nên.
Chúng tôi đều hiểu ý của lão, theo trật tự của Tam Linh môn thì số lượng hắc ưng không thể ít hơn sáu mươi tư con, chỉ có điều không biết lần này chúng sẽ tấn công theo hình thức nào, nhưng chúng tôi có thể tưởng tượng được sự nguy hiểm đang rình rập trước mắt.
Tôi quay đầu nhìn ngang ngó dọc đầy vẻ sợ hãi, tay vẫn nắm chặt lấy gấu áo Lão Ngũ, rụt rè hỏi:
- Lão Ngũ ơi, bao giờ chúng mới xuất hiện thế?
Lão Ngũ lắc đầu, cười giọng lạnh tanh:
- Cái lũ chim trời đánh ấy thì biết thế nào được, không khéo lại xuất hiện ngay bây giờ ấy chứ!
Lão Ngũ vừa nói dứt câu, tôi bỗng cảm thấy mặt sàn rùng rùng chuyển động, giống như vừa xảy ra một trận động đất nhỏ, khiến cả ba người chúng tôi đứng phắt dậy.
Phản ứng đầu tiên của chị Giai Tuệ là, một tay nắm chặt tôi, tay kia níu chặt cánh tay Lão Ngũ, hoảng hốt hỏi lão:
- Lão Ngũ, cỗ máy đó đã bắt đầu hoạt động rồi à?
Lão Ngũ đưa tay ra hiệu im lặng, rồi khẽ khàng nói với chúng tôi:
- Đừng có hét lên, ngồi xuống, quan sát mặt sàn đi.
Tôi và chị Giai Tuệ lập tức làm theo, cúi đầu chăm chú nhìn xuống mặt sàn đá.
Tôi vô cùng kinh ngạc khi thấy tất cả những phiến đá lát sàn đều đang di chuyển bập bềnh, cứ như chúng đang nổi trên mặt nước vậy, những đường khe giữa các phiến đá bắt đầu tách dần ra. Cùng lúc đó, từ phía dưới lòng đất vô số những hạt đất màu đen nhỏ li ti đùn lên qua những khe rãnh đó, giống như làn khói mỏng đang dần dần lan tỏa. Sau khi bay lên được chừng vài centimet thì bị khí nóng đang hừng hực trong hầm đánh tan, khiến cho chúng phải tỏa đi khắp mọi nơi, những phiến đá khổng lồ màu xanh dần chuyển thành xám xịt, chỉ một chốc sau cả mặt sàn đã bị phủ kín bởi một lớp đất dày. Tôi càng nhìn càng cảm thấy hãi hùng, chỉ biết đứng trân trân bám chặt lấy Lão Ngũ.
Lão Ngũ dùng đầu ngón chân quắp lấy một chút đất đen đưa lên quan sát kỹ hơn.
Trước mắt chúng tôi, những hạt đất này vô cùng nhỏ và nhẹ, chẳng trách nó có thể nhẹ nhàng tung mình lên không trung như thế.
Trong lúc tôi còn đang mông lung chưa hiểu rõ đầu đuôi sự việc thì đã thấy Lão Ngũ quay sang một bên nhổ toẹt một bãi nước bọt, rồi cay nghiệt nguyền rủa:
- Mẹ chó nhà nó, thì ra chúng đã chôn lớp đất bay cát chuyển ở ngay bên dưới, quá hay…!
Tôi biết Lão Ngũ bản chất vốn là dân giang hồ, nên đến nói chuyện cũng quen thói thô lỗ, văng tục bừa bãi. Nhưng vì đi cùng hai chị em chúng tôi, đều còn trẻ và là con gái nên lão đã kiềm chế đi rất nhiều. Khi nghe lão nói xong, tôi lập tức đoán ra, cái thứ gọi là “đất bay cát chuyển” kia chắc chắn phải vô cùng lợi hại, người cố tình sử dụng nó phải vô cùng ác ý, thì mới khiến Lão Ngũ mất bình tĩnh văng ra những câu như thế.
Mặt sàn dưới chân vẫn không ngừng rung chuyển, lớp đất bay màu đen kia đùn lên mỗi lúc một nhiều, chỉ một lúc sau chúng đã ngập ngang bắp chân chúng tôi. Có không ít những hạt đất nhỏ còn cố bay lên cao hơn, khiến không gian trong phòng càng trở nên mù mịt. Đặc biệt là trong hoàn cảnh căn hầm thì đang nóng như lửa đốt, những hạt đất nhỏ thì cứ bay lên bám đầy trên mặt trên người, thậm chí còn vào tận hốc mũi, hốc mắt, khiến chúng tôi cảm thấy vô cùng khó chịu.
Chị Giai Tuệ nhanh chóng quay lại, lấy từ trong balô ra một cuộn băng vải, xé toạc ra thành ba đoạn dài.
Lão Ngũ nghe thấy tiếng xé vải liền quay lại xem có chuyện gì. Chị Giai Tuệ vội dúi vào tay mỗi người một đoạn vải, nói:
- Lấy tạm cái này bịt mũi đi, đừng để hít phải chúng. - Nói xong, chị lại lấy từ trong balô ra chiếc kính chống bụi đưa cho chúng tôi. Xem ra, chị Giai Tuệ thực sự là một người rất chu đáo, trước khi lên đường chắc đã phải chuẩn bị rất nhiều thứ, chẳng trách chiếc balô cảnh sát của chị ấy lại to và nặng đến vậy.
Tôi dụi dụi cặp mắt đang đỏ rát vì đất bay, thấy chị nói không hề sai, liền vội vàng cầm chiếc kính đeo lên, đang định cầm mảnh băng vải bịt mũi thì Lão Ngũ giật lại, quát ầm lên:
- Bịt cái gì mà bịt, không thấy trong này đang nóng giãy lên à? Bịt rồi chết ngạt ra đấy!
Nói xong, lão vứt những mảnh băng vải xuống đất, chỉ đeo chiếc kính chống bụi rồi nắm chặt lấy tay hai đứa tôi kéo về phía mình, giọng hổn hển ra lệnh:
- Giờ không phải là lúc để nói cho hai đứa bay về mọi chuyện đang diễn ra, hai đứa ôm chặt lấy ta, càng chặt càng tốt, không sợ ta tắc thở mà chết đâu. Nhớ rằng, tuyệt đối không được hé môi, cử động hay tự ý làm gì nếu không có lệnh của ta, qua được cửa ải này hay không là phụ thuộc vào hai đứa đấy. Chỉ cần nói một chữ, động đậy một chút là coi như cả ba chúng ta tự đào mồ chôn mình đó nghe.
Nghe Lão Ngũ nói một hơi dài như thế, nhưng tôi vẫn thấy mơ hồ khó hiểu, vội hỏi lại lão:
- Lão Ngũ, vì sao lại thế? Cuối cùng lũ đất bay này là cái…
Chưa kịp nói hết câu, mặt sàn dưới chân bỗng vang lên một tiếng động cực lớn, giống như có một mũi khoan khổng lồ đang lao từ dưới lòng đất lên hay như một lưỡi cưa sắc bén đang cưa ngang thanh thép, khiến người ta dựng cả tóc gáy. Hơn nữa, âm thanh đó mỗi lúc một thêm dữ dội hơn, từng tràng từng tràng dội tới, khiến đầu tôi ong ong như muốn nổ tung, hai mắt hoa lên. Ngay sau đó, mặt sàn dưới chân rung chuyển mạnh, hết nghiêng sang trái rồi lại lắc sang phải, khiến cả ba chúng tôi lảo đảo không ngừng.
Mọi việc diễn ra hoàn toàn bất ngờ nên cả người tôi cũng chao đảo rồi ngã nhoài xuống đất. Lão Ngũ nói gọn lỏn một câu:
- Đến rồi đấy! - Rồi lập tức đưa tay ra ôm chặt lấy tôi và chị Giai Tuệ, làm cả hai chúng tôi đều bị kẹt cứng ngắc trong lòng lão. Ngay sau đó, tôi nghe thấy có tiếng gió rin rít, thổi thốc từ dưới lên, và cứ thế, những hạt đất đen tung mình theo chiều gió, bắn mạnh vào chân đau rát.
Cảm thấy chân mình rát không chịu nổi, tôi bèn thận trọng cúi mặt nhìn xuống. Lớp đất đen phía dưới không ngừng vun dày lên, kì lạ hơn nữa, từ trong đống đất đen đó lại bắn ra những hạt cát trắng to bằng hạt vừng. Những hạt cát trắng đó như được bắn thẳng từ dưới lòng đất lên, xuyên qua lớp đất đen, cọ xát vào nhau tạo nên những tiếng rin rít rất lạ tai.
Những hạt cát trắng bay lên khoảng hơn chục centimet thì lạo xạo rơi xuống nền đất đen. Lạ ở chỗ, sau khi rơi xuống, chúng lập tức lún sâu, tạo nên những vòng xoáy trôn ốc trên bề mặt, không chỉ thế, những vòng xoáy đó còn di chuyển lung tung không theo một quy luật nào, thậm chí còn va vào nhau, phát ra những tiếng “tinh tinh tang tang” rất vui tai. Cùng lúc đấy, những hạt đất đen xung quanh cũng bị hút theo tạo thành những vòng xoáy cao dần, giống hệt như vòi rồng thu nhỏ.
Tôi đưa mắt nhìn, bốn bề đều là những vòi rồng đang không ngừng xoáy lên cao, tiếng rít mỗi lúc một to hơn, hệt như một cơn lốc lùa qua khe cửa xé nát những tấm giấy dán cửa.
Cảnh tượng trước mắt khiến tôi ngỡ ngàng, không rõ chúng tôi đang ở dưới lòng đất hay trên sa mạc nữa? Đang lan man suy nghĩ, tôi bỗng cảm thấy lớp đất đen kia giờ đã ngập quá đầu gối, và đang tiếp tục dâng lên nhanh chóng. Lớp đất không ngừng dâng lên, khiến cho nỗi sợ hãi trong lòng tôi càng tăng lên bội phần.
Bỗng nhiên, tôi nhận thấy một điều rất lạ, mỗi khi lớp đất đen tràn lên cố lấp lớp cát trắng thì lập tức lớp cát trắng sẽ lại đùn lên cao hơn, rồi tiếp tục xoáy tròn trên bề mặt đất đen. Thật sự không thể đoán ra được phía dưới sàn đá phải chôn một lượng đất cát nhiều như thế nào.
Tôi cũng đã dần dần hiểu vì sao lúc nãy Lão Ngũ lại gọi chúng là đất bay cát chuyển, ắt hẳn là lão muốn nhắc đến khả năng tự chuyển động của hai loại đất đen cát trắng này. Qua cảnh tượng kì vĩ trước mắt, tôi thầm đoán định cái thứ gọi là đất bay cát chuyển này e là sẽ vô cùng khó đối phó.
Nghĩ đến đây, tôi quay về phía Lão Ngũ, vì không được nói chuyện, nên đành dùng ánh mắt để dò hỏi. Lão Ngũ nhìn tôi khẽ gật đầu, nói thầm trong miệng:
- Không được động đậy! - Rồi lão nhẹ nhàng đưa chiếc gương Dạ Minh đang cầm trong tay lên miệng, ngậm thật chặt giữa hai hàm răng, tia sáng xanh của chiếc gương quét ngang mặt, khiến mặt mũi ba chúng tôi biến thành một màu xanh lét trông rất đáng sợ. Lão Ngũ vẫn ra sức ôm chặt chúng tôi vào lòng. Có vẻ bản thân lão cũng có chút lo lắng, nên dù ôm chặt thế nào tôi vẫn cảm thấy hai bàn tay lão hơi run run.
Do nhiệt độ trong phòng rất cao, nóng rát đến kinh người, nên tôi và chị Giai Tuệ đều đã cởi hết áo ngoài, trên người chỉ còn độc bộ đồ lót. Không những thế, lại bị Lão Ngũ ghì chặt trong lòng, khiến người tôi vừa nhớp nháp vừa đau nhức. Đây là lần đầu tiên tôi bị một người đàn ông ôm chặt như thế, dù biết Lão Ngũ cũng ngang tuổi ông nội, nhưng tôi vẫn cảm thấy vô cùng ngại ngùng, mặt mũi đỏ bừng bừng. Tôi hơi nghiêng đầu liếc sang chị Giai Tuệ, hình như chị không để ý gì đến tôi, mà chỉ nhìn chằm chằm vào lớp đất cát đang không ngừng dâng cao.
Đang mải nghĩ ngợi miên man thì một thoáng sau lớp đất cát đã ngập tới ngang ngực tôi. Tuy không có cảm giác bị đè nén, nhưng tôi vẫn cảm thấy hết sức sợ hãi, nếu cứ tiếp tục như thế này, chẳng mấy chốc đống đất cát này sẽ nhấn chìm chúng tôi cho đến chết. Tôi đưa mắt nhìn Lão Ngũ cầu cứu, khuôn mặt lão nhìn cũng có vẻ căng thẳng, nhìn thẳng vào đống đất cát đang dâng lên không hề chớp mắt, nhưng tôi lại không hề nhìn thấy sự sợ hãi trong ánh mắt đó.
Thấy Lão Ngũ như vậy tôi cũng cảm thấy yên tâm đôi chút, trộm nghĩ, dù sao lão cũng thấp hơn tôi, nếu đất cát có dâng lên thì lão sẽ là người ra đi đầu tiên.
Bỗng nhiên, tôi cảm thấy cơ thể mình nhẹ tênh như được nâng đỡ, bàn chân dần dần rời khỏi mặt sàn đá, lơ lửng như đang nổi trên mặt nước, hay đúng hơn là bất ngờ bị rơi xuống nước rồi từ từ nổi lên. Cảm giác này đến khá đột ngột, khiến tôi thấy mình như đang bị mất trọng lượng. Quay sang nhìn Lão Ngũ và chị Giai Tuệ thì thấy cả hai người họ cũng đang bắt đầu nổi lên, thế nhưng khi nhìn xuống, lớp đất cát phủ ngang ngực tôi vẫn không hề tụt xuống mà vẫn giữ nguyên vị trí. Nhìn sang bốn phía, tôi mới nhận ra rằng, thì ra chúng tôi đang nổi lên cùng với lớp đất cát đó. Xem ra, lớp đất cát này dâng đến một mức độ nào đó sẽ tự động nổi lên. Mặc dù mới học hết cấp Hai là bỏ học, nhưng đôi chút kiến thức vật lý đơn giản tôi vẫn nắm được, song thật không thể tưởng tượng được rằng loại đất đen cát trắng lại có thể sản sinh lực đẩy mạnh như thế, điều này thực sự đã vượt khỏi tầm hiểu biết của tôi. Đây đúng là một bảo vật hiếm có, nhưng cũng nhờ vậy mà chúng tôi sẽ không bị chết chìm ở đây.
Nghĩ vậy, tôi liền thở phào, nghĩ thầm mình còn phúc đức, giờ chỉ còn biết chờ đợi xem chúng tôi bị đẩy tới mức nào thôi. Căn hầm này không có nóc, cũng chẳng có đường biên, nếu như cứ tiếp tục nổi đến tận đỉnh, biết đâu lại tìm thấy đường ra?
Thở phào nhẹ nhõm, tôi bỗng cảm thấy trong người vô cùng khoan khoái và mát mẻ dễ chịu hơn rất nhiều.
Từ khi đặt chân vào trong căn hầm này, chúng tôi như bước trên sa mạc, không khí ngột ngạt, nóng bức rất khó chịu, mất nước đến độ đầu óc quay cuồng. Thế nhưng có một điều rất lạ là ở chỗ, lớp cát này phủ đến đâu thì ngay lập tức mọi nóng rực, khó chịu lập tức biến mất đến đó, khiến cho người ta cảm thấy cơn nóng như dịu đi nhanh chóng. Do quá chú tâm vào lớp đất cát đang dâng lên, đến giờ tôi mới nhận ra cảm giác này, không biết nó đã xuất hiện bao lâu rồi.
Dòng cát cứ thế liên tục đùn lên, giống như những con sóng đang không ngừng dâng lên lấp kín cả căn hầm, những hạt đất cát mang hai màu trắng đen hòa quyện vào nhau, tạo thành hai mảng trắng đen rất vui mắt.
Không khí nóng rực ngột ngạt của căn hầm giờ đã dần trở nên mát mẻ và dễ chịu hơn nhiều. Cơ thể chúng tôi bị lớp cát dày bao bọc, nhưng lại không hề cảm thấy khó chịu, chỉ có điều cảm giác mát mẻ đó mỗi lúc lại trở nên lạnh hơn, song so với cái lạnh rét buốt ở cửa ải Hắc Xà thì ở đây vẫn dễ chịu hơn nhiều.
Lão Ngũ vẫn ôm chặt lấy tôi và chị Giai Tuệ, cả ba không ngừng bị đẩy lên phía đỉnh hầm cùng với lớp đất cát.
Mặc dù trong lòng đang rất sợ hãi nhưng tôi vẫn gắng giữ bình tĩnh, lặng im đưa mắt nhìn ra bốn phía xung quanh. Những vòng lốc xoáy nhỏ đã biến mất từ lâu, và cũng không còn âm thanh lách cách vui tai kia nữa. Những hạt đất đen cát trắng tuy hòa lẫn với nhau, mắt thường rất khó phân biệt được, nhưng nhìn kỹ chúng vẫn là những cá thể riêng biệt không ngừng chuyển động, khiến người ta có cảm giác mỗi hạt cát là một sinh vật sống.
Cảnh tượng đang diễn ra thật sự khiến tôi rất tò mò, và đã vài lần định mở lời hỏi Lão Ngũ thực hư, không biết rằng chúng tôi cứ dâng lên như thế này đến bao giờ mới tới được đỉnh? Thế nhưng, nhìn sang thấy vẻ mặt hết sức nghiêm trọng của Lão Ngũ, tôi lại nhớ đến những lời dặn dò ban nãy, không được tự ý hành động cũng như lên tiếng, nên tôi lại cố nén tò mò, cắn chặt răng, im lặng chờ đợi.
Nâng lên khoảng hơn mười mét, lớp cát tự chụm lại với nhau tạo nên những đồi cát lớn. Chúng bay lên rồi hạ xuống, hạ xuống rồi lại bay lên… giống như bên dưới có vật vô hình nào đó đang muốn nuốt chửng chúng. Lớp cát sền sệt như dầu nhớt, để mặc vật vô hình phía dưới ra sức đâm lên, sau đó liên tục thay đổi hình dạng, mà vẫn phủ kín bên trên, không hề bị tung ra khiến chúng tôi không thể phát hiện vật trong đó là thứ gì.
Tôi lo lắng đánh mắt nhìn ra tứ phía, lo sợ rằng dưới lớp đất cát kia là con vật hung ác nào đó đang chực chồm lên, liệu nó có ăn thịt người không? Nghĩ đến đó, mồ hôi trên trán tôi túa ra như tắm, lúc này tôi thậm chí còn sợ hãi hơn khi ở cửa ải nhộng chúa.
Tôi quay sang nhìn Lão Ngũ, sắc mặt của lão âm u tới mức khó hiểu, nhưng ánh mắt vẫn kiên định, ra hiệu cho chúng tôi hãy bình tĩnh, giữ nguyên trạng thái như bây giờ, tuyệt đối không nhúc nhích.
Tôi khẽ gật đầu tỏ ý tuân lệnh, nhưng đột nhiên mũi tôi ngứa ran lên như có con gì đó chui vào mũi. Tôi thử khịt khịt vài cái để giảm cơn ngứa, nhưng không sao chịu nổi, liền hắt xì thẳng vào mặt Lão Ngũ.
Tôi ngượng ngùng dùng ánh mắt để xin lỗi lão, nhưng khuôn mặt Lão Ngũ lúc này trắng bệch, cắt không ra giọt máu, đôi mắt lão hoang mang đến cực điểm, hai cánh tay bấu chặt lấy tôi và chị Giai Tuệ, khiến cả ba người chụm sát đầu lại với nhau.
Cùng lúc đó, chúng tôi nhận thấy ngay dưới chân mình là những rúng động khủng khiếp, đất cát theo đó sụt nhanh xuống khiến ba người chúng tôi chao đảo không ngừng. Ngay sau đó, lớp đất tự phân thành vô số những nhánh nhỏ, giống như những con rắn đang uốn lượn mềm dẻo. Nhưng đặt biệt là ở chỗ, chúng chỉ trượt đi trong không trung, mềm mại như những mảnh lụa, nên không hề gây cho chúng tôi khó chịu hay đau đớn.
Đầu óc tôi lúc đó cực kì hoang mang, tại sao lớp đất cát đó lại đột ngột thay đổi như thế? Một loạt tiếng động rất lớn dội lên, “bụp… bụp… bụp…” những đồi cát tự chuyển động kia vỡ toạc ra, giống như một tràng súng liên thanh khiến vô số những hạt đất cát trắng đen lẫn lộn bay ra tứ phía, bắn rào rào vào mắt kính chắn bụi mà chúng tôi đang đeo. Mọi việc diễn ra quá bất ngờ, khiến tôi sợ hãi nhắm tịt cả hai mắt lại. Nhưng tôi vẫn còn kịp thoáng nhìn thấy một vật đen sì vọt lên, kèm theo tiếng gió rít mạnh, rồi vật đó bay thẳng lên đỉnh hầm, chưa kịp định hình thì nó đã biến mất vào bóng đêm.
- Hắc ưng!
Lão Ngũ cố cắn răng giữ im lặng từ này đến giờ cuối cùng cũng phải thốt lên, giọng lão đầy vẻ sợ hãi và bất an cực độ, chiếc gương Dạ Minh rơi sấp mặt chiếu sáng xuống đất cát, cả căn hầm lập tức chìm vào bóng tối.
Do Lão Ngũ bất ngờ thốt lên, làm rơi chiếc gương Dạ Minh, nguồn sáng duy nhất vào lúc này, khiến không gian xung quanh chìm vào một màu đen kịt, mọi cố gắng trao đổi ánh mắt của chúng tôi cũng bị dập tắt trong nháy mắt.
Mặc dù vẫn được Lão Ngũ ôm chặt trong lòng, nhưng giờ đây tất cả đã chìm vào bóng tối, sự sợ hãi một lần nữa vây bủa lấy tôi. Hai bàn tay ngập trong cát của tôi quờ quạng nắm chặt lấy cạp quần của hai người kia, dường như có vậy tôi mới yên tâm được phần nào. Kể cũng lạ, sau khi con vật kia bay vút lên không trung, những nhánh cát đang chuyện động kia bỗng từ từ dừng lại.
Trong lúc não bộ tôi đang hoạt động hết công suất sau hàng loạt những sự kiện rất kỳ lạ vừa xảy ra, thì Lão Ngũ bỗng thì thầm:
- Thả tay ra đi, hai đứa có thể cử động được rồi đấy. - Giọng lão đầy vẻ tang tóc, rồi từ từ nới lỏng cánh tay đang ôm chặt chúng tôi.
Vừa rời khỏi tay Lão Ngũ, bỗng nhiên tôi thấy người trôi xa dần, giống như vừa ngã từ trên cao xuống, khiến cơ thể mất thăng bằng, bắt đầu muốn lộn ngược xuống dưới. Cũng may là lớp đất cát có lực đẩy rất mạnh, sau một hồi tay chân khua khoắng loạn lên, cuối cùng tôi đã nổi được lên.
Do mải lo việc giữ thăng bằng nên tôi quên khuấy cả việc hỏi Lão Ngũ chuyện gì đang xảy ra, thì nghe có tiếng chị Giai Tuệ vang lên bên tai:
- Lão Ngũ, làm thế nào bây giờ, con vật vừa bay lên kia có phải là hắc ưng không ạ? - Chị Giai Tuệ cách tôi khoảng chừng vài mét, có thể Lão Ngũ cũng thả tay để chị trôi tự do.
Trong bóng tối, Lão Ngũ thở dài rồi chậm rãi kể lại:
- Ừ! Cái thứ trời đánh ấy cuối cùng cũng đã thoát ra rồi. Hừm! Dưới đất không giữ được, thì ắt nó sẽ bay lên trời. Nếu như không phải do cái hắt xì của Lan Lan, thì có lẽ chúng ta đã vượt qua. Giờ chỉ còn cách đợi hứng đòn thôi. Quá… quá hay! ̀y…
Nghe Lão Ngũ nói vậy, tôi và chị Giai Tuệ lo lắng nhìn nhau, vậy theo ý của Lão Ngũ, chính cái hắt xì của tôi đã thả con Hắc ưng ra sao? Điều này thực khiến người ta khó lòng tin nổi.
Tôi vội vàng hỏi lại Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, vậy chính xác là chuyện gì đang diễn ra vậy? Đây… á… á… - Chưa nói hết câu, tôi hốt hoảng hét ầm lên. Một lực hút rất mạnh từ dưới chân đang cố kéo tôi chìm xuống, hình như lực đẩy của lớp đất cát đang yếu dần đi, chúng không còn đủ sức để giữ tôi nổi được nữa.
- Yên tâm đi, mẹ kiếp! Đấy là do lớp đất cát đang tụt xuống đấy. Hắc ưng cũng bay rồi, cỗ máy đã bắt đầu hoạt động, lớp đất cát này đã hết tác dụng. Đợi khi nào xuống mặt đất, ta sẽ cho hai đứa biết chuyện gì đang diễn ra. Mẹ kiếp! Cứ chơi vơi mãi thế này, ông đếch thấy thoải mái tí nào. - Giọng của Lão Ngũ đều đều không nhanh không chậm, nhưng có điều càng ngày càng tục tằn hơn, có vẻ lão đã bắt đầu nhận thấy mối nguy hại tiềm ẩn, xem ra cửa ải này không hề đơn giản tí nào
Chương 18:
Lớp đất cát nhanh chóng tụt xuống do lực đẩy dần biến mất, chỉ một lúc sau, mũi bàn chân tôi đã chạm mặt sàn, rồi từ từ đứng thẳng người lên.
Tôi vẫn còn chút hoài nghi, không dám tin vào mắt mình, liền mượn chiếc gương Dạ Minh của Lão Ngũ, ngồi sụp xuống quan sát tỉ mỉ khe rãnh giữa những phiến đá. Chị Giai Tuệ thấy vậy cũng chạy tới quan sát cùng với tôi.
Dưới ánh sáng của chiếc gương Dạ Minh, tôi không tìm thấy bất kỳ dấu vết nào của lớp đất cát kia. Đưa tay ra lần khắp mặt phiến đá, thì chỉ có cảm giác mát mẻ và nhẵn thín, giống như chúng đã được mài giũa rất kỹ. Thế nhưng từ phía dưới, một luồng khí nhỏ mát lạnh đang không ngừng thổi qua khe rãnh nối các phiến đá lại với nhau. Đương lúc những phiến đá này chưa kịp khép lại với nhau, tôi nheo mắt nhòm xuống phía dưới, nhưng chỉ thấy một màu đen kịt.
Chị Giai Tuệ cũng quỳ gối, áp tai xuống mặt sàn, vẻ mặt hơi khác thường, rồi chị vẫy tôi lại gần. Tôi làm theo chị, quỳ hai gối rồi áp một bên tai xuống khe rãnh nhỏ gần đó. Luồng khí mát lạnh phả vào trong tai hơi ngưa ngứa. Thế nhưng, tôi vẫn có thể nhận ra, phía dưới sàn đá là một khoảng không rộng lớn bất thường, và từ đó không ngừng dội lên những tiếng động lạ, giống như tiếng gió vi vút thổi đến từ một nơi bằng phẳng rộng lớn như chúng tôi đang đứng.
Đúng chỗ tôi hạ xuống có vài tia sáng xanh le lói lách mình qua lớp cát, đó chính là tia sáng của chiếc gương Dạ Minh. Nhìn thấy nó, tôi cảm thấy yên tâm hơn hẳn, trong tình thế này, nếu như trước mắt vẫn chỉ là một màu tối đen thì thật khiến người ta cảm thấy khó chịu vô cùng.

Dù chỉ có vài tia sáng le lói nhưng cũng đủ căn phòng sáng bừng lên, tôi nhìn thấy Lão Ngũ và chị Giai Tuệ đứng cách tôi không xa. Lão Ngũ nhanh chân chạy đến chỗ chiếc gương Dạ Minh, rồi sục tay vào lớp cát cầm chiếc gương lên, phủi phủi những hạt cát bám trên bề mặt. Lão giơ gương về phía hai đứa tôi rồi khoái chí nói:
- Cũng may là hạ ở đây, chứ nếu rơi vào miệng động Hắc ưng thì coi như tiêu mạng.
Tôi vẫn chưa hiểu rõ về cái gọi là động Hắc ưng mà Lão Ngũ vừa nhắc đến, đang định quay sang hỏi thì mặt sàn dưới chân lại rung lên lần nữa. Tôi vội cúi đầu nhìn xuống, lớp đất cát giờ như dòng nước óng ánh ánh bạc nhanh chóng len qua những khe nhỏ chảy xuống dưới sàn. Chỉ một lúc sau, căn hầm đầy cát đã trống trơn, toàn bộ bề mặt sàn đá không để lại một chút vết tích gì, giống như vừa có ai đó lau chùi rất cẩn thận và sạch sẽ.
Căn hầm cứ thế đưa chúng tôi từ bất ngờ này sang bất ngờ khác, tôi và chị Giai Tuệ ngơ ngác dõi theo mà không hiểu vì sao lớp đất cát kia lại có thể biến mất một cách nhanh gọn và sạch sẽ đến như vậy? Nếu như tất cả những điều kì lạ này đều được một cỗ máy bí mật nào đó điều khiển, thì chắc chắn đó phải là một cỗ máy cực kì thần diệu và vĩ đại.
Chị Giai Tuệ đứng dậy, nói với Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, cỗ máy này thực sự thần kỳ quá tưởng tượng, lão nhanh nói cho chúng cháu biết đi.
Lão Ngũ đang hướng mắt về một nơi xa xăm nào đó, vẻ như đang đăm chiêu, nghe tiếng chị Giai Tuệ hỏi, lão mới ngẩng đầu nhìn lên phía đỉnh hầm.
Tôi cũng bất giác ngửa cổ nhìn theo lão, trên phía đỉnh hầm vẫn là một màu đen kịt, không hiểu rằng những con hắc ưng kia đã bay về phương nào.
Lão Ngũ nhìn một hồi lâu, rồi quay sang ngó nghiêng mặt đá xung quanh, sau đó đặt đít ngồi phịch xuống sàn. Lão duỗi hai chân cho thoải mái rồi nói với chị Giai Tuệ:
- Mẹ kiếp! Mệt quá đi mất. Kiếm cái gì ăn đã, rồi ta sẽ kể cho hai đứa nghe về cái đống đất cát kia, ta luôn có linh cảm rằng sự việc này sẽ rất phức tạp mà. Phải rồi, hai đứa bay kiểm tra lại xem, áo quần hay trong giày dép có giữ được thứ gì linh tinh không, nếu có thì coi như nhặt được báu vật đấy.

Nghe lão nói vậy, tôi vội đưa tay lần khắp cơ thể tìm kiếm.
Thật kỳ quặc, lúc nãy rõ ràng lớp đất kia còn phủ kín người tôi, thế mà đến giờ trên quần áo tôi không có đến một hạt cát, thậm chí những vết bẩn trên quần áo giờ cũng biến mất theo, lẽ nào chúng lại có tác dụng như bột giặt?
Chị Giai Tuệ bỗng reo lên, rồi quay người sang phía tôi, kín đáo đưa tay lần vào trong lớp áo lót, một lúc sau chị từ từ đưa tay ra, hồ hởi nói:
- Hình như là sót vài hạt cát thật.
Lão Ngũ vội lao tới, nắm chặt bàn tay của chị Giai Tuệ rồi hốt hoảng nói:
- Nắm chặt! Nắm chặt tay vào! Đừng để nó tuột mất!
Bộ dáng kì quái của Lão Ngũ khiến tôi và chị Giai Tuệ không khỏi bật cười, mấy hạt cát bé tí ấy cũng có thể chạy mất sao? Thế nhưng nghĩ lại cảnh tượng ban nãy, tôi lập tức thấy sự lo lắng của Lão Ngũ không phải là không có lí, biết đâu những hạt cát này lại có phép thuật cũng nên.
Lão Ngũ như bắt được vàng, vẫn nắm chặt lấy tay chị Giai Tuệ, hứng khởi nói với hai chị em tôi:
- Loại cát này vốn là bảo vật vô cùng quý hiếm, không ngờ chúng lại được chôn ở dưới này nhiều như thế. Vừa nãy, ta cuống quá nên không nghĩ tới chuyện giữ lại vài nắm. May mà còn sót lại vài hạt trên người con nhỏ Giai Tuệ. Nếu như có nhiều thì chúng ta chia nhau mỗi người một hạt, khi nào ra khỏi đây thì giữ lại, xem như kỉ niệm chiến tích anh hùng. Còn nếu như ít thì xin lỗi hai đứa bây, đừng cố gắng giành giật, Lão Ngũ ta sẽ giành cho bằng được. Ha ha ha ha, hay đấy, hay đấy!
Tôi và chị Giai Tuệ cũng cười phá lên, đồng thanh nói:
- Không giành, không giành đâu, tất cả là của Lão Ngũ hết. Hi hi!
Lão Ngũ an tâm hẳn, lão từ từ gỡ từng ngón tay chị Giai Tuệ, để lộ ra ba hạt cát trắng đang tự cuộn tròn trong lòng bàn tay chị.
Tay trái lão nắm chặt cổ tay phải của chị Giai Tuệ, đôi mắt sáng quắc nhìn vào lòng bàn tay, rồi nói với vẻ ngập tràn hạnh phúc.
- May quá, vừa đủ ba hạt, mỗi người một hạt, không ai giành của ai nữa.
Tôi chiếu chiếc gương Dạ Minh vào tay chị Giai Tuệ rồi cúi đầu xuống nhìn. Ba hạt cát trắng muốt như ngọc, to bằng hạt vừng, tròn xoe và nhẵn mịn, dưới ánh sáng của chiếc gương Dạ Minh, chúng tỏa sáng lung linh và không ngừng chuyển động.
Lão Ngũ khẽ lắc đầu, ngó chằm chằm vào chúng với vẻ hí hửng thấy rõ, một lúc sau lão mới quay sang nói với chúng tôi:
- Để ta cho hai đứa bay xem tuyệt chiêu này! - Nói rồi, tay phải của lão bỗng lắc nhẹ, ba hạt cát trắng tự chuyển động tròn trong lòng bàn tay chị Giai Tuệ, rồi trượt đi mỗi lúc một nhanh hơn, theo những đường chỉ tay di chuyển khắp mọi hướng, cứ như ba con trùng nhỏ đang tinh nghịch bò đi khắp nơi.
Thấy chúng có vẻ muốn tìm đường thoát ra ngoài, Lão Ngũ vội khép chặt tay lại, rồi phấn khích ngẩng đầu hỏi chúng tôi:
- Thế nào, hay không?
- Hay, hay… - Tôi vội kéo tay Lão Ngũ, dò hỏi. - Lão Ngũ, chúng là sinh vật sống thật sao, chúng từ đâu ra thế?
Lão Ngũ vừa cười vừa quay sang nói với chị Giai Tuệ, không thèm đếm xỉa gì đến tôi:
- Lấy đồ ra ăn đi, chúng ta phải ăn chút gì đã, rồi ta sẽ kể về lũ đất bay cát chuyển cho hai đứa bay nghe.
Chị Giai Tuệ lấy ra ba gói lương khô và ba chai nước khoáng đưa cho tôi và Lão Ngũ. Chúng tôi ngồi khoanh chân trên sàn đá, vừa ăn lương khô vừa nghe Lão Ngũ kể chuyện.
Lão Ngũ chiêu một ngụm nước lớn rồi chậm rãi kể:
- Giờ nói đến cái gọi là cát bay trước nhé, Giai Tuệ, chắc mi cũng biết huyện Cẩm thành phố Cẩm Châu, đúng không?
- Huyện Cẩm? - Chị Giai Tuệ suy nghĩ một lúc rồi mới ngần ngừ nói. - Lão Ngũ, lão đang nói đến địa danh Lăng Hải đúng không? Huyện Cẩm là tên cũ, giờ nó đã được lên cấp thành phố rồi mà.
- Ừ, ta cũng nghe nói nó đã đổi thành cái tên gì gì đó, nghe chói tai không chịu được. - Lão Ngũ quay sang nói với tôi, nói tiếp. - Huyện Cẩm… hay còn gọi là Hải Lăng, nó là một huyện nhỏ nằm phía dưới chân Cẩm Châu, vốn được gọi là tòa thành cổ từ nhiều đời nay.
Rồi lão vỗ nhẹ lên trán như muốn lục tìm điều gì đó trong trí nhớ.
- Những thứ khác về huyện Cẩm ta không nhắc đến, chỉ muốn nói một nơi nhỏ bé như vậy mà lại có thể sản sinh ra cát bay, một loại bảo vật vô cùng hiếm có trên thế gian này. Trong huyện Cẩm có xã Thạch Sơ chuyên sản xuất đá xây dựng, chủ yếu là đá hoa cương, từ bao đời nay dân xã này đã sinh sống bằng nghề khai thác và sản xuất đá hoa cương cho tới tận bây giờ, nghe nói sau khi Trung Quốc mới được thành lập, nhà nước đã cho vận chuyển đá hoa cương ở đây để xây dựng quảng trường Thiên An Môn.
- Sau khi Trung Quốc mới được thành lập… - Chị Giai Tuệ nhắc lại với vẻ mặt rất đỗi ngạc nhiên. Tôi cũng cảm thấy tò mò, không nhịn được phải hỏi lại.- Tại sao lại liên quan đến việc Trung Quốc mới thành lập, Lão Ngũ… lẽ nào Cố Cung ở Bắc Kinh cũng có bí mật như thế này sao?
- Mẹ kiếp! Chúng bay nghĩ xa xôi thế! - Lão Ngũ lắc đầu ra chiều bực bội vì bị ngắt lời rồi nói tiếp. - Nghe sư phụ ta kể lại rằng, hình như từ thời Minh Thành Tổ[1], sau khi dẹp loạn, thống nhất đất nước, ông ta đã quyết định đóng đô tại Nam Kinh và đã ra lệnh vận chuyển đá hoa cương tới đó để xây cung điện. Lúc đó, vùng đấy gọi là huyện Cẩm hay Thạch Sơn, ta cũng không rõ, dù sao ranh giới ở vùng đó cũng không thay đổi là mấy. Minh hoàng đế đã ra lệnh tất cả mọi ngóc ngách dù là nhỏ nhất trong cung điện đều phải lát bằng đá hoa cương của huyện Cẩm. Phải mất một lượng nhân công rất lớn để phục vụ cho công trình kiến trúc khổng lồ này, hàng vạn người đã phải vất vả ngày đêm khai thác, chạm trổ đá hoa cương tại vùng này. Trong lúc khai thác, người ta đã vô tình đào được một tảng đá khá lớn ngay giữa lòng núi, nó có màu trắng đục rất giống ngọc. Hằng trăm thợ đá có tay nghề và kinh nghiệm lâu năm cũng không rõ đây là loại đá gì. Điều ngạc nhiên hơn cả là, khi tảng đá này rơi xuống, đã vỡ thành hàng trăm nghìn hạt cát nhỏ li ti như hạt vừng, mỗi viên đều tròn xoe, nhẵn nhụi như được mài giũa công phu...
[1]Tức Chu Nguyên Chương, người sáng lập ra vương triều nhà Minh.
Nghe thấy vậy, chị Giai Tuệ nhanh miệng hỏi lại:
- Đó có phải là cát bay không ạ?
Lão Ngũ gật đầu, kể tiếp:
- Nghe ta nói hết đã. Những người thợ đá đều cảm thấy hết sức ngạc nhiên, có người đã gắn bó cả đời với nghề khắc đá mà đây cũng là lần đầu tiên được chứng kiến sự việc lạ lùng đến vậy. Lúc đó, một vị quan phụ trách việc khai thác đá là Lưu Bác Ôn, nghe nói ông ta cũng là một người có biệt tài tiên đoán tương lai, nên được nhân dân vinh là thánh sống, sau khi tận mắt nhìn thấy đống cát kì lạ này, ông đã lập tức tuyên bố đây chính là loại tinh cát vô cùng hiếm có.
Nghe Lão Ngũ nhắc đến tên Lưu Bác Ôn, đầu óc tôi lờ mờ nhận ra đó là một cái tên khá quen, vội nói chen vào:
- Lão Ngũ, cháu biết Lưu Bác Ôn là ai rồi, hồi cấp Một, cháu đã được học một bài tập đọc có tên là Người bán mía, tác giả chính là Lưu Bác Ôn, nội dung là về cá vàng cá bạc gì gì đó, cô giáo cháu còn giảng thêm Lưu Bác Ôn chính là người giúp Minh Thành Tổ Chu Nguyên Chương dẹp loạn và giành được ngai vàng.
Lão Ngũ vốn là người không được học hành gì, nên chỉ lắc đầu, cười xòa, nói:
- Bán gì thì bán, cá gì thì cá, ta không quan tâm, ta chỉ biết người này là một vị thánh sống.
Chị Giai Tuệ vừa vịn vai tôi vừa cười nắc nẻ, nói:
- Đúng là nàng ngốc, cái gì mà bán mía với bán khoai, nghe là đã biết lười học rồi. Bài văn đó có tên là Lời người bán cam rong, kể về câu chuyện của một người bán cam.
Tôi và Lão Ngũ đều là những người ít học, chỉ biết mấy chuyện mở khóa, chứ những thứ như kiến thức văn học hay điển tích thì chẳng biết là bao. Tôi không rõ lời giải thích của chị Giai Tuệ lắm, nhưng có vẻ như là chính xác. Mặt tôi đỏ ửng lên vì xấu hổ, ngại ngùng nói:
- À, thì ra là bán cam, em lại cứ tưởng là bán mía cơ đấy.
Lão Ngũ hắng giọng kéo sự chú ý của chúng tôi về phía mình, rồi kể tiếp:
- Mặc mẹ nó bán cái gì, chỉ biết rằng Lưu Bác Ôn sau khi nhìn thấy những hạt cát trắng này liền tuyên bố, đây chính là loại tinh cát có tìm hàng trăm năm cũng không thấy, rồi lập tức sai quân lính gói hết lại, tự mình mang về báo cáo với Chu Nguyên Chương. Câu chuyện sau đó mới gay cấn, chỉ vài ngày sau, quân triều đình lại được lệnh tiếp tục khoét sâu vào lòng núi, họ tìm ra những tảng đá trắng khác và phải mất một năm ròng mới khai thác hết mỏ đá trắng quý hiếm kia. Nhưng chỗ cát trắng đó được vận chuyển đi đâu thì không ai biết, hơn nữa, tất cả những người thợ trực tiếp khai thác đá đều bị chặt đầu, còn đám binh sĩ thì bị đày đi biên giới, ngay cả bản thân Lưu Bác Ôn cũng không có kết thúc tốt đẹp gì, chỉ vài năm sau ông ta đã bị Chu Nguyên Chương sát hại.
Tôi nghe mà choáng váng cả người, lập tức mở miệng thắc mắc:
- Lão Ngũ, nói đi nói lại, những viên tinh cát kia là cái gì, tại sao vì nó mà phải giết hại bao nhiêu người như vậy.
Lão Ngũ lắc đầu rồi nói tiếp:
- Sự tình như thế nào ta cũng không rõ, có lẽ đó là một loại bảo vật vô cùng quý hiếm, hoặc nó có những công dụng khác mà ta vẫn chưa biết, nếu không Chu Nguyên Chương đã không thể giết nhiều người như thế. Về lịch sử của loại Cát bay này, ta nghe sư phụ kể từ rất lâu rồi, nhưng đó cũng chỉ là những lời người được nghe kể lại từ tổ tiên, chỉ biết chắc rằng đó là một loại bảo bối vô cùng lợi hại. Vừa xong hai đứa bay đều nhìn thấy rồi đấy, những viên cát trắng đó chính là tinh cát, hay còn gọi là cát bay, điểm kì diệu nhất của chúng chắc có lẽ là khả năng tự chuyển động như một sinh vật sống, ngoài ra bản thân nó còn có thể tự sản sinh ra một lực đẩy rất mạnh. Đặc biệt là khi kết hợp với Đất chuyển, cho dù là vật nặng cỡ bao nhiêu, nó vẫn có thể khiến trôi bồng bềnh như trong nước vậy. Còn một điều nữa, chúng tuy có sức mạnh kì diệu là thế, nhưng lại rất sợ tiếng động và va chạm, chỉ cần một tiếng động nhỏ thôi cũng khiến mối liên kết của chúng bị đứt gãy trong tức khắc. Lúc nãy, vừa nhìn thấy chúng là ta đã nhận ra ngay, nên mới bảo chúng bay phải bám chặt vào ta, không được động đậy cũng như không được thốt ra bất cứ lời nào, thế nhưng tiếng hắt xì của Lan Lan đã làm kinh động tới chúng, vô tình thả con hắc ưng xổng ra.
Nghe Lão Ngũ nói vậy, lòng tôi cực kì lo lắng, cát bay đã lợi hại như vậy thì không biết lũ hắc ưng kia còn ghê gớm tới mức nào nữa? Tôi vội ngẩng đầu nhìn lên trần nhà, vẫn là một khoảng không vắng lặng, không rõ lũ hắc ưng đang trốn ở đâu?
Bỗng có tiếng chị Giai Tuệ nói với Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, cho cháu xem lại mấy hạt cát bay kia với.
Lão Ngũ cẩn trọng hé lòng bàn tay lấy ra một hạt đưa cho chị Giai Tuệ rồi nói:
- Cầm lấy, đừng có làm rơi đấy.
Chị Giai Tuệ cũng cẩn thận không kém, giữ chặt hạt cát giữa hai đầu ngón tay, qua ánh sáng của chiếc gương Dạ Minh, chị nghiêng nghiêng đầu ngắm nghía thật kỹ. Một lúc sau, chị vê vê đầu ngón tay rồi nói với tôi:
- Cái này hay lắm, không rõ nó làm từ chất liệu gì, không hề giống với bất kỳ loại đá nào trước đây mà ta từng nhìn thấy. Nhưng cháu nghĩ rằng đó là kết quả của sự biến hóa môi trường qua hàng nghìn năm, ví dụ như do lực nén hay nhiệt độ môi trường khiến chúng bị thay đổi kết cấu vật lí. Hai người chắc đều biết kim cương và đá graphite chứ, chúng đều được cấu thành từ nguyên tử cacbon nhưng bề ngoài của chúng lại có sự khác biệt rất lớn. Một thứ thì cứng tuyệt đối với vẻ ngoài trong suốt, còn một cái thì lại rất mềm với một màu đen tuyền. Nguyên nhân là do thành phần và cấu trúc của nguyên tử cacbon trong kim cương và đá graphite không giống nhau.
Lão Ngũ nghe lời giải thích của chị Giai Tuệ thì liền gật đầu tán thành:
- Ừ, mi nói hình vuông hình tròn gì thì ta không hiểu lắm, nhưng về kim cương với đá graphite thì ta biết rõ, hai đứa nhìn đây. - Nói rồi, lão rút chuỗi hạt Ô Kim từ trong túi ra. - Cái này làm từ kim cương và đá graphite ra đấy, lúc cứng lúc mềm, ta đoán đó là nhờ vào cái thành phần cấu trúc gì gì đó mà mi vừa giải thích đấy.
Chị Giai Tuệ nhìn chuỗi hạt rồi nói:
- Cũng có thể là vậy. Vừa rồi nghe lão kể về chuyện cát bay với Lưu Bác Ôn, cháu đã lờ mờ hiểu được chút ít, đúng như lời lão vẫn nói, dưới cung này chắc chắn còn rất nhiều chuyện kì lạ đang xảy ra.
Tôi hỏi xen vào:
- Chuyện gì cơ, lẽ nào đám đất cát này lại nhiều chuyện kỳ quái đến vậy sao?
Chị Giai Tuệ lắc đầu, nói tiếp:
- Hai thứ cát này lạ lắm, nhưng chủ yếu vẫn là… - Chị dừng lại một lúc rồi mỉm cười nói với Lão Ngũ. - Đấy là cháu đoán bừa thế thôi, Lão Ngũ kể tiếp về loại Đất chuyển kia đi.
Lão Ngũ nhìn ra xung quanh, gật đầu nói:
- Với tình hình này, xem ra lũ Hắc ưng tạm thời sẽ không làm phiền tới chúng ta đâu. Thôi được, để ta kể chuyện cho hai đứa bay nghe để giết thời gian vậy.
Lão cắn một miếng lương khô, rồi uể oải chuyển sang tư thế khác một lúc rồi mới từ từ kể tiếp:
- Loại Đất chuyển kia thực ra cũng có mối liên qua đến vùng đất Đông Bắc này. Hai đứa có biết vì sao ba tỉnh Đông Bắc lại được gọi là vùng đất đen hay không? Điều này bắt nguồn từ ba vùng đất lớn là Hắc Long Giang, Nộn Giang và Tùng Hoa Giang, những vùng đất này đều được phủ bằng lớp đất đen dày xốp và phì nhiêu, nên hoa màu luôn cho vụ mùa bội thu. Trong đó vùng màu mỡ nhất là vùng phía bắc Hắc Long Giang, nghe nói lớp đất ở đấy dày tới hơn một mét, được khai phá từ thời nhà Thanh. Sau đó, thằng chó Tổng binh Sơn Hải quan Ngô Tam Quế đã vì con nha đầu Trần Viên Viên mà dẫn bọn cẩu Thanh vượt qua cửa ải, trơ mắt cam chịu để bọn nó cướp mất giang sơn, mẹ kiếp, toàn lũ ăn hại…
Từ khi cùng Lão Ngũ vào trong lòng Cố Cung, tôi đã cảm thấy hình như lão có một mối thù không đội trời chung với nhà Thanh, giờ nghe những lời miệt thị này, tôi lại càng khẳng định những ý nghĩ ban đầu của mình là đúng. Thế nhưng có một điều tôi vẫn không sao hiểu nổi, tại sao lão lại mang nỗi hận thù lớn đến như thế với những người đã khuất núi từ lâu?
Đúng lúc đó, tôi nghe thấy tiếng chị Giai Tuệ ho nhẹ, liền vội quay đầu nhìn sang, thấy sắc mặt chị nhợt nhạt nên vội vàng hỏi:
- Chị Giai Tuệ, chị làm sao thế? Trong người không khỏe sao?
Chị Giai Tuệ cười xòa rồi nói:
- Chị không sao, chắc do lúc nãy nhiệt độ thay đổi thất thường, lúc lạnh lúc nóng, nên họng chị hơi đau rát một chút. Lão Ngũ cứ kể tiếp đi. - Nói rồi chị cởi chiếc áo đang buộc quanh eo, khoác lên vai.
Tôi cũng không để ý nữa mà quay sang nghe Lão Ngũ kể chuyện:
- Sau khi quân Thanh chiếm thành, chúng đã quy hoạch và biến nơi đây thành vùng đất cấm, ngày đêm có lính canh gác với lí do bên trong có chứa long mạch.
- Long mạch? - Nghe thấy có “long mạch”, tôi bỗng hào hứng hẳn lên, rồi lập tức liên tưởng tới bộ phi Lộc Đỉnh Ký do Huỳnh Hiểu Minh thủ vai chính, hình như nội dung phim cũng nhắc đến long mạch. Tôi vội vàng hỏi lại. - Có phải là một loại bảo bối không ạ?
Lão Ngũ gật đầu.
- Bảo bối hay không thì ta không dám chắc, chỉ có điều sau khi chiếm được thành, bọn lính đã chém giết tất cả, nên chắc chắn ở đó có không ít vật báu đâu, thế nhưng sau đó những thứ này được chuyển đi đâu thì không ai có thể đoán ra. Có lẽ lũ cẩu quan đã luồn chúng qua một đường hầm bí mật, vì sợ rằng nếu để lại đây thì chẳng mấy chốc sẽ bị đánh cắp, nếu không thì niêm phong thành lại làm gì? Cái thứ long mạch của nợ đó, chắc chỉ là cái cớ.
Chị Giai Tuệ ngẫm nghĩ một lúc rồi lầm bầm:
- Hoặc chính là cái cớ! - Giọng chị có vẻ hoang mang.
Lão Ngũ xua tay ra chiều không quan tâm rồi nói tiếp:
- Thời đó, trong thành vô cùng náo loạn, chẳng có người dân nào muốn tôn tên đầu trọc tết tóc kia làm hoàng đế cả, cả đất nước hỗn loạn, khắp nơi nổ ra bạo loạn. Vài nhân vật trong giới giang hồ cũng không thể ngồi yên, đám đạo tặc thì ra sức mài gươm vào thành ăn trộm, thậm chí còn hi vọng chặt đứt long mạch của bọn chó Thanh, họ đều đồng lòng phản Thanh phục Minh, vì một đất nước bình yên. Cho dù bên trong không có long mạch thì nhất định cũng phải cất giấu vô số vàng bạc và châu báu, nếu thành công thì có thể ăn sung mặc sướng cả đời. Thế nhưng bao nhiêu năm trôi qua, đã rất nhiều người ra đi mà không thấy bóng dáng một ai sống sót trở về chứ đừng nói gì đến đống của cải “tăm” được. Cho tới năm Sùng Trinh niên nguyên, Bả Thế Gia đại thúc Lão Cửu quyết định đích thân tìm kiếm thì đến lúc đó loại bảo bối vô cùng quý hiếm này mới được lộ diện.
Chị Giai Tuệ nghe vậy, liền sốt sắng hỏi lại:
- Lão Ngũ, theo như những gì lão vừa kể thì loại bảo bối Đất chuyển kia là do những người trong phái Đạo môn tìm ra tại Bắc Đại Hoang[2] từ rất lâu rồi?
[2] Chỉ vùng bình nguyên Đông Bắc với ba tỉnh Hắc Long Giang, Tùng Hoa Giang và Nộn Giang.
Chưa kịp để lão trả lời, tôi đã vội cướp lời chị hỏi tiếp:
- Lão Ngũ, cháu thấy cách phân thứ bậc trong Đạo môn rất lạ, tại sao phải phân thành lão này lão kia vậy. Lão là Lão Ngũ, nhưng em trai lão lại là Lão Tam, đây chẳng phải là ngược đời sao? Hơn nữa, tại sao gọi Bả Thế Gia là đại thúc Lão Cửu? Phải dựa vào quy tắc gì vậy ạ?
Chị Giai Tuệ cũng gật đầu rồi hỏi tiếp:
- Đúng thế, Lão Ngũ, có phải Đạo môn phân thứ bậc theo số không? Vậy thì người được gọi là Bả Thế Gia có nghĩa là gì ạ?
Lão Ngũ mỉm cười, vuốt chòm râu, nói:
- Theo quy tắc của môn phái thì ta không được phép tiết lộ bí mật này cho bất kì kẻ ngoại đạo nào, đặc biệt con nhỏ Giai Tuệ còn là cảnh sát, các ngươi thừa hiểu cảnh sát và đạo chích không bao giờ đi chung một đường. Thế nhưng, ông trời đã có duyên để ta và hai đứa gặp nhau, trong mắt ta hai đứa bay chẳng khác gì con cháu cả. Vả lại chúng ta cũng đã vào sinh ra tử mấy phen, vậy hôm nay ta sẽ phá giới giải thích cho hai đứa hiểu rõ.
Thấy Lão Ngũ đồng ý tiết lộ bí mật, tôi vội dỏng tai tập trung lắng nghe những lời của lão. Thực ra về bản chất, Kiện môn ban đầu cũng là một nhánh trong phái Đạo môn, lúc học về lịch sử mở khóa, ông nội tôi cũng đã giới thiệu qua lai lịch cũng như những thủ thuật của phái Đạo môn, nhưng sau khi phân thành các phái khác nhau thì những thông tin cũng không còn nhiều và cụ thể cho lắm. Hôm nay được chính một cao thủ trong phái Đạo môn kể lại hẳn là một cơ hội hiếm có.
Chương 19:
Lão Ngũ bắt đầu kể về lịch sử môn phái:
- Trong Đạo môn trừ mối quan hệ giữa sư phụ và đồ đệ là không thể thay đổi được ra, tất cả những người khác đều phải phân định ngôi thứ theo tay nghề cao cấp. Người có kĩ thuật xuất chúng được gọi là Bả Thế, còn những vị trí cao thủ trong phái thì được tôn xưng là Bả Thế Gia. Bả Thế đại để được phân thành ba bậc, trong mỗi bậc lại phân thành ba cấp, mỗi cấp lại phân ra hai loại thủ thuật. Nói tóm lại, Bả Thế được phân thành tam phẩm cửu giới thập bát thuật.
Tôi nghe mà thấy vô cùng hào hứng, chỉ tính riêng thứ bậc thôi mà đã phân thành nhiều như thế, chả khác gì cấp bậc quan lại trong triều vậy. Tôi bỗng nhớ ông nội cũng đã từng kể, mở khóa là một trong mười tám thuật của Đạo môn, vậy mười bảy thuật còn lại là gì?
Lão Ngũ say sưa giảng giải:
- Hai đứa bay không biết đấy chứ, người trong phái Đạo môn kị nhất là nhắc đến chữ “ăn trộm”, nó chẳng đẳng cấp gì cả, chỉ có bọn lưu manh trộm gà, trộm chó ngoài đường thì mới gọi là ăn trộm, ăn cắp thôi. Còn bọn ta lại dựa vào vật lấy được để phân thành ba cấp độ, đó là Thủ, Thiết, Đạo. Cấp độ đầu tiên là Thủ hình, là những vật mang hình dạng cố định có thể nhìn bằng mắt, sờ bằng tay. Cấp độ thứ hai là Thiết lưu, là những vật không có hình dạng cố định. Loại này khó hơn nhiều, ví dụ những vật khó nắm bắt như nước, lửa, gió hay những vật dạng bột; mặc dù ta vẫn có thể nhìn thấy nhưng lại không thể chạm vào hay lưu chuyển nó. Cấp độ thứ ba là Đạo ý, là những thứ vô hình vô dạng. Cấp độ này vốn rất khó, thậm chí người ta cũng không thể biết mình vừa bị mất thứ gì. Còn về cửu giới và thập bát thuật thì ta không nói nữa, toàn những thứ rắc rối, nói các ngươi cũng không hiểu được đâu.

Tôi vội vàng cắt ngang lời lão:
- Thuật mở khóa chính là một trong mười tám thuật của Đạo môn, cái này thì cháu biết.
Lão Ngũ quay sang mỉm cười với tôi, rồi gật đầu nói tiếp:
- Riêng thuật mở khóa từ lâu đã tự tách ra lập nên một phái riêng. Cứ từ từ, để ta kể tiếp đã. Dựa vào thuộc tính của vật bị đánh cắp mà phân thành Thủ thực, Thiết hư và Đạo không. Phải rồi, hay đứa bay đã từng nghe đến câu “Diệu thủ không không” chưa, thực ra câu đó mang hàm ý về cảnh giới Đạo không rất rõ, tức là dùng thủ đoạn vô cùng thần diệu để giành lấy những vật huyễn hoặc. Theo như ta được biết, từ xưa cho đến nay chỉ có duy nhất một người luyện được tới cấp Đạo không, đó chính là Bả Thế Gia đại thúc Lão Cửu. Nhưng, như ta đã nói về giới hạn vô hình của cấp Đạo không, thực hư thế nào cũng không ai nhìn thấy, nên cũng chẳng ai có thể nói rõ được, và tài nghệ của Bả Thế Gia đại thúc Lão Cửu cao siêu tới mức nào không ai biết rõ cả.
Nghe Lão Ngũ giới thiệu về các cấp độ của Đạo môn, tôi biết thêm được rất nhiều kiến thức, thế nhưng chúng lại quá phức tạp khiến tôi cảm thấy riêng sự phân cấp thôi cũng đã không hề đơn giản như trong phái Kiện môn chúng tôi.
Tôi suy nghĩ một lúc, rồi hỏi lại lão:
- Lão Ngũ, vậy cấp Đạo không trong Đạo môn có giống với cấp Thiên giới của Kiện môn không ạ? Cấp Thiên giới dùng linh hồn để lấy những thứ mình muốn, cũng như cấp Đạo không lấy những thứ vô hình vô dạng. Giờ nghe lão giảng giải, cháu càng khẳng định chúng chắc chắn có một mối liên quan nào đó.
Lão Ngũ gật gù, nói:
- Ừ, mặc dù mỗi phái đều có những nét đặc thù riêng, thế nhưng dù sao cũng cùng chung cội nguồn, nên có lẽ sẽ mang nhiều nét tương đồng, ta nghĩ rằng Đạo không và Thiên giới thực sự có một vài điểm chung… Đúng rồi, đã có lần ta hỏi ông nội mi đã đạt tới cấp Thiên giới hay chưa, thế nhưng lão già đó chỉ cười trừ rồi lảng sang chuyện khác, trước sau nhất định không chịu hé răng thế nhưng nhìn phong thái tự tin của lão, ta đoán trình độ của lão không kém Thiên giới là bao xa…
Giọng nói của Lão Ngũ cứ sang sảng bên tai, lão thản nhiên nhắc đến ông nội khiến lòng tôi như chùng xuống, xuống địa cung đã lâu rồi mà vẫn chưa tìm ra dấu vết nào của ông, không biết bây giờ ông đang ở đâu, ông có còn sống trên cõi đời này nữa hay không?

Chị Giai Tuệ rất nhạy cảm, nhìn sắc mặt tôi thay đổi, chị bóp chặt một bên vai tôi như muốn an ủi, rồi lên tiếng chuyển chủ đề khác.
- Lão Ngũ, nghe lão giảng giải về tam cửu giới thập bát thuật, cháu đoán lão đang ở cấp bậc thứ hai của Thiết lưu, hay nói dễ hiểu hơn là đứng hàng thứ năm trong cửu giới, đúng không ạ?
Lão Ngũ đưa tay lên vuốt chòm râu lưa thưa dưới cằm, thở dài một tiếng rồi nói:
- Điều đó không sai. Thế nhưng mà, mẹ kiếp, quan tài sắp đóng tới cổ rồi, mới đạt tới cấp năm, xem ra thiên phận của ta chỉ tới vậy mà thôi.
Chị Giai Tuệ cười trừ, đang định mở miệng khuyên nhủ lão vài câu, thì Lão Ngũ đã lập tức nói tiếp:
- Thế nhưng cả cái nước Trung Quốc này, Lão Ngũ ta vẫn là số một, ta không hề nói khoác đâu, ít nhất thì ta chưa từng nghe thấy có kẻ nào dám vỗ ngực tự xưng là Lão Lục. Mẹ kiếp, nếu có thật thì cũng hay đấy!
Thấy vẻ đắc thắng của Lão Ngũ, tôi cười thầm trong bụng, hóa ra ông già này cũng hiếu thắng như trẻ con.
Chị Giai Tuệ liền nói hùa theo:
- Lão Ngũ, cháu có đọc một cuốn sách, trong đó có viết rằng muốn tu luyện đạo thuật, người ta sẽ buộc lên hình nộm rất nhiều quả chuông, sau đó dựa vào tiếng chuông có phát ra hay không để nhận biết trình độ của người đó, không biết chuyện này có thật không ạ?
Lão Ngũ lắc đầu quầy quậy, cao giọng phản đối:
- Toàn trò mèo! Buộc chuông vào người, lại còn sáu mươi tư, bốn mươi tám quả chuông, toàn tin đồn vớ vẩn. Mẹ kiếp! Cứ cho là có đi chăng nữa thì cũng là trò lòe thiên hạ của bọn trộm cắp, lưu manh tép riu thôi. Những cao thủ thực sự trong Đạo môn phải biết sử dụng thuần thục các loại bảo bối, có được bao nhiêu bảo bối thì phải mang theo trên người bấy nhiêu.
- Vậy rốt cuộc thì họ tu luyện thế nào ạ? - Tôi càng ngày càng thấy hào hứng với phái Đạo môn, không nén được tò mò đành phải căn vặn Lão Ngũ.
Lão Ngũ cười khoái chí.
- Cái này thì không thể tiết lộ được, các cụ vẫn thường nói, không thể tiết lộ thiên cơ cho người ngoại đạo, ha ha… Nhưng ta sẽ cho hai đứa bay tận mắt chứng kiến thế nào là Thủ hình và Thiết lưu.
Tôi và chị Giai Tuệ gật đầu đánh rụp rồi mở to mắt để xem Lão Ngũ trổ chút tài nghệ.
Lão ngó sang hai bên, rồi nhấc chai nước lọc đã uống quá nửa lên, nói:
- Ở đây chẳng có gì khác, lấy tạm cái này làm ví dụ vậy.
Nói rồi lão bóp méo chai nước, kẹp nó vào hõm giữa ngón cái và ngón trỏ, ấn chặt vài cái, rồi quay sang cười khoái chí:
- Bắt lấy! - Cổ tay lão hơi nghiêng một góc bốn mươi lăm độ, ném chai nước cho chị Giai Tuệ.
Tôi vội nhìn theo thì thấy chị Giai Tuệ đã cần chai nước trong tay, thế nhưng lớp nylon in nhãn hiệu cuốn quanh vỏ chai đã biến mất.
Từ lúc bắt đầu, tôi không rời mắt khỏi Lão Ngũ, nhưng không tài nào biết lão đã bóc lớp nylon đó như thế nào, và giấu nó ở đâu.
Lão Ngũ cười hứng khởi và nói:
- Đã nhìn thấy chưa, đây mới chỉ là cấp độ đầu tiên trong Đạo môn thôi đấy. - Nói rồi lão lấy lại chai nước trong tay chị Giai Tuệ, vặn chặt nắp chai, rồi dốc ngược chai nước xuống xóc vài lần.
Lão Ngũ bỗng ngửa cổ lên, hai mắt nhìn thẳng lên đỉnh đầu, miệng lẩm bẩm câu gì đó. Nước trong chai bị lắc kêu sòng sọc, âm thanh đó bỗng nhiên nhỏ dần rồi hoàn toàn biến mất. Chai nước trống không, trong khi nắp chai vẫn đóng chặt.
- Nhỏ Giai Tuệ, đây chính là cấp độ thứ hai, Thiết lưu đấy. - Lão Ngũ nói với giọng dương dương tự đắc.
Chứng kiến Lão Ngũ trổ tài, tôi thật khó có thể tưởng tượng được rằng, phái Đạo môn lại có những thủ thuật thần kì đến như vậy.
Chị Giai Tuệ bỗng lên tiếng hỏi lão:
- Lão Ngũ, lần trước khi cháu và Lan Lan vào tù gặp lão, lão đã dùng chiêu này để xé chiếc cốc giấy đúng không ạ?
Lão Ngũ gật đầu, trả lời:
- Ừ, khi đó ta muốn thử khả năng quan sát của Lan Lan, nên mới làm vậy. - Nghỉ một lúc, lão lại hỏi tôi. - Nhóc con, ông nội mi chắc vẫn chưa truyền cho mi thuật Đạo môn đúng không?
Tôi lập tức lắc đầu, thành thật nói:
- Chưa ạ, ông nội cháu mới chỉ nói qua thôi, còn đâu chủ yếu vẫn là dạy cháu kỹ thuật mở khóa thôi.
Lão Ngũ liền nói:
- Nhìn cái mặt ngơ ngác của mi là ta biết ngay lão Sở vẫn chưa dạy những thủ thuật này. Mi biết không, ông nội mi cũng được coi là cao thủ trong phái Đạo môn đấy, hồi xưa chính lão cũng đã dạy cho ta những chiêu thức đầu tiên. Theo như đánh giá của ta, lão Sở ít nhất cũng đạt tới bậc ba của cấp một, tính ra thì cũng có thể gọi là Lão Tam. Lão có rất nhiều khả năng khác, sao không dạy cho mi nhỉ, sợ cái mẹ gì chứ. Nhưng thôi, đợi đến khi chúng ta thoát ra khỏi đây, Lão Ngũ ta sẽ đích thân dạy cho mi, hơn nữa mi cũng đã đạt tới cấp độ Địa Kiện rồi thì học chúng cũng không khó khăn lắm đâu. Chà chà, nhóc con, mi cũng được tạo hóa ưu đãi lắm đấy, nếu mi học thành công cả phái Kiện môn lẫn phái Đạo môn thì trên thế giới này có loại khóa nào hay cánh cửa nào có thể cản được mi nữa chứ?
Nói xong câu này, lão nhìn thẳng vào mắt tôi, khuôn mặt lộ rõ vẻ thách thức, liếm liếm hai môi, dương dương tự đắc như muốn tôi quỳ xuống, dập đầu nhận lão làm sư phụ ngay vậy.
Tôi chun chun mũi, trề môi nói với vẻ không được vui cho lắm:
- Lão Ngũ, theo như lão nói thì sẽ chẳng có loại cửa hay loại khóa nào có thể cản đường cháu ư, làm gì tới mức thế, liệu lão có tâng bốc cháu quá không vậy?
Chị Giai Tuệ cũng hào hứng không kém, nhưng thấy tôi nói vậy, chị đành lên tiếng giảng hòa:
- Lão Ngũ, tài nghệ của lão đã khiến bọn cháu được mở mang tầm mắt, việc nhận Lan Lan làm đệ tử hay không thì đợi khi ra khỏi đây hẵng nói tiếp đi. Đúng rồi, vậy Bả Thế Gia đại thúc Lão Cửu khi phát hiện ra loại đất chuyển này thì chuyện gì đã xảy ra, lão vẫn chưa kể xong mà.
Lão Ngũ ngửa mặt lên cười ha hả rồi nói:
- Được rồi, ta kể tiếp. Sau khi chứng kiến nhiều vị Bả Thế Gia ra đi mà không trở về, đại thúc Lão Cửu không tin chuyện đó là thật, nên đã đẫn theo năm đệ tử cùng mình rời thành, tiến thẳng tới Bắc Đại Hoang[3]. Ba năm cứ thế trôi qua mà chẳng thấy có động tĩnh gì, không biết họ còn sống hay đã chết. Sau khi Lão Cửu mất tích, tất cả các huynh đệ từ Bắc tới Nam đều đứng ngồi không yên, họ họp nhau lại, quyết định kể cả phải xới từng tấc đất, phá tan long mạch của bọn Mãn Thanh thì cũng phải tìm cho ra Lão Cửu.
[3] Vùng đất phía Bắc tỉnh Hắc Long Giang - Trung Quốc.
Chị Giai Tuệ ồ lên đầy ngạc nhiên, rồi hỏi tiếp:
- Lão Ngũ, có phải Lão Cửu là người rất được trọng vọng trong Đạo môn không?
Lão nghe chị hỏi vậy liền nhếch mép cười khinh bỉ, nói:
- Mi nghĩ rằng cái lũ đấy thực lòng lo cho sự an nguy của người khác hay sao, chúng làm vậy cũng chỉ vì tín vật của Đạo môn mà Lão Cửu đang nắm giữ thôi.
Nghe đến hai chữ “tín vật”, tôi bỗng chột dạ, sờ lên cặp tỳ hưu đang đeo trên cổ, thắc mắc:
- Lão Ngũ, tín vật của Đạo môn cũng là cặp tỳ hưu ngọc hay sao?
Lão Ngũ lắc đầu, trả lời:
- Không nhiều đến thế đâu, chỉ là một mảnh ngọc bội màu đỏ, thế nhưng ý nghĩa của nó cũng gần giống như cặp tỳ hưu ngọc của mi vậy, nó là của tổ tiên truyền lại qua bao đời nay. Có được miếng ngọc bội này trong tay đồng nghĩa với việc mi sẽ là người đứng đầu môn phái, và tất cả mọi môn đệ trong phái đều phải tuân theo sự chỉ đạo của mi. Thời bấy giờ, môn phái phát triển rất mạnh, số lượng môn đệ không ngừng gia tăng, thậm chí đến các quan phủ cũng phải nể mặt vài phần, địa vị và cấp bậc trong môn phái khác nhau thì quyền hạn cũng khác nhau…
Lão Ngũ quay sang tôi, tặc lưỡi nói tiếp:
- Ông nội mi thật quá coi thường mạng sống. - Lão chỉ thẳng vào cổ tôi. - Hai mảnh ngọc này quan trọng đến thế sao, ngoài cửa hàng có đến hàng tá. Cái gì mà Nam phái Bắc phái thống nhất làm một chứ? Mẹ kiếp, giờ thì còn ai quan tâm đến điều đó chứ. Ông nội mi cũng thật là ngốc ngếch, không biết suy tính kỹ càng gì cả, nếu là ta thì có hàng trăm cái ta cũng không đi.
Mặc dù tôi cũng đã nghĩ đến những vấn đề này và cảm thấy vô cùng hối hận, hối hận vì sao lúc đó không ngăn ông nội, thế nhưng khi nghe những lời nói thẳng thắn của Lão Ngũ, tôi vẫn không dám thừa nhận sai lầm của mình, chỉ biết cúi gằm mặt không nói câu nào.
Chị Giai Tuệ thở dài, vỗ vỗ lên vai tôi nói tiếp:
- Lão kể tiếp chuyện về Lão Cửu đi.
Lão Ngũ từ từ gật đầu, nói:
- Đến đầu năm thứ tư, Lão Cửu bỗng dưng quay trở về, thế nhưng có một điều khiến mọi người cảm thấy rất khó hiểu: Lão Cửu đã cụt mất hai cánh tay, còn năm tên đệ tử thì không thấy bóng dáng đâu cả. Khi biết tin, tất cả các huynh đệ từ mười ba tỉnh thành kéo tới tận nhà Lão Cửu hỏi thăm, mồm thì xoen xoét nịnh bợ, nhưng thực ra chỉ là muốn biết Lão Cửu cuối cùng đã tìm ra loại bảo bối gì. Nhưng Lão Cửu là người như thế nào chứ, ông ấy chỉ cần nhìn thoáng qua là đủ biết chúng thuộc hạng người gì. Mặc cho bọn chúng ra sức gặng hỏi, Lão Cửu cũng không hé ra nửa lời, lạnh tanh quay đi, khiến đám huynh đệ sượng mặt ra về. Cho đến tận sau này, cũng không ai biết được Lão Cửu trong suốt thời gian đó đã gặp những chuyện gì, vì sao đi liền một mạch ba năm trời và khi trở về lại biến thành một người tàn phế, còn năm người đệ tử đã mất tích ra sao. Vài năm sau đó, Lão Cửu qua đời vì bệnh lao phổi, trước khi nhắm mắt, lão đã truyền lại vị trí của mình cho Lục đệ, tức là người đệ tử thứ sáu.
Ha ha! Thế nhưng người đi thì trà cũng nguội, một mình Lục đệ không đủ sức để chống chọi lại với cuộc nội chiến trong môn phái, tất cả huynh đệ từ Bắc chí Nam lại kéo về, ai ai cũng không phục, đòi Lục đệ đem mảnh ngọc bội ra để phân chia lại ngôi vị. Có những tên còn tham lam nói rằng, Lão Cửu sở hữu rất nhiều bảo bối hiếm có, nên đã bắt Lục đệ giao tất cả những thứ đó. Ban đầu còn nói ý tứ này nọ, sau đó thì nói toạc móng heo, lộ nguyên hình là một lũ tham lam và xấu xa, thậm chí thiếu chút nữa còn xảy ra bạo loạn. Thấy rõ được bộ mặt của những con quỷ tham lam, Lục đệ chỉ cười lạnh lùng rồi phán một câu: “Họa hổ họa bì nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm”, rồi quay người vào trong nhà, khi bước ra cầm theo một chiếc hộp để lên mặt bàn, rồi nói: Lão Cửu trước khi đi chỉ để lại thứ này, nếu muốn thì hãy cầm đi.
Mọi người đều tưởng rằng bên trong chiếc hộp đó chính là tín vật môn phái, liền lao tới giành giật, không ngờ sau khi mở ra, bên trong đó lại là một loại đất đen mịn, không ngừng chuyển động. Nhìn thấy vưu vật trước mặt, đám người kia lập tức lao tới như một lũ điên, cào xé tranh giành, mặc cho chỗ đất bị rơi ra quá nửa. Trong lúc giằng xé, bỗng có tiếng quát: Ngọc bội của Đạo môn đâu? Tất cả cùng quay đầu lại nhưng chẳng thấy tăm hơi của Lục đệ đâu, có lẽ là ông ta đã bỏ đi cùng với miếng ngọc bội.
Mặc dù không tìm thấy miếng ngọc bội đâu nhưng loại đất đen này thật sự rất kỳ quái. Nó công dụng giống y hệt như loại cát bay, thế nên mọi người đều đoán rằng đây chính là thứ Lão Cửu mang về, từ đó loại Đất chuyển này mới thực sự có tiếng tăm. Nhưng vì lượng đất thì ít mà người muốn nó thì nhiều, nên những người không có được nó liền nảy lòng tham, cướp đoạt lẫn nhau, và quên mất quy tắc trong phái Đạo môn, phải hiểu rõ ngọn ngành trước khi ra tay. Cũng vì chuyện đó mà rất nhiều huynh đệ phải mất mạng, trưởng môn phái Đạo môn đã bỏ đi, tam phẩm cửu giới thập bát thuật cũng dần dần bị mai một…
Nói đến đây, Lão Ngũ bỗng thở dài một tiếng, mặt đầy vẻ thê lương:
- Đất chuyển à đất chuyển, mày chính là nấm mồ chôn Đạo môn đấy, bao công xây dựng vun đắp giờ đã đổ xuống sông xuống bể.
Tôi càng nghe càng cảm thấy xót xa, rồi nghĩ đến phái Kiện môn cũng bị phân chia cũng chỉ vì nhân cách của con người bị tha hóa, xem ra những làng nghề cổ truyền của Trung Quốc cũng đều vì lí do này mà mai một dần.
Chị Giai Tuệ thấy tôi cho vẻ trầm ngâm liền quay sang gợi chuyện cho Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, vậy loại đất chuyển được tìm thấy ở vùng đất đen, từ thời nhà Thanh, điều này thì không có gì để bàn cãi nữa. Nhưng loại cát bay do Lưu Bác Ôn phát hiện ra ở vùng Thạch Sơn từ thời nhà Minh đã bị khai thác hết, vậy tại sao ở dưới địa cung này vẫn còn nhiều thế?
Lão Ngũ lắc lắc đầu, nói tiếp:
- Mi hỏi ta, ta biết hỏi ai? Thế nhưng những tên đầu trọc tết tóc đuôi sam này vốn chỉ quen sống trên núi, vậy mà có thể trị vì đất nước trong hơn hai trăm năm, điều này ta không thể không nể phục. Cũng như nhà Nguyên, người Nội Mông vốn là dân du mục chuyên chăn ngựa chăn bò, vậy mà biết đánh bại bọn Tây mũi lõ, mở rộng giang sơn. Xem ra người dân tộc thiểu số cũng thật lợi hại. Chỉ tiếc là trong dòng dõi dân tộc Hồi của ta thì chưa có ai đủ may mắn để lên làm hoàng đế cả.
Tôi tò mò hỏi:
- Lão Ngũ, lão là người dân tộc Hồi sao?
Lão Ngũ phì cười, đáp lại câu hỏi ngô nghê của tôi:
- Lẽ nào mi không nhận ra ta không ăn thịt lợn? Họ Hắc của ta khởi nguồn từ một vị đại quan người tộc Hồi trong triều đình Mãn Thanh. Xem ra, tổ tiên ta cũng là những người tài giỏi ra phết, vậy mà đến đời ta lại biến thành kẻ trộm… Ha ha, hay đấy, hay đấy!
Tôi sực nhớ lại, lúc ăn cơm ở trụ sở cảnh sát, quả thật tôi chỉ thấy Lão Ngũ gắp rau và thịt dê vào bát, lúc đó tôi không để ý lắm vì nghĩ rằng đấy là do khẩu vị của từng người khác nhau. Thế nhưng tôi lại cảm giác Lão Ngũ ghét ra mặt người Mãn, không khéo đây mới là lí do chính. Quay sang nhìn chị Giai Tuệ, trong lòng nghĩ ngợi lung tung, tổ tiên của chị Giai Tuệ cướp đi giang sơn của tổ tiên Lão Ngũ, giờ hai người đó lại cùng một người dân tộc Hán là tôi vào địa cung tìm ông nội, điều này mới thực sự là kỳ quặc.
Cứ mải nghe Lão Ngũ kể chuyện hơn một tiếng đồng hồ, bụng dạ cũng qua cơn đói khát nên chúng tôi quyết định tiếp tục dò tìm phía trong hầm.
Lão Ngũ đứng dậy, vặn vẹo tay chân cho đỡ mỏi, rồi sang sảng tuyên bố:
- Đã là trộm thì không được về tay không, chúng ta vừa lấy được ba hạt cát bay, đó là loại bảo bối hiếm có, nên chia ra mỗi người giữ một hạt. - Nói rồi, lão từ từ hé lòng bàn tay ra để lộ ba hạt cát trắng đang nhảy múa rất vui mắt, lão tóm lấy một hạt đưa cho chị Giai Tuệ. - Cố tìm chỗ mà giữ lấy, đừng để nó tuột mất. Còn lại hai hạt, ta và Lan Lan mỗi người giữ một hạt. Đây, Lan Lan, hạt này là của mi. - Tôi vội giữ chặt hạt cát trong tay, chỉ sợ nó đi mất.
Lấy được bảo bối, Lão Ngũ hí hửng lên hẳn, lão xoa xoa cằm, lẩm bẩm một mình:
- Nếu như thoát được khỏi đây, thì chuyến đi lần này coi như bõ công, vừa mở mang đầu óc lại còn có bảo bối mang về. Đem về Bắc Kinh bán, chắc cũng kiếm được căn hộ vạn tệ.
Thấy Lão Ngũ đang mơ màng chìm trong giấc mơ làm giàu, tôi không khỏi phì cười, nghĩ thầm trong bụng, chắc Lão Ngũ ở trong tù lâu quá rồi, nên nhận thức cũng lạc hậu đi nhiều, giờ đây “căn hộ vạn tệ” đã trở nên xa xôi lắm rồi. Với nhịp sống chóng mặt như hiện nay, ngay ở thành phố Trường Xuân thôi, căn hộ ổn ổn cũng phải mất vài chục vạn tệ, còn ở Bắc Kinh, một vạn tệ chắc chỉ mua được khoảng đất đặt vừa bàn chân.
Chị Giai Tuệ nhét hạt cát vào trong vỏ đạn, rồi dùng miếng dán urgo dán kín, sau đó cẩn thận nhét vào ngăn bí mật trong balô. Lão Ngũ thì đưa bàn tay đang nắm chặt hạt cát vào bên trong áo, rồi vỗ bụng bình bịch, tôi đoán chắc lão đã cất giữ hạt cát đó rất cẩn thận rồi.
Tôi không có khả năng giấu đồ như Lão Ngũ, trông lão làm cứ nhẹ nhàng như không. Lão đem theo bên mình không ít đồ linh tinh, nên việc cất giữ hạt cát này chắc không phải là quá khó.
Tôi thì loay hay không biết có nên nhét hạt cát vào lõi một chiếc kim nào đó hay không? Thấy vẻ mặt tôi ngẩn ngơ, Lão Ngũ liền bảo chị Giai Tuệ đưa cho lão một miếng urgo rồi nói với tôi:
- Nhóc con, đưa tay cho ta!
Tay trái tôi đang cầm chai nước lọc, nên theo phản xạ liền đưa tay phải ra cho lão.
Lão vỗ tay tôi đánh bốp.
- Tay kia!
Tôi không biết lão đang định làm gì, nhưng vẫn ngoan ngoãn tuân lệnh. Miệng lỗ sẹo trong lòng bàn tay tôi giờ đã khô lại, không còn chảy máu nữa, nhưng vì muốn giữ lại nó, tôi đã nhét một ống kim loại rỗng vào giữa.
Tay trái Lão Ngũ giữ lấy bàn tay tôi, ngón cái sờ nhẹ miệng vết thương, rồi đột ngột ấn mạnh xuống, không biết lão làm như thế nào mà ống kim loại bắn ra, rơi đánh keng xuống mặt sàn đá. Lão Ngũ lùa hạt cát vào lỗ sẹo của tôi, rồi nhanh chóng dán miếng urgo lên, giọng lạnh lùng:
- Với nghề của chúng ta, đôi lúc bảo bối phải được cất vào da thịt thế này mới an toàn.
Tôi gật đầu, cảm nhận hạt cát nhỏ xíu đang liên tục chuyển động bên trong lỗ sẹo của tôi, nó chà xát lớp thịt xung quanh khiến tôi thấy hơi tê tê, đoạn xương nối bị nó va vào cũng phát ra tiếng lục cục, nhưng tôi lại không thấy đau đớn chút nào. Một lúc sau, hạt cát dần quen với môi trường mới nên nằm lặng yên một góc.
Chúng tôi sau khi đã ăn uống đầy đủ, liền thu dọn đồ đạc, theo chùm sáng của chiếc gương Dạ Minh tiến về phía trước hầm, cẩn trọng lần dò từng bước trong bóng tối.
Thiên Cung Cách sát trận
Với loại bảo bối đất bay cát chuyển này, ngoài đặc tính di chuyển tự do như trong trạng thái vô trọng lượng ra, chúng còn có tính hàn, nên từ khi xuất hiện chúng đã nhanh chóng hạ nhiệt cho căn hầm đang hừng hực như lò than, khiến chúng tôi cảm thấy dễ chịu hơn rất nhiều. Nhưng từ khi hắc ưng thoát ra và bay thẳng lên không trung, thì lớp đất cát đã cũng lập tức rút xuống lòng đất qua đường khe giữa những phiến đã lát sàn; không khí mát lạnh cũng theo đó mà mất dần đi, khiến nhiệt độ trong căn hầm lại từ từ tăng lên như cũ. Chúng tôi chỉ mới đi được một đoạn mà toàn thân đã ướt đẫm mồ hôi.
Nhiệt độ căn hầm mỗi lúc một thêm ngột ngạt đến tức thở. Chốc chốc tôi lại lôi chai nước khoáng trong balô ra uống ừng ực, rồi vẩy vài giọt nước lên mặt, lên tay cho đỡ nóng, nhưng chỉ trong nháy mắt, lớp nước đó lại bốc hơi khiến cơ thể nóng rát và khó chịu đến cực độ. Chị Giai Tuệ đi phía sau liên tục nhắc nhở tôi nên tiết kiệm nước vì chỗ nước còn lại cũng không nhiều.
Nghe chị Giai Tuệ nói vậy, Lão Ngũ đang đi phía trước bỗng nhiên dừng lại, quay sang hỏi chúng tôi:
- Hai nhóc, có đứa nào nhớ chúng ta đã xuống đây bao lâu rồi không?
Tôi và Lão Ngũ là những người sống dựa vào đôi tay nên chúng tôi ghét nhất là phải đeo những thứ gây ảnh hưởng tới các thao tác khi mở khóa trên tay, cho nên từ trước đến nay đồng hồ, nhẫn, vòng tay hay những thứ đại loại như thế đều không bao giờ xuất hiện trên tay chúng tôi.
Tôi nhẩm tính một lúc rồi nói:
- Chắc mới chỉ khoảng hai ngày thôi.
Chương 20:
Chị Giai Tuệ ghé sát mắt nhìn chiếc đồng hồ trên cổ tay, ước đoán:
- Chúng ta tới điện Sùng Chính lúc mười một giờ trưa ngày mười sáu, sau đó mở chiếc khóa Song Long cũng không mất nhiều thời gian lắm, còn lúc này là một giờ chiều ngày mười tám, như vậy là chúng ta đã xuống đây được hai ngày rồi.
Lão Ngũ thốt lên một tiếng đầy cảm khái rồi lầm bầm tự nói một mình:
- Mới hai ngày thôi à, vậy mà tưởng chừng như đã hai năm trôi qua. – Rồi lão hỏi chị Giai Tuệ xem lượng lương thực và nước uống còn lại bao nhiêu.
Chị Giai Tuệ đặt balô xuống kiểm tra lại chỗ lương thực dự trữ. Nước khoáng còn mười chai, lương khô mười bốn gói, nếu theo lượng sử dụng như hiện nay hay tiết kiệm hết mức thì cũng chỉ có thể duy trì trong khoảng từ ba đến năm ngày là cùng.

Lão Ngũ gật đầu, thở dài:
- Đến lúc đấy mà vẫn chưa thoát ra được, thì chỉ còn cách tự mút chân, uống nước đái của mình thôi. Mẹ kiếp, đói thì còn nhịn được chứ khát thì làm sao mà chịu được chứ, cổ họng ta khô rát như lửa đốt đây này.
Chị Giai Tuệ tủm tỉm cười, đang định mở lời trấn an lão thì hai tay chị chợt sờ lên trán rồi ngẩng đầu lên, vừa quan sát vừa thắc mắc:
- Sao ở đây lại dột nhỉ?
Tôi cũng giật mình kêu một tiếng, đang định hỏi lại xem là chuyện gì thì chợt thấy phía trên đầu tự dưng mát rượi, giống như đang có hạt mưa rơi xuống vậy. Rồi sau đó hai hạt, ba hạt… liên tiếp rơi xuống. Trong căn hầm nóng nực như vậy tại sao bỗng nhiên lại có mưa? Tôi khum tay trước trần, nheo mắt ngó lên khoảng không đen kịt trên đỉnh đầu.
Vẫn là không gian im lìm không giới hạn mà chiếc gương Dạ Minh của Lão Ngũ chỉ có thể chiếu sáng một khoảng chừng ba mươi đến năm mươi mét. Thế nhưng từ phía cao tít tưởng chừng như vô hạn đó lại đổ xuống vô số những hại nước nhỏ, qua tia sáng xanh của chiếc gương, chúng lấp lánh như những viên pha lê đắt tiền khiến tôi cảm thấy hết sức ngỡ ngàng, thì ra trời đang mưa thật.
Cho dù không nhìn rõ những hạt nước từ đâu rơi xuống, nhưng trước mắt tôi giờ là những hạt mưa rơi xuống mỗi lúc một nhanh và dày hạt hơn, tạo nên vô số đường thẳng kéo dài từ trên xuống, lóng lánh trong suốt như những sợi thủy tinh, nối liền khoảng không vô định phía trên với mặt sàn ở dưới.
Cả ba chúng tôi đều hết sức kinh ngạc ngắm nhìn không gian bao la của căn hầm ken dày bằng những sợi thủy tinh vô cùng đặc biệt. Ánh sáng phản chiếu sợi nước không ngừng xoay chuyển và biến hóa, liên tục tỏa ra những tia sáng đủ sắc màu khiến người ra cảm giác lóa mắt. Nhìn theo những sợi nước chạm xuống sàn, tôi ngỡ ngàng phát hiện ra chúng đều tuân thủ theo một quy luật: Khi rơi xuống sàn chúng sẽ rơi đúng vào bốn góc của phiến đá lát tạo thành một hình chữ nhật vuông vức. Mỗi người chúng tôi đều đứng trong một phiến đá, xung quanh là vô số những sợi nước trượt từ trên xuống mà không hề có một tiếng động nào, cảnh tượng đó tạo cho tôi một cảm giác vô cùng lạ lẫm.
- Đ. mẹ, là dầu mỏ! – Lão Ngũ hét lớn.
Nghe thấy vậy, tôi mới giật mình tỉnh cơn mơ màng, cả căn hầm không biết từ lúc nào đã sực mùi hăng hắc, hình như đúng là mùi dầu mỏ thật. Tôi vội vàng lấy ngón tay quệt lên thứ dung dịch nhơn nhớt, mát lạnh đang dính đầy trên tóc xem thử, quả nhiên đó không phải là nước mà là dầu. Thảo nào rơi từ trên cao xuống mà vẫn dính vào nhau thành sợi, không hề bị đứt đoạn. Nghĩ tới đó, tôi vội nhấc chân lên vì sợ giẫm phải chúng.

Lần này thì đến lượt chị Giai Tuệ lên tiếng:
- Nhìn xuống dưới chân xem, chỗ dầu mỏ chảy đi hết rồi.
Mặc dù dầu vẫn liên tục rơi từ trên xuống, nhưng lại không đọng lại thành vũng mà chúng men theo những khe hở rất nhỏ giữa hai phiến đá, chảy vào lòng đất.
Lão Ngũ cũng trố mắt nhìn một lúc, rồi lại chửi thề:
- Thảo nào trong này nóng thế, thì ra là mỏ dầu. Ta cứ tưởng là nước, đang hí hửng được tắm một trận. Mẹ kiếp, giờ mà có mồi lửa thì cả ba chúng ta thành gà quay hết! – Nói rồi lão ngồi sụp xuống, nheo mắt nhìn đường khe giữa hai phiến đá. – Hay đấy, xem ra cuối cùng đã tìm ra cỗ máy điều khiển rồi. Nhưng sao không cứ thế mà thiêu cháy chúng ta đi, mà lại còn phải chảy xuống dưới đó làm gì. Mẹ cái bọn hoang phí, mấy thằng đầu trọc tết tóc này toàn là bọn ăn no rửng mỡ, chẳng biết làm gì toàn bày ra trò để tiêu khiển.
Nghe bảo có thể sẽ bị thiêu sống, tôi sợ hãi nghĩ thầm con hắc ưng bị xổng chắc đã khởi động cỗ máy dưới lòng đất; thế nhưng trong lòng vẫn còn chút hồ nghi, tôi vội hỏi chị Giai Tuệ:
- Chị Giai Tuệ, em thấy trên tivi dầu mỏ có màu đen, vậy tại sao ở đây nó lại trong suốt giống như nước thế?
Chị Giai Tuệ cũng ngồi xuống nhìn ngó xung quanh, hơi nhíu mày suy nghĩ rồi chậm rãi giải thích cho tôi:
- Dầu mỏ khi đạt tới độ tinh khiết cao sẽ chuyển sang trong suốt, điều này chứng tỏ dầu mỏ ở đây không hề có tạp chất. Với chất lượng như thế này, có thể trực tiếp đóng thùng sử dụng đấy.
Dường như chị Giai Tuệ cũng đang băn khoăn điều gì đó trong lòng, chị ngần ngừ một lúc rồi hỏi Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, lão nghĩ chúng ta đang ở độ sâu bao nhiêu ạ?
Lão Ngũ vuốt chỏm râu lẩm nhẩm suy tính, nói:
- Sau khi mở được chiếc chìa khóa Song Long, nó đưa chúng ta xuống đáy mất nửa ngày trời, rồi lại lúc lên lúc xuống, mất không biết bao nhiêu công sức, nhưng ta đoán cũng phải sâu hơn một nghìn mét.
Chị Giai Tuệ khẽ lắc đầu, chậm rãi nói:
- Không đúng, ít nhất cũng phải hai nghìn mét rồi.
Tôi giật mình thốt lên:
- Trời! Chúng ta đang ở sâu thế sao?
Lão Ngũ vội lên tiếng phản đối con số dự đoán của chị Giai Tuệ:
- Vô lý, sao có thể sâu được thế, vẫn chưa chạm tới mạch nước ngầm kia mà, vả lại ở đây vẫn còn khá dễ thở.
Chị Giai Tuệ gật đầu tán thành nhưng vẫn kiên quyết bảo vệ lập trường của mình:
- Không thể sai được, tám mươi phần trăm lượng dầu mỏ phân bổ ở trong lòng đất tại hai tầng địa chấn có độ sâu là hai nghìn mét và khoảng ba nghìn mét đến năm nghìn mét; đặc biệt, với loại dầu mỏ có độ tinh khiết cao như thế này thì ít nhất phải trong khoảng hơn hai nghìn mét. Từ chi tiết này, cháu ước tình chỗ chúng ta đang đừng ít nhất cũng phải ở độ sâu hai nghìn mét. Thế nhưng khi nhìn lên phía trên thì hầu như không thể đoán được độ cao của khoảng không này là bao nhiêu. Vừa xong khi con hắc ưng bay lên cháu cũng đã để ý dõi theo, âm thanh nó phát ra vọng lại từ một khoảng cách rất xa, ít nhất cũng phải vài trăm mét, thậm chí cả nghìn mét. Vậy thì chỗ chúng ta đang đứng lúc này, nếu nói là sâu không đến hai nghìn mét thì không đúng lắm.
Lão Ngũ đưa tay vỗ vỗ lên mặt sàn đá dưới chân, lưỡng lự nói:
- Hay đấy, hay đấy! Mẹ kiếp, trong suốt dọc đường đi chúng ta không gặp bất cứ một dấu hiệu của mạch nước ngầm nào, chẳng lẽ trong quá trình xây dựng, bọn đầu trọc tết tóc đó đã áp dụng quy trình xử lý mạch nước ngầm trong lòng đất, đẩy chúng chảy tới nơi khác, rồi đào những địa đạo lớn thông với nhau trong lòng đất để không khí được lưu thông. Nếu thật sự tạo được một địa cung như vậy, thì cái bọn cẩu Thanh này cũng đáng để ta nể phục đấy chứ.
Hai người bọn họ cứ mải mê tranh luận, phân tích, khiến tôi nghe càng thêm mơ hồ. Bên dưới địa cung này càng đi càng thấy nhiều điều thần kỳ, tôi chỉ biết ngồi nghe, nhìn lên nhìn xuống, rồi ước lượng, phán đoán trong đầu. Bỗng nhiên, tôi phát hiện ra những sợi dầu lóng lánh đang dần dần phình to…
Cứ nghĩ do mắt mình bị hoa nên tôi ra sức dụi, những giọt mồ hôi ướt đầm trên cánh tay khiến mắt tôi cay xè. Nhưng càng nhìn tôi càng dám khẳng định rằng mình đã không nhìn sai, những sợi dầu đó đúng là đang to dần lên cứ như bên trong nó là những mũi tên dài và nhỏ xuyên thẳng trong lõi với tốc độ rất nhanh. Tôi vội vàng gọi Lão Ngũ và chị Giai Tuệ nhanh tới xem.
Cả ba chúng tôi cùng lao tới sợi dầu gần nhất, tập trung quan sát, bên trong lõi của sợi dầu là một thanh kim loại sáng, màu vàng chanh, thẳng tắp, chỉ nhỏ bằng ngón tay út; phần đầu còn chia thành bốn lưỡi móc lao xuống góc phiến đá, phát ra tiếng cạch cạch.
Tôi nhìn sang xung quanh, đều là như vậy, không thể đếm hết có bao nhiêu thanh kim loại như thế đâm vuông góc xuống sàn đá, lớp dầu mỏ cũng không ngừng men theo đó tuôn xuống, khiến những thanh kim loại sáng loáng như gương. Tôi đứng ở giữa chẳng khác gì bị nhốt trong một chiếc lồng sắt vuông vức.
Chưa hết ngạc nhiên thì bỗng từ phía dưới vọng lên một âm thanh rất lớn, giống như tiếng bánh răng kim loại đang chuyển động khớp lại với nhau, những phiến đá dưới chân rung lên bần bật rồi lắc mạnh sang hai phía, khiến tôi suýt ngã nhào.
Tôi nắm chặt lấy cánh tay Lão Ngũ, vội hỏi lão chuyện gì đang diễn ra, có phải lũ hắc ưng chuẩn bị xông tới không? Sắc mặt Lão Ngũ bỗng sầm xuống, mắt nhìn chằm chằm xuống nền nhà, giọng lão rít qua kẽ răng:
- Bà nó chứ, nhìn kìa!
Những phiến đá lát dưới chân chúng tôi rung lên dữ dội, từng phiến từng phiến bắt đầu tách rời nhau ra, đồng thời những thanh kim loại đâm thẳng xuống dưới khe đá khoảng vài centimet cũng dừng lại, rồi ngay lập tức có tiếng lạo xạo của kim loại cọ sát vào nhau, tựa như những chiếc móc trên đầu thanh kim loại đang móc vật gì đó dưới phiến đá.
Nhìn cảnh tượng này, tôi đoán cỗ máy đã bắt đầu khởi động, chúng hoạt động theo một quy trình đồng nhất từ đầu đến cuối như cỗ máy liên hoàn mà Lão Ngũ đã từng nói đến. Vậy đây nhất định chính là động Hắc Ưng. Tôi cảm thấy sợ hãi vô cùng, liền nhảy sang phiến đá Lão Ngũ đang đứng, kéo theo cả chị Giai Tuệ, ba người chúng tôi đứng cạnh nhau, tay nắm chặt tay.
Chúng tôi đứng sát lại với nhau. Bỗng nhiên không gian vụt sáng bừng lên. Đó không phải là ánh sáng của chiếc gương Dạ Minh. Vừa nghĩ tới đó, bên tai tôi chợt vang lên từng hồi từng hồi tiếng động dội từ trên đầu xuống, âm thanh đó mỗi lúc một lớn hơn, ánh sáng trong căn hầm cũng sáng chói một cách khó hiểu. Tôi vội ngẩng đầu lên quan sát, cảnh tượng phía trên khiến tôi hết sức ngỡ ngàng.
Đầu trên cùng của thanh kim loại ánh lên những tia sáng màu xanh nước biển lấp lánh, chúng rọi thẳng xuống phía dưới và bắt đầu lan rộng. Mọi thứ đang tối đen như mực bỗng dội lên những tia sáng xanh biếc khiến không gian căn hầm bừng sáng với đủ màu sắc lung linh huyền ảo đến lạ thường. Cùng với những tia sáng xanh là những luồng khí lạnh đột ngột kéo đến làm nhiệt độ căn hầm hạ xuống nhanh chóng và khiến toàn thân tôi nổi da gà.
Lão Ngũ giậm chân thình thịch, hốt hoảng kêu to:
- Lửa, dầu mỏ gặp lửa rồi.
Câu nói của Lão Ngũ khiến tôi cảm thấy rất phân vân, rõ ràng nhiệt độ đã giảm thậm chí còn là hơi lạnh, vậy sao lại có lửa chứ, hay là lão đang đùa chúng tôi. Chưa kịp thắc mắc thì tia sáng xanh từ thanh kim loại đã lan đến gần chúng tôi. Đứng giữa bốn tia sáng xanh lè, khuôn mặt ai trông cũng khác lạ như nhìn qua một màn sương mỏng.
Tôi vội quay đầu nhìn lên, những thanh kim loại đang được bọc trong lớp ánh sáng xanh từ từ tỏa ra làn khí trắng mỏng, giống như hơi nước từ những tảng băng. Luồng khí đó mỗi lúc một dày đặc hơn khiến người ta có cảm giác đang lạc vào giữa những đám mây, tầm nhìn cũng vì thế bắt đầu mờ hẳn.
Càng nhìn càng cảm thấy lạ lùng, tôi chăm chú quan sát thanh kim loại, thì ra những tia sáng xanh kia chính là tia lửa nhỏ, giống như ngọn lửa màu xanh của bếp gas, chúng đang chạy dọc thanh kim loại.
Chị Giai Tuệ vẫn chưa tin đó là những ngọn lửa, liền nhổ một sợi tóc gí vào tia sáng xanh. Sợi tóc vừa chạm phải đã lập tức cháy rụi, không để lại chút dấu vết. Nếu chỉ là ngọn lửa màu xanh thông thường thì không có gì đáng nói, nhưng một ngọn lửa mà lại có thể tỏa ra luồng khí lạnh thì thực tình không thể hiểu nổi.
Tôi quay sang nhìn Lão Ngũ, nghĩ bụng: Ngay từ đầu lão đã biết đó là tia lửa, vậy chắc hẳn lão đã nhận ra cơ chế hoạt động của cỗ máy này rồi.
Lão Ngũ mắt không rời khỏi thanh kim loại, tay vân vê mấy sợi râu dưới cằm rồi nói với chúng tôi:
- Nếu như ta đoán không sai, thì những thanh kim loại này chính là Thệ Diệm Kim, tên một loại vàng chỉ có thể tìm thấy tại dãy núi m Sơn thuộc vùng Tân Cương. Nghe nói, số lượng của loại khoáng vật này rất ít lại nằm ở độ sâu vài trăm mét dưới lòng đất; để luyện được nó người ta phải sử dụng rất nhiều phương pháp phức tạp, nên loại vàng này cảng trở nên hiếm hoi hơn. Nó có một đặc tính cực kì lạ lùng là mỗi khi gặp lửa, dù nhiệt độ của lửa có cao đến đâu chăng nữa thì bản thân nó vẫn luôn tỏa ra luồng khí lạnh.
Nghe thấy vậy, chị Giai Tuệ đưa mắt nhìn ra tứ phía, nghi hoặc nói:
- Lão Ngũ, nếu đúng như lão nói, những thanh kim loại này chính là Thệ Diệm Kim thì vua Nỗ Nhĩ Cáp Xích kiếm đâu ra những thứ kì quái này chứ. Hơn nữa, thời bấy giờ kỹ thuật luyện kim đâu đã phát triển, liệu họ có tự chế tạo ra không, đây quả đúng là một điều bí ẩn.
Lão Ngũ gật đầu tán thành ý kiến của chị, lão nói mọi thứ ở dưới này đều rất kì quái, bởi bọn cẩu Thanh làm cái gì cũng muốn thật hoành tráng. Lão còn cho rằng dưới Cố Cung ở Bắc Kinh nhất định còn cất giấu nhiều bảo vật quý hiếm hớn thế này nhiều, nếu có cơ hội phải đến đó một chuyến để mở mang đầu óc mới được. Chị Giai Tuệ vội lắc đầu phản đối:
- Cố Cung ở Bắc Kinh chắc chắn không được như thế này đâu, bởi vì nơi nhà Thanh phát tích chính là vùng Đông Bắc này, đây mới chính là cội nguồn…
Chưa để chị nói hết câu, tôi đã vội ngắt lời, hỏi Lão Ngũ cỗ máy này ở đây thực ra có dụng ý gì, tại sao cố tình đặt những thanh vàng tỏa ra khí lạnh như thế, phải chăng chúng cũng giống những cột trụ ở giữa Hắc Xà, dùng những luồng khí lạnh để làm đông cứng chúng tôi?
Lão Ngũ lắc đầu, nói:
- Ta nghĩ không phải. Tuy nhiệt độ có hạ xuống nhưng căn hầm này vẫn còn hơi nóng. Khi hai luồng khí đối nghịch gặp nhau, chúng ta cũng đâu có thấy khó chịu lắm.
Lão quay sang nhìn ra bốn phía rồi nói thêm là chính lão cũng chưa hiểu vai trò của cỗ máy này như thế nào, đến nước này chỉ còn cách đến đâu hay đến đó, trước mắt cứ lần theo khoảng giữa những thanh kim loại mà đi về phía trước thôi.
Nghe Lão Ngũ nói vậy, vốn đang sẵn sốt ruột nên tôi lập tức đưa chân định bước qua khoảng giữa của hai thanh kim loại để tiếp tục tiến lên phía trước. Không ngờ, vừa đặt một chân xuống mặt sàn thì bỗng nhiên những tia lửa từ thanh kim loại lập tức phụt mạnh, đúng lúc tôi đang ở tư thế chân trong chân ngoài giữa hai phiến đá, chưa biết phải tránh sang phía nào tôi đành cứ đứng trơ trơ chấp nhận chờ chết. Tôi căng thẳng tới mức buột mồm văng ra một câu chửi thề.
Bỗng có một lực kéo mạnh tôi về phía sau đúng lúc hai ngọn lửa mang theo luồng khí lạnh buốt phụt tới xém qua chóp mũi tôi rồi chập vào nhau, phát ra tiếng kêu giòn giã. Do lực va khá lớn nên hai thanh kim loại cũng bị rung mạnh, rồi theo đà chúng tiếp tục rung nhẹ khiến những ngọn lửa xanh đua nhau phụt ra những tia lửa nhỏ li ti làm tóc mái của tôi cũng bị cháy sém một góc.
Tôi cuống cuồng đưa tay lên phủi phủi tóc mái để dập lửa, quay ra sau thì thấy Lão Ngũ vừa túm chặt tay lấy lưng áo tôi vừa hằm hằm nhìn tôi đầy trách móc.
Chị Giai Tuệ vừa giúp tôi dập lửa vừa lo lắng nói:
- Nguy hiểm quá, may mà Lão Ngũ ra tay kịp thời.
Tôi vỗ vỗ tay lên ngực để trấn an tinh thần rồi hổn hển cảm ơn Lão Ngũ đã cứu mạng và hỏi lại đây là cỗ máy gì. Lão Ngũ bực bội trả lời:
- Nhóc con, chỉ được cái lanh chanh. Chưa đợi nói hết câu đã lao lên trước, giờ đứng yên đấy để ta xem xét kĩ lưỡng rồi sẽ nói cho mi biết.
Lão Ngũ nói xong thì thả tôi ra, rồi ngồi xuống nghiêng đầu sang trái, ngoẹo đầu bên phải quan sát thật kỹ hai tia lửa đang chạm vào nhau, sau đó khẽ gật đầu:
- Hay đấy, hay đấy. Hóa ra đây chính là Thiên Cung Cách sát trận.
Nghe thấy cái tên này, tôi lập tức nghĩ tới một bộ phim nước ngoài đã từng xem, nội dung kể về những cỗ máy được thiết lập theo mô hình trận địa. Hồi đó, ông nội bắt tôi phải xem bộ phim này để quan sát và rèn luyện.
Lão Ngũ nói với chúng tôi, Thiên Cung Cách sát trận có nguồn gốc từ một kiểu thế trận biến hình thời cổ đại, chủ yếu dùng để bày binh bố trận hoặc bảo vệ lăng mộ của vua chúa, thế nên nó mới được gọi là Thiên Cung. Đem đặt ở đây thì cũng hơi không cần thiết.
Trong mắt của những người Trung Quốc cổ đại, các hình khối đối xứng tự thân có tính thẩm mĩ cao, đặc biệt là hình tròn, tiếp đó là hình vòng cung, rồi mới đến những hình có góc cạnh như hình vuông, hình chữ nhật. Nhưng theo ghi chép về các cỗ máy bí mật thời cổ xưa, thì loại thế trận hình vòng cung dễ ứng dụng vào thực tiễn hơn loại thế trận hình tròn, vì tính năng kết hợp thuận tiện, dễ dàng. Đặc biệt bên trong nó vẫn có thể bố trí thêm một trận địa khác để tăng khả năng liên kết và chống đỡ.
Lấy căn hầm trước mặt làm ví dụ. Mỗi phiến đá lát được coi là “nhất cung”, vậy bốn phiến đá sẽ tạo thành “tứ cung”, chín phiến đã sẽ là “cửu cung”[1]. Cứ theo quy luật như vậy, có bao nhiêu phiến đá sẽ tạo nên trận địa có bấy nhiêu cung.
[1] Cửu cung ở đây có hình dạng khá giống Cửu cung Hà đồ, nhưng tính chất không hoàn toàn giống nhau.
Tiếp đó, hai cung tạo thành một cách, cứ theo đó mà tính thì cho dù dưới này có bao nhiêu phiến đá lát chăng nữa cũng chỉ cần sắp xếp chúng theo đúng trình tự dọc ngang, hoặc theo hình bình hành thì đều tạo thành Thiên Cung Cách sát trận.
Giảng giải đến đây, Lão Ngũ giậm mạnh chân xuống sàn:
- Nơi chúng ta đang đứng là một cung, lấy đây là điểm trung tâm rồi hướng ra bốn phía xung quanh, cứ hai phiến đá là một cách. Những cung, cách này từ trên xuống dưới, từ trái qua phải đều ăn khớp với nhau, thật không biết trận địa ở căn hầm này được ghép bởi bao nhiêu cung, cách đây.
Lão Ngũ còn say sưa nói đông nói tây một hồi lâu, nhưng tôi không tài nào hiểu được. Vốn là một đứa trẻ lười học, nên với những lời giải thích kiểu lôgic toàn học thế này, tôi thực sự không thể tiêu hóa nổi. Những phiến đá trước mặt đang không ngừng nhảy múa trước mắt khiến đầu óc tôi quay cuồng, mụ mị. Dù sao thì những lời của Lão Ngũ cũng khẳng định một điều: Thiên Cung Cách sát trận là một trận địa vô cùng phức tạp và khó lường.
Chị Giai Tuệ chăm chú nghe Lão Ngũ giảng giải nên hiển nhiên là đã hiểu ra vấn đề, chị giải thích thêm cho tôi:
- Đây là tổ hợp những ô vuông được bố trí và sắp xếp có chủ ý, bản chất của nó là áp dụng những công thức toán học lũy thừa và nghịch đảo. Hiện giờ ta không rõ số phiến đá trên mặt sàn là bao nhiêu, như thế đồng nghĩa với việc trình tự sắp xếp của các cung, cách cũng là vô số.
Lão Ngũ gật đầu tán thành:
- Mấy cái trình tự dọc ngang gì đó thì ta không hiểu lắm, nhưng dù sao trận địa này cũng vô cùng nguy hiểm.
Tôi sốt ruột tới mức không thể không lên tiếng hỏi lại:
- Nhìn mấy thứ này cháu cứ thấy u u mê mê kiểu gì ấy, thế nhưng chắc chắn chúng phải mang một ẩn ý gì đó, đúng không ạ? Chẳng lẽ chúng lại điều khiển các thanh kim loại này kẹp chết chúng ta?
Lão Ngũ mỉm cười không trả lời mà chỉ thò tay vào ngực áo lấy ra viên Phi Hoàng thạch, khiến chúng tôi chăm chú dõi mắt nhìn theo.
Lão lia viên Phi Hoàng thạch sang phiến đá bên phải rồi để nó rơi tự do xuống nền. Thanh kim loại kẹp giữa hai phiến đá lập tức chuyển động. Thế nhưng một điều rất lạ là hai tia lửa không xuất hiện như trước, mà một thanh kim loại bỗng dưng lắc mạnh rồi va vào thanh còn lại, sau đó chúng quay trở lại vị trí ban đầu. Sự việc xảy ra nhanh đến mức tia lửa trên thanh kim loại tạo thành một vệt xanh lè bay vụt qua.
Nhìn thấy cảnh tượng trước mắt, tôi và chị Giai Tuệ đều hết sức ngỡ ngàng, đặc biệt là tôi – người khá rành về nguyên lí chế tạo khóa và những thiết bị tương tự. Hành động của Lão Ngũ khiến tôi nhận ra kết cấu của cỗ máy phía dưới mặt sàn đá kia rất đỗi phức tạp, nó là sự kết hợp của rất nhiều cơ chế hoạt động khác nhau nên hình thức tấn công phòng thủ mới biến hóa như vậy.
Lão Ngũ còn nói với chúng tôi, Thiên Cung Cách sát trận thường đặt trong lăng mộ thế nên thông thường cấu tạo của nó là những bức tường đá và sàn kim loại. Bốn mặt cung đều là lối ra, nhưng bắt buộc phải tìm cho đúng; sang tới cung tiếp theo, lại phải chọn lối khác. Trong đó, tường đá và mặt sàn kim loại chính là điểm mấu chốt của cả cỗ máy và chúng liên quan mật thiết với nhau. Chỉ cần chọn sai một bước, thì không những không thoát ra được mà thậm chí còn bị cỗ máy tấn công, tới lúc đó tính mạng sẽ vô cùng mong manh.
Trận địa Thiên Cung Cách sát trận trước mắt chúng tôi lại thuộc hàng vi diệu nhất, cả bốn phía đều không có tường chắn mà chỉ có những thanh Thệ Diệm Kim phủ lửa xanh. Mặc dù nó trong suốt, nhưng như thế càng khó để thoát ra do ngọn lửa phản chiếu làm suy giảm khả năng quan sát, thậm chí còn rất dễ bị chệch hướng. Chỉ cần chọn sai thì cỗ máy sẽ điều khiển những thanh kim loại di chuyển loạn xạ tạo nên một trận địa rối ren. Đến lúc đó, thật không thể tưởng tượng được chuyện gì sẽ xảy ra.
Nói đến đây, những nếp nhăn trên khuôn mặt Lão Ngũ xô đẩy vào nhau khiến gương mặt lão trở nên nhăn nhúm, khó coi. Lão hằn học nói:
- Có nghe câu thành ngữ Cách sát bất luận (giết không cần luận tội) bao giờ chưa? Cách sát… ha ha… chính là từ trận địa này mà ra đấy. Xem ra ba cái mạng còm của chúng ta đã đến lúc bị cách sát rồi.
Nghe thấy vậy, đầu óc tôi trở nên trống rỗng, chẳng lẽ chúng tôi lại cam tâm chết ở đây thật sao. Đây cũng là lần đầu tiên Lão Ngũ gặp phải tình huống này nên giờ lão cũng chẳng khác gì hai chị em tôi, đến đâu hay đến đó. Chúng tôi quan sát xung quanh một hồi lâu rồi quyết định tiếp tục dấn thân, không thể để mọi việc chấm dứt như thế này được.
Do đã thám thính trước nên Lão Ngũ cho rằng bước sang phía tay trái sẽ an toàn hơn. Lão dùng viên Phi Hoàng thạch thử lại một lượt nữa, quả nhiên hai thanh kim loại không va vào nhau, đến lúc đó chúng tôi mới cẩn trọng bước qua.
- Phiến thứ ba nhất định phải tiến vào từ phía sau, phiến thứ tư thì tiếp tục bước thẳng tới…
Qua sự chỉ dẫn của Lão Ngũ, chúng tôi cẩn thận bám sát theo sau, lúc bước thẳng lúc lùi ra sau, lúc thì sang trái lúc thì sang phải, cứ như vậy cuối cùng chúng tôi cũng đã tới được phiến đá thứ hai mươi mốt mà không gặp trở ngại gì. Tuy nhiên do lúc tiến lúc lùi nên tính về khoảng cách thực thì chúng tôi mới chỉ tới được phiến đá thứ tám. Mỗi phiến đá có chiều dài một mét, vậy nghĩa là chùng tôi mới đi được có tám mét. Thế nhưng để đi được tám mét ngắn ngủi này, chúng tôi đã phải mất gần hai mươi phút đồng hồ. Lão Ngũ đăm chiêu vuốt râu và nói:
- Không được, không được rồi, cứ như thế này mãi thì cũng không được, có đến tận đầu kia thì cũng không thể tìm được lối ra.

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét