var popunder = true; shopmetho: Thiên Tỏa Full - C21-C33

Thứ Năm, 23 tháng 6, 2016

Thiên Tỏa Full - C21-C33


Ch­ương 21:
Chị Giai Tuệ lo lắng hỏi Lão Ngũ xem có cách nào khác không. Lão chớp chớp đôi mắt mờ đục, suy nghĩ một lúc lâu rồi khẽ lắc đầu và nói:

- Mẹ kiếp, hướng nào cũng là cửa tử, thà chết nhanh chóng còn hơn là như thế này, chúng ta quay vòng thôi. Ta vừa nảy ra một ý, hai đứa thử tham mưu xem sao.
Cơn tò mò trỗi dậy, tôi lập tức hỏi lại:
- Lão Ngũ, quay vòng gì?
Lão Ngũ liếc xéo tôi đầy khinh thường rồi khịt mũi nói:

- Mi còn nhỏ lại ít kinh nghiệm, nên không hiểu được chuyện này đâu. Chim phượng hoàng sau khi bị thiêu vẫn có thể tái sinh trở lại, đó chính là quay vòng.
Tôi gật gù tỏ vẻ đã hiểu, nhưng trong lòng vẫn cảm thấy rất kỳ lạ, điều đó thì có liên quan gì đến quay vòng chứ?
Chị Giai Tuệ bỗng nhiên đưa tay lên bịt miệng, ho sặc sụa, vẻ mặt dở khóc dở cười trước lời giải thích của Lão Ngũ, nhưng rồi vẫn hỏi lão rốt cuộc đã có chủ ý gì.
Lão Ngũ mím môi trả lời đầy quyết tâm:
- Thành công hay không thì ta chưa biết được, hay là cứ đánh động tất cả cung, cách trước đã, rồi từ từ theo đó tìm đường thoát thân.
Lão bàn với chúng tôi về cách thoát thân. Thì ra chủ ý của Lão Ngũ là dùng Phi Hoàng thạch lia ra tứ phía để kích cho các thanh kim loại kia cùng chuyển động va vào nhau, rồi dựa vào đó để nắm bắt quy luật, tìm ra hướng đi.
Đó là cách vô cùng mạo hiểm, là ranh giới cuối cùng giữa sự sống và cái chết với nếu cả cỗ máy cùng hoạt động một lúc thì chúng tôi sẽ không còn cơ hội sống cho mình. Thế nhưng, nếu không làm như vậy thì trận đồ bát quái này cũng sẽ giam chân chúng tôi cho đến chết.
Sau khi đã bàn bạc ổn thỏa, Lão Ngũ lôi ra hai nắm đá, mỗi tay mười viên. Lão thận trọng chỉnh lại góc độ cũng như vị trí kẹp giữa hai ngón tay. Hơi cúi người xuống, lão lấy một hơi dài rồi nín thở, đột ngột thẳng người ném hai mươi viên Phi Hoàng thạch ra ba hướng khác nhau.
Không biết lão làm thế nào mà những viên Phi Hoàng thạch bay ra nhanh chậm, cao thấp, xa gần cũng khác nhau. Chỉ trong nháy mắt, hai mươi viên Phi Hoàng thạch đã rơi xuống hai mươi phiến đá xung quanh chúng tôi, rồi gần như cùng một lúc, phát ra tiếng lạch cạch. Những thanh kim loại cũng lập tức chuyển động.
Trong nháy mắt, từ bốn góc của phiến đá, những thanh kim loại bắt đầu rung bần bật với những tiếng rít rùng rợn. Chúng chuyển động mỗi lúc một nhanh hơn, kéo theo một dây chuyền cùng đồng loạt hoạt động rồi nhanh chóng tỏa ra bốn phương tám hướng, như những con sóng dồn dập xô nhau.

Do thanh kim loại khá mảnh và quay tít nên nhìn như chúng chỉ khẽ đưa qua đưa lại, ngọn lửa xanh lè lúc nãy giờ cũng đã giảm dần và chúng tôi không còn cảm nhận rõ sức nóng của nó nữa.
Cả căn hầm bỗng dội lên một tiếng vang rất lớn, giống như sóng thần đang cuồn cuộn dâng lên. Hai tai ù đặc và trong lòng bất an, tôi vội vàng bịt chặt hai tai nhưng không thể nào ngăn được tiếng sóng đang gào thét.
Cùng lúc đó, tất cả các thanh kim loại gần như dừng lại trong thoáng chốc rồi tiếp tục chuyển động tạo ra những đường lửa xanh lập lòe, khiến cả căn hầm sáng lên trong một thứ ánh sáng ma quái.
Cả ba chúng tôi đều cố kìm nén ngạc nhiên, nắm chặt tay nhau, đứng im đưa mắt nhìn ra bốn phía thăm dò, cố gắng tìm quy luật hoạt động của những thanh kim loại kia; thế nhưng, càng dõi chúng tôi càng thất vọng hơn vì không thể tìm ra quy luật hoạt động của chúng; những thanh kim loại tuy chuyển động theo đường biên, nhưng tuyệt nhiên không theo quỹ đạo nào. Có những thanh thì chuyển động theo một hướng cố định, nhưng lại có những thanh liên tục va vào nhau, thậm chí có cả những thanh chỉ men theo đường biên trượt ra xa; dường như tất cả chúng đều có một đường di chuyển riêng. Thực tình chúng tôi không thể tưởng tượng nổi cỗ máy tinh tế này được thiết kế như thế nào và bộ phận điều khiển mấu chốt của nó phức tạp tới đâu.
Chuyển động của những thanh kim loại mỗi lúc một nhanh hơn, chúng vùn vụt lao nhanh, đem theo những ngọn lửa xanh rồi giao tại các điểm khác nhau, tạo nên một bức tường lửa với những đường kẻ sọc màu xanh. Thật lạ, những bức màn lửa xanh mỏng manh tuy vẫn đang hừng hực tỏa nhiệt nhưng lại trong suốt đến bất thường, chẳng khác gì một mặt gương đang phản chiếu lại hình ảnh của ba chúng tôi một cách rõ nét. Từ trước đến sau, từ trái qua phải đâu đâu cũng là hình ảnh của chúng tôi. Ba chúng tôi như bị vây hãm bởi một rừng tường lửa mà chỉ cần nhìn thôi cũng đã đủ làm cho đầu óc quay cuồng.
Lão Ngũ bỗng dưng kêu lên ầm ĩ:
- Chết rồi, chết rồi, vậy là phí phạm bao nhiêu viên Phi Hoàng thạch của ta rồi.
Đang định mở lời thì bỗng nhiên chị Giai Tuệ quay lại cười với tôi với vẻ mặt khác thường, khiến tôi có chút khó hiểu và thoáng thấy lo sợ. Ngỡ ngàng trong phút chốc, Lão Ngũ liền rút từ trong áo ra một thanh gươm mỏng sáng loáng, múa vài đường trong không trung, giọng sang sảng:
- Mẹ kiếp, chém chết chúng mày đi.
Lão Ngũ giống như một kẻ điên, miệng hét ầm ĩ, tay không ngừng vung mạnh lưỡi gươm tạo nên những đường lóe sáng trên không trung, rồi chém mạnh lên bức tường lửa in hình mình phía bên trái với vẻ tức tối.
Hai thanh kim loại bên phía tay trái vẫn liên tiếp va vào nhau, lưỡi gươm chạm phải đinh tai như đạn pháo oanh tạc. Đúng lúc đó ngọn lửa xanh bỗng bùng lên như một dòng nước chảy dọc theo lưỡi gươm.
Đôi mắt Lão Ngũ đỏ ngầu cùng ánh lửa, lão ngửa cổ cười khanh khách, nhưng bàn tay vẫn không rời thanh gươm, tiếp tục quay người chém sang bức tường lửa khác.
Tôi thấy sợ hãi vô cùng, lẽ nào Lão Ngũ bị điên rồi sao? Nhìn thấy ngọn lửa đang cháy lan đến tay lão, tôi vội vàng lao tới, giằng lưỡi gươm trong tay lão ra.
Lão Ngũ hình như không cảm thấy đau, luôn miệng phát ra những tràng cười quái dị, rồi quay đầu nhìn chị Giai Tuệ:
- Vẫn còn mi… hơ hơ…
Đôi mắt lão đỏ rực lên, nhào người đuổi theo chị Giai Tuệ. Lúc này vẻ mặt Giai Tuệ cũng vô cùng dữ tợn, chị rút khẩu súng, lên đạn và chĩa thẳng về phía Lão Ngũ.
Trời ơi! Hai người họ đang làm gì thế này, phải chăng là họ đang muốn chém giết lẫn nhau? Tim đập thình thịch, tôi vội vàng lao tới giật khẩu súng trong tay chị Giai Tuệ, hét lớn:
- Lão Ngũ, chị Giai Tuệ, hai người làm sao thế?
Thế nhưng mặc cho tôi gào thét, họ vẫn như không nghe không thấy gì, hai bên cùng lao tới siết cổ đối phương. Hai cặp mắt hằn tia máu, khuôn mặt tím tái, miệng không ngừng phát ra những tràng cười điên dại.
Qua những hành động kì quặc trên, tôi đoán họ đã trúng phải một loại độc tố nào đó. Không còn thời gian để sợ hãi, tôi cuống cuồng rút từ trong balô ra hai chiếc kim móc, cầm thật chắc tay rồi lần lượt đâm vào huyệt tỳ du phía sau lưng của từng người. Đầu mũi kim cắm thẳng vào xương sống chúng một centimet khiến hai người họ lập tức đừng yên như pho tượng.
Vị trí của huyệt tỳ du nằm ở phía sau lưng, dưới sống lưng thứ mười một, rộng chừng hai đầu ngón tay. Ngày trước, ông nội đã từng giảng giải về vị trí các huyệt đạo và kiến thức liên quan, thế nên tôi biết rất rõ huyệt tỳ du là trọng điểm khiến toàn thân mềm nhũn ngay tức khắc.
Thấy có tác dụng, tôi tiếp tục vê chiếc kim cắm sâu thêm một chút nữa. Cả hai người từ từ thả lỏng tay chân, toàn thân lắc lư như say rượu, liêu xiên ngã phịch sang một bên. Mỗi phiến đá dưới chân chúng tôi đều chỉ rộng một mét vuông, ba chúng tôi đứng chung trên một phiến đá đá thấy rất chật chội, giờ nếu hai người này ngã xuống thì liệu có bị những thanh kim loại kia kẹp chết không?
Tôi lập tức thả tay ra khỏi chiếc kim, ôm chặt lấy hai người, cố gắng giữa họ không vượt qua ranh giới tử thần kia. Lúc đó, tôi mới cảm nhận được cơ thể của hai người họ đang nóng hừng hực như bị sốt, đôi mắt đỏ quạch dần dần trở lại màu sắc bình thường.
Tôi mừng rơn, áp má lên mặt hai người, khẽ nói:
- Lão Ngũ, chị Giai Tuệ, hai người đã đỡ chưa?
Thực ra, lúc đó tôi thực sự rất sợ, nhỡ đâu hai người họ lại cùng lúc điên loạn thì một mình tôi biết làm sao đây?
Một lúc sau, Lão Ngũ bỗng nhiên nấc lên một tiếng rồi phều phào ni:
- Nhóc con, mi ôm ta làm gì thế?
Lão Ngũ chớp chớp đôi mắt híp như sợi chỉ của mình, nhìn tôi vẻ khó hiểu, hoàn toàn không còn thấy vẻ điên dại lúc trước nữa. Chị Giai Tuệ cũng ho khan vài tiếng, rồi quay sang nhìn tôi đầy thắc mắc.
Thấy hai người đã trở lại trạng thái bình thường, tôi mới thở phào nhẹ nhõm, nhưng vẫn giữ chặt lấy vạt áo của hai người không dám thả tay ra, tỉ mỉ kể lại sự việc vừa rồi.
Nghe tôi kể xong, hai người tỏ vẻ hoài nghi, họ dường như đã quên hết mọi việc mới chỉ diễn ra vài phút trước. Thế nhưng nhìn thấy thanh gươm và khẩu súng bị tôi đá sang một bên, hai người không thể không tin những lời tôi nói là sự thật. Lão Ngũ lắc đầu, miệng lẩm bẩm:
- Hay đấy, lẽ nào chúng đã sử dụng một dạng khóa treo, khiến chúng ta lạc vào mê trận này?
Chị Giai Tuệ vội lên tiếng:
- Cũng không đúng, thế tại sao Lan Lan lại không bị? Lão Ngũ, lẽ nào chúng ta đã bị trúng khí độc?
Lão Ngũ gật gật đầu tỏ vẻ đồng ý, nói:
- Có lý! Trên thanh kim loại kia không thể có độc, nhưng lớp dầu đang lan tới thì chắc chắn có, chúng ta do không biết điều này nên đã vô tình khởi động các bộ phận của cỗ máy, và bị trúng loại độc dược gây ảo giác chết người.
Nghe lời Lão Ngũ phân tích, tôi sực nhớ ra cảm giác lâng lâng ban nãy của mình, chắc chắn tôi cũng đã bị trúng độc, nhưng do trên người đang đeo cặp tỳ hưu ngọc nên mới giữ được tỉnh táo. Nghĩ vậy, tôi bỗng cảm thấy rùng mình, may mà bảo bối này luôn bên người, nếu không cả ba chúng tôi đã cùng bị trúng độc, đến lúc đó không chết vì tự chém giết lẫn nhau thì cũng bị những thanh kim loại đang bốc cháy hừng hực kia kẹp chết, không khéo biến thành than cũng nên.
Tôi lập tức nhìn ra bốn phía xung quanh, những thanh kim loại lúc nãy còn va đập dữ dội vậy mà giờ cũng đã bắt đầu va chậm lại rồi từ từ trở về vị trí ban đầu; những tia lửa xanh yếu dần đi, chỉ còn lại một lớp mỏng bao quanh thanh kim loại. Thế nhưng đó chỉ là quanh khu vực chỗ chúng tôi đứng, còn phía đằng xa, những thanh kim loại vẫn không ngừng va đập vào nhau, tiếng lanh canh vọng tới theo một nhịp điệu nhất định.
Lão Ngũ quan sát một hồi lâu rồi bỗng vỗ mạnh lên đùi, nói:
- Mẹ kiếp, đây chính là Trung cung, vị trí then chốt nguy hiểm nhất của loạt Cung Cách sát trận, và cũng là nơi khí độc lan tỏa. Xem ra chúng ta đã thực sự tiến vào bên trong cỗ máy, giờ chỉ còn cách phá được chúng thì mới có thể thoát khỏi đây.
Nói đến đây, lão lại tiếp tục kể cho chúng tôi nghe cái cách mà người xưa đã đặt tên cho loại Cung Cách sát trận này, họ đặt tên cho nơi ở của hoàng hậu là Trung cung, còn nơi trọng yếu nhất trong triều đình lại là Nội các. Hai nơi này đều có quyền lực tối cao nhưng cũng nguy hiểm nhất. Xem ra, đàn bà và chính trị đều nham hiểm như nhau.
Tôi nghe mà chẳng hiểu mô tê gì cả, không biết lão cố tình trêu tôi hay là đang nói sự thật.
Lão Ngũ vỗ mạnh lên vai tôi, đưa ra lời đề nghị:
- Nhóc con, những lúc hiểm nguy như thế này không nên ích kỉ, hãy tách đôi cặp tỳ hưu ngọc ra đi.
Tôi lập tức làm theo lời lão, tháo cặp tỳ hưu ngọc đang đeo trên cổ ra, tách đôi chúng rồi đưa cho lão một mảnh để phòng độc.
Lão Ngũ nắm chặt mảnh ngọc trong tay, bước nhanh tới gần thanh kim loại trước mặt, rồi từ từ ngồi xuống, nghiêng đầu quan sát thật tỉ mỉ. Tôi và chị Giai Tuệ đứng phía sau, khoác chặt tay nhau và cùng lo lắng nhìn về phía Lão Ngũ.
Lão Ngũ ngồi phịch xuống sàn, nhìn lên ngó xuống rất lâu rồi lại nhìn sang ba thanh kim loại còn lại, sau đó lão quay đầu lại nói với chúng tôi:
- Phần mũi thanh kim loại đúng là có vấn đề. Lan Lan, mi lại đây xem này!
Nói rồi, lão quay trở lại đứng thay vào vị trí của tôi, nắm lấy tay chị Giai Tuệ. Còn tôi thì giữ chặt mảnh ngọc trong tay, rồi ngồi xổm xuống trước một thanh kim loại, quan sát kĩ lưỡng nơi Lão Ngũ đã chỉ.
Tôi dần dần phát hiện ra, phần mũi mỗi thanh kim loại đều có một mắt khóa vô cùng nhỏ, cách mặt đất đúng chừng ba centimet. Quan sát kĩ hơn thì thấy từ mắt khóa phun ra một làn khí mỏng, lực vừa đủ khiến cho tia lửa xanh đang phủ quanh thân thanh kim loại tào thành một vòng xoáy nhỏ.
Bỗng tôi nghe giọng Lão Ngũ vang lên từ phía sau:
- Đã nhìn thấy chưa, ta đoán khí độc được phun ra từ đó, mi nói xem liệu đó có phải là lỗ khóa không?
Tôi gật đầu vì cho rằng điều Lão Ngũ nói hoàn toàn có cơ sở. Khi thanh kim loại lao từ trên xuống, sẽ lần lượt cắm vào bốn góc của phiến đá, khi chúng gắn kết hoàn chỉnh với nhau, cỗ máy sẽ bắt đầu khởi động. Nếu nói đây là một loại khóa, thì có vẻ như nó mang kết cấu của khóa khảm nhưng với quy mô lớn hơn rất nhiều.
Khóa khảm là một loại khóa mà tất cả các bộ phận đều hiển lộ ra ngoài, thông thường chúng được thiết kế trong những cỗ máy lớn. Những thanh kim loại này được coi là lõi khóa, còn những phiến đá thì chính là những bánh răng cưa; khi những thanh kim loại cắm thẳng xuống nền đá thì coi như trục khóa đã ăn khớp vào các bánh răng cưa. Các phiến đá lát dưới căn hầm này nhiều vô kể, mỗi khi thanh kim loại cắm xuống ăn khớp với bốn phiến đá xung quanh nó tạo nên một thế trận liên kết chặt chẽ với nhau, thì đây chính là loại khóa khảm điển hình. Người thiết kế ra nó đã cố tình tăng diện tích lên bội phần; hơn nữa lại đặt trong căn hầm bất tận này, e là muốn mở được nó sẽ phải mất rất nhiều thời gian và sức lực.
Nghe thấy lời giải thích của tôi, Lão Ngũ tỏ vẻ chán nản, lão nói:
- Vậy thì phải nghĩ cách khác thôi, chứ nếu để giải quyết từng thanh kim loại một thì chắc ba chúng ta phải ăn Tết ở dưới này mất.
Chị Giai Tuệ đang im lặng bỗng dưng lên tiếng:
- Lan Lan, chị nghĩ tốt nhất là em vẫn cứ nên thử. Hắc ưng chắc chắn sẽ tấn công từ phía trên xuống, mà căn hầm này lại rộng bao la, bốn phía xung quanh không có đường biên, chi bằng chúng ta nghiên cứu kỹ phía dưới này, nhỡ đâu lại phát hiện thêm điều gì.
Lão Ngũ lập tức đồng tình, hết lời khen ngợi chị Giai Tuệ suy nghĩ sáng suốt. Bản thân tôi cũng cảm thấy còn chút tia hi vọng, từ trước đến nay tôi luôn cho rằng mọi hướng đi đều ở phía trước mặt, chứ không hề nghĩ nó lại có thể nằm ngay dưới chân, nếu như lần này may mắn, biết đâu chúng tôi sẽ thoát được khỏi căn hầm này.
Nghĩ vậy, tôi lôi bọc kim móc từ trong balô ra rồi chọn lấy một sợi dây da lừa màu đen dài chừng sáu centimet. Loại dây da lừa này là một loại bảo bối truyền đời của Kiện môn vì có lực nén cực lớn. Tôi đã từng nghe ông nội giảng giải về cách chế tạo vô cùng phức tạp của nó, đầu tiên phải luộc đi luộc lại rất nhiều lần cho đến khi nó co lại ở mức tối đa và chuyển sang màu xám đậm, tiếp sau đó là tôi luyện nhiều lần trong nước đá và lưu huỳnh cho tới khi nó đạt tới khả năng chống lửa chống nước. Hơn nữa, tính năng của loại dây này rất đặc biệt, nó vừa có tính mềm dẻo lại vừa chắc khỏe, rất thích hợp để mở mọi loại khóa trong thiên hạ.
Tôi giữ chặt hai đầu dây, kéo nó dài hơn ra một chút rồi từ từ chọc vào lỗ khóa ở mũi thanh kim loại.
Sợi dây da lừa vừa chạm vào tia lửa xanh thì ngay lập tức đã phát ra tiếng lép bép, rồi từ từ chuyển sang màu trắng và vô số những tia nhỏ li ti bắn ra giống như tia lửa hàn. Xem ra ngọn lửa xanh này cũng khá lợi hại, nhưng dù lợi hại như vậy sợ dây da lừa cũng không hề hấn gì.
Thấy sợi dây da lừa không bắt lửa, tôi yên tâm phần nào, từ từ chọc mũi kim vào lỗ khóa thăm dò. Tôi phát hiện thấy phía trong lỗ khóa là một khoảng rỗng nằm dọc theo thanh kim loại. Lúc tôi đổi tay, lực tác động lên sợi dây cũng thay đổi khiến nó hơi cong lên nhưng vẫn từ từ đi thẳng vào trong.
Sau khi nhét toàn bộ sợi dây vào lõi thanh kim loại, ngón tay tôi cũng gần chạm phải ngọn lửa xanh. Tôi tự nhủ phải giữ nguyên vị trí, nhưng cảm giác vừa rát vừa buốt kia khiến tôi suýt chút nữa rút tay ra; bỗng đầu kia của sợi dây da lừa dừng lại, hình như nó đã chạm tới đầu bên kia.
Tôi như mở cờ trong bụng, quên cả sự rát buốt trên các ngón tay, tiếp tục đẩy sợi dây da lừa vào sâu thăm dò. Do tập trung cao độ nên tôi cảm nhận được ngay lập tức kết cấu phức tạp bên trong lõi thanh kim loại qua lực tác động dù là nhỏ nhất lên sợi dây, truyền đến đầu ngón tay.
Dần dà tôi cũng đã nhận ra đâu là mắt xích quan trọng. Thì ra, bốn lưỡi móc được nối thẳng vào phía trong cùng của thanh kim loại, rồi lần lượt móc xuống bốn góc phiến đá, trên rãnh trượt đó lại là vô vàn những đầu móc khác rất nhỏ. Như vậy thanh kim loại mới có thể bám theo đường khe để chuyển động qua lại cho dù đường khe giữa những phiến đá rất nhỏ; ngoài ra thanh kim loại còn có tác dụng là đầu mối quan trọng để điều khiển phiến đá. Thế nhưng chiều dài của sợi dây da lừa có hạn, nên mới chỉ chạm tới phần ngoài cùng của hệ thống, vì thế chưa thể chắc chắn rằng phần kết cầu nằm sâu bên trong đó liệu có phức tạp hơn thế hay không?
Khi đã hiểu được cơ chế hoạt động của cỗ máy, tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn rất nhiều, tinh thần cũng lạc quan hơn. Tới giờ tôi mới chợt nhận ra bàn tay mình đang đau rát, phồng rộp lên do bỏng, thêm vào đó là cảm giác lạnh buốt khó có thể chịu nổi.
Tôi lập tức rút sợi dây da lừa ra đặt xuống mặt sàn, sợi dây từ từ co lại. Tôi vừa xoa tay cho ấm vừa kể lại những phát hiện mới cho Lão Ngũ và chị Giai Tuệ nghe.
Nghe tôi kể xong, Lão Ngũ lập tức vỗ đùi đánh đét rồi thốt lên một tiếng gọn lỏn “Tuyệt!”, lão nhấc bổng chị Giai Tuệ xoay vòng vòng trong lòng phiến đá chỉ rộng một mét vuông, sau khi nhìn ngang ngó dọc một hồi, lão hí hửng nói:
- Một thanh kim loại mà lại có chức năng điều khiển bốn phiến đá xung quanh à? Vậy có nghĩa mở được một thanh thì coi như đã phá được trận địa trong bốn phiến đá sao? Lan Lan, xử lí mấy cái thanh đó có dễ không?
Tôi vốn có cùng ý nghĩ với Lão Ngũ, nên lập tức gật đầu, giọng chắc nịch:
- Có vẻ cũng không khó lắm. Chỉ có điều sợi dây da lừa vừa lúc nãy hơi ngắn, để cháu đổi sang sợi dây dài hơn xem. Nếu được thì mình mở thanh đó trước.
Quyết định xong, tôi mới lấy ra một sợi dây da lừa màu đen giống với sợi dây cũ nhưng dài hơn, rồi ngắm thật chuẩn, từ từ đút sợi dây vào sâu bên trong lỗ khóa, chuẩn bị mở thanh kim loại đầu tiên.
Phần mũi thanh kim loại có bốn lưỡi móc, vì sợi dây da lừa khá dài nên tôi có thể dễ dàng cảm nhận rõ kết cấu nằm sâu bên trong. Dưới tác động lực của ngón tay giữa, tôi nhẹ nhàng gẩy hết những lưỡi móc trên đường rãnh trượt, rồi rung nhẹ để chúng trượt ra ngoài.
Bỗng tôi nghe thấy một âm thanh giòn giã vọng tới từ giữa phiến đá, thanh kim loại kia rung nhẹ, rồi lập tức dừng lại. Vậy là tôi đã thành công.
Thắng lợi ngay từ ban dầu khiến tôi thấy hào hứng hẳn lên, tiếp tục áp dụng phương thức đó mở nốt ba thanh còn lại. Chỉ đến khi những thanh kim loại kia bị tách rời, lơ lửng trượt giữa hai phiến đá, chúng tôi mới thở phào nhẹ nhõm.
Lão Ngũ đứng ngay phía sau tôi quan sát, tỏ vẻ rất hài lòng, rồi giục tôi nhanh chóng mở nốt những thanh kim loại còn lại. Chị Giai Tuệ cũng rất hào hứng vì sắp được thoát khỏi cảnh tù túng trong phiến đá chật chội này.
Tôi gật đầu tán thành, nhưng khi vừa nhổm người đứng dậy thì đột nhiên có một âm thanh rất lớn dội từ phía trên đầu xuống, giống như tiếng sấm đánh bên tai.
Tôi chưa kịp định thần lại, thì những thanh kim loại vừa bị tôi vô hiệu hóa bỗng dưng xoay chuyển mỗi lúc một nhanh hơn, tia lửa xanh bỗng bùng lên dữ dội, bắn ra vô số những tàn lửa giống như những vì sao nhỏ bay tứ phía, một vài tàn lửa trong số đó lao thẳng về phía mặt tôi.
Tôi hốt hoảng buột miệng chửi thề rồi nhanh chóng né người ra sau, nên tàn lửa chỉ kịp sượt nhẹ qua má. Tôi đưa tay xoa mặt rồi thở phào nhẹ nhõm: May quá, không việc gì.
Trong lúc tôi đang mải xoa bên má bị lửa sượt qua, thì lại nghe thấy có tiếng lách cách vang tới. Cảm giác bất an dội vào lòng, tôi vội nhìn lại thật kĩ bốn thanh kim loại vừa mở, chúng đã ngừng xoay tròn, giờ chỉ còn hơi rung nhẹ. Nhưng tôi nhận thấy rõ ràng bốn lưỡi móc kia lại móc xuống bốn góc phiến đá.
Tôi thở dài chán nản, vậy là bao công sức đã đổ xuống sông xuống biển.
Thấy vẻ mặt tôi u ám khác thường, Lão Ngũ và chị Giai Tuệ có lẽ cũng đoán ra việc phá cỗ máy kia đã thất bại, nên hỏi tôi rốt cuộc đã xảy ra chuyện gì.
Tôi lắc đầu cười gượng:
- Cháu cũng không rõ lắm, lúc mở thì vẫn bình thường, nhưng chẳng hiểu sao rốt cuộc vẫn không được.
Tôi ngồi sụp xuống, nhìn chằm chằm vào thanh kim loại và cố hồi tưởng lại cảm giác trên các đầu ngón tay lúc đẩy sợi dây da lừa tới đầu bên kia của lõi khóa. Rõ ràng không có gì sai sót, tại sao chúng lại quay lại vị trí ban đầu?
Chợt có tiếng Lão Ngũ vọng lại từ sau lưng tôi:
- Lan Lan, mi không nghĩ rằng đây chính là một hệ đối số sao?
Lời gợi ý thật đúng lúc. Tôi bỗng nhớ lại có lần ông nội đã nói với tôi, các loại khóa cổ quái ngày xưa rất hay áp dụng phương pháp sắp xếp theo hệ đối số, và theo quy luật đó thì mắt xích quan trọng thường nằm ở vị trí trung tâm, còn các vị trí trên dưới trái phải sẽ tạo thành một hệ đối số. Liệu Thiên Cung Cách sát trận có phải được bố trí như vậy không? Nghĩ vậy tôi lập tức nhờ Lão Ngũ quan sát thật kỹ Trung cung gồm bao nhiêu phiến đá.
Sau một hồi tập trung đong đếm cẩn thận, Lão Ngũ khẳng định Trung cung là một hình lập phương, với tổng số các thanh kim loại theo chiều dọc và chiều ngang là vừa đúng một trăm linh chín phiến đá.
Nghe thấy vậy tôi lập tức hiểu ra vấn đề, với tổng cộng một trăm linh chín phiến đá tạo thành các ô vuông giao nhau như trên bàn cờ thì ô thứ năm mươi lăm chính là trung điểm của Trung cung, và chắc chắn một điều rằng bốn góc của phiến đá thứ năm mươi lăm đó cũng nối liền với bốn thanh kim loại, tôi nhất định phải mạo hiểm tới đó để mở bốn thanh này. Thế nhưng hiện giờ chúng tôi mới chỉ đứng ở phiến đá thứ bảy theo chiều dọc và thứ chín theo chiều ngang, vẫn còn cách phiến đá thứ năm mươi lăm một khoảng rất xa, để đi được tới đó quả là một vấn đề không hề đơn giản.

Chương 22:
Tôi cắn chặt răng, quyết tâm ra tay xử lí những thanh kim loại phía trước, mở đường tiến tới vị trí trung tâm trên phiến đá thứ năm mươi lăm. Phải mất rất nhiều thời gian và công sức, cuối cùng tôi mới tới được vị trí đó. Bình tĩnh quan sát thêm một lần nữa trước khi ra tay, tôi phát hiện ra cỗ máy này được thiết kế theo một kết cấu rất chặt chẽs: Bốn đường biên của phiến đá đều vuông góc với nhau ứng với bốn phương Nam, Bắc, Đông, Tây. Bốn thanh kim loại lại cắm vuông góc tại bốn góc của phiến đá, ứng với tám hướng Đông Nam, Đông Bắc, Tây Nam, Tây Bắc. Để phá được thế trận trên bắt buộc phải cùng một lúc dùng tới bốn sợi dây da lừa, thế nhưng tôi lại chỉ có hai tay, biết mở thế nào đây?
Suy đi tính lại, cũng chỉ còn cách tiếp tục dùng đến lỗ sẹo trên khớp xương nối trong lòng bàn tay tôi, rồi chọc bốn sợi dây da lừa vào đó, lợi dụng lực của cả khớp xương để cùng lúc mở bốn thanh kim loại. Nhưng kế hoạch đó lại khiến tôi do dự, vì thực chất tôi đâu có khả năng đấy; hơn nữa, một lỗ khoan nhỏ như vậy làm sao có thể nhét được bốn sợi dây da lừa chứ, chẳng nhẽ lại phải khoan thêm ba lỗ nữa vào lòng bàn tay nữa sao?
Đắn đo một hồi lâu, tôi mới hạ quyết tâm tiếp tục thực hiện kế hoạch trên. Cùng lắm là chết ở đây là cùng chứ gì. Nghĩ là làm, tôi lấy ra một cây kim móc định nhờ Lão Ngũ chọc thêm ba lỗ nữa vào xương bàn tay. Nhưng tôi chợt cảm thấy lỗ sẹo trên lòng bàn tay phải bỗng dưng đau ngứa kì lạ, cảm giác như bên trong đó có thứ gì đó đang chuyển động. Bỗng một ý nghĩ táo bạo lướt qua đầu tôi, vậy là tôi đã có cách phá hủy Thiên Cung Cách sát trận này mà không cần phải tạo gây thêm thương tích cho bản thân.
Cát bay, cảm giác vừa rồi chính là hạt cát bay đang chuyển động bên trong lỗ sẹo. Vì cất giữ nó ở đó suốt mấy tiếng đồng hồ, lại thêm việc phải vắt óc suy nghĩ cách thoát thân nên tôi gần như đã quên bẵng sự hiện diện của nó, không ngờ lúc khó khăn nó lại gợi cho tôi một ý rất hay. Trước mắt, tôi đã nắm được những kĩ năng mở khóa ở cấp Địa Kiện, chỉ có điều sức vẫn còn hơi yếu, nếu có thể lợi dụng được tính năng tự chuyển động đặc biệt của cát bay, thì sau khi cắm bốn sợi dây da lừa vào lỗ sẹo kia rồi lợi dụng lực co bóp của những thớ thịt quanh đó kết hợp với lực chỉ đạo từ khớp xương nối, không khéo tôi có thể mở được liền một lúc bốn thanh kim loại kia cũng nên.
Tôi nhanh chóng sắp xếp từng bước hành động và đoan chắc phương pháp này rất khả quan. Lão Ngũ và chị Giai Tuệ đứng ở phía xa quan sát, tuy không hiểu rõ ý đồ của tôi, nhưng hai người họ cũng đoán ra tôi đã tìm được cách mở khóa, nên vẫy tay ra hiệu cho tôi nhanh chóng giải quyết, Lão Ngũ hét lớn:

- Lan Lan, nhanh chóng xử lí bốn thanh đó đi, cần gì thì bọn ta ở đây sẽ hỗ trợ.
Tôi cảm thấy vững tin hơn hẳn, nhẹ nhàng lấy trong bọc kim ra bốn sợi dây da lừa dài nhất, lần lượt luồn vào bốn lỗ khóa ở mũi bốn thanh kim loại, đầu còn lại thì kẹp chặt giữa các ngón tay. Tôi nhẹ nhàng bóc miếng urgo đang bịt miệng lỗ sẹo ra, rồi nhanh chóng nhét bốn đầu dây vào bên trong. Qua hệ thống dây thần kinh nhạy cảm, tôi lập tức cảm nhận rất rõ sự hoạt động mạnh mẽ của hạt cát bay tác động lên đầu bốn sợi dây da lừa khiến chúng cũng khẽ chuyển mình theo. Tôi mừng rỡ khôn xiết vì biết rằng cách này chắc chắn có hiệu quả, đúng là ông trời đã phù hộ, ba hạt cát bay vô tình lưu lại trên người chị Giai Tuệ giờ đây lại có thể cứu mạng ba người chúng tôi.
Tôi vội ngồi khoanh chân giữa phiến đá, rồi từ từ nâng bàn tay phải lên trước ngực, để bốn sợi dây da lừa chĩa về bốn hướng. Sau khi đã ổn định vị trí, tôi mới từ từ cụp năm ngón tay lại, cố tình ép chặt những thớ thịt trong lòng bàn tay với mục đích đẩy sợi dây chọc sâu vào tận đáy lỗ sẹo.
Bốn sợi dây da lừa giống như bốn con hắc xà nhỏ xíu, đang không ngừng uốn éo luồn sâu vào bên trong lỗ khóa. Đầu dây bên trong lỗ sẹo cũng không ngừng cọ xát lên thành lỗ, khiến khớp xương của tôi ngứa ngáy vô cùng, nhưng tôi vẫn phải nén chịu, cố gắng đưa bàn tay trái sang nắm chặt lấy cổ tay phải, hợp sức điều khiển các sợi dây tiến tới vị trí nơi các lưỡi móc nhỏ trên rãnh trượt trong thanh kim loại đang móc chặt vào phiến đá. Bỗng có tiếng “bục” khe khẽ vang lên, bốn sợi dây da lừa tự động duỗi ra thẳng tắp, tần số hoạt động trở nên đồng nhất, bắt đầu những bước mở khóa vô cùng phức tạp.
Hạt cát bay bên trong lỗ sẹo như cũng hiểu ý của tôi, nó chuyển động mỗi lúc một nhanh hơn, khiến những sợi dây da lừa cũng theo đó mà di chuyển mạnh hơn, cảm giác như muốn bật tung ra ngoài. Tôi lập tức dùng những đầu ngón tay ép chặt lên thớ thịt trong lòng bàn tay xung quanh miệng lỗ sẹo để không cho những sợi dây đó tuột ra. Những lưỡi móc dần dần cũng bị gỡ ra khỏi phiến đá, sợi dây mỗi lúc lại di chuyển sâu vào trong lõi thanh kim loại, khiến lực tác động càng mạnh hơn.
Lực căng ở hai đầu dây da lừa đang không ngừng tăng lên khiến cho sợi dây cứa mạnh vào các thớ thịt trong lòng bàn tay tôi, những giọt máu đỏ tươi cứ thế túa ra chảy thành dòng xuống mặt sàn đá. Cảm giác đau đớn do bị mất nhiều máu khiến tôi nhiều lần như muốn ngất đi, rất muốn buông tay ra; thế nhưng tôi không thể làm thế, để tìm ra ông nội, để có thể thoát ra khỏi đây, tôi bắt buộc phải chịu đựng. Tôi cắn chặt răng, cố nén nỗi đau đang hành hạ thể xác để tập trung toàn lực vào việc mở bằng được cỗ máy này.
Cuối cùng, bốn sợi dây da lừa xoắn chặt lại với nhau, lực xoắn mạnh đến nỗi khiến cả người tôi cũng muốn lăn theo. Để hãm lại, tôi liền nằm xuống sàn, hai chân bắt chéo trên không trung, hai đầu gối kẹp chặt lấy khuỷu tay phải, rồi vòng cánh tay trái ôm chặt lấy hai chân, cả người co tròn lại. Mặc dù đã dùng hết sức mình, nhưng lực kéo của những thanh kim loại kia vẫn quá lớn, chúng kéo tôi lăn tròn trên sàn đá chừng hơn chục vòng, sống lưng tôi bị đập mạnh xuống mặt sàn đau nhức vô cùng, cả người trầy trụa cũng không ít.
Lực xoay mỗi lúc một tăng nhanh hơn, cho tới khi tôi không đếm xuể mình đã bị quay như vậy bao nhiêu vòng. Tôi lập tức nhắm chặt mắt lại, đầu óc quay cuồng choáng váng, lục phủ ngũ tạn cũng bị đảo lộn, sống lưng từ đau nhức chuyển sang tê dại.
Đang lúc định thả tay bỏ cuộc thì tôi bỗng cảm thấy lực trong lòng bàn tay giảm dần. Bốn sợi dây da lừa cũng nhanh chóng co rút lại, rời khỏi thanh kim loại rồi trở lại trạng thái mềm dẻo ban đầu trước khi rơi xuống người tôi. Toàn thân tôi vẫn theo quán tính lăn thêm vài vòng nữa rồi mới dừng lại hẳn.
Tôi thở dốc, lẩy bẩy chống tay lên sàn gượng ngồi dậy, lắc nhẹ đầu để định thần lại, chân tay vẫn chưa hết tê mỏi thì bên tai lại nghe thấy một hồi âm thanh lớn từ dưới đất vang lên, phiến đá ngay dưới chân tôi rung bần bật. Tôi nhanh chóng ngẩng đầu lên quan sát bốn góc xung quanh thì thấy bốn thanh kim loại đang từ từ rời khỏi phiến đá, bốn lưỡi móc nhỏ xíu cũng đang dần co lại.

Thành công rồi, chắc chắn lần này tôi đã thành công rồi. Tôi vui sướng hét toáng lên, quên bẵng sự đau đớn đang giày vò thân thể yếu ớt, hai tay chống lên mặt sàn, quỳ gối cố nghểnh ra nhìn về phía đằng xa.
Đột nhiên, tôi thấy trước mắt tối sầm lại, thì ra tia lửa xanh trên bốn thanh kim loại kia đã tắt từ lâu. Ngay sau đó, bốn phía xung quanh cũng tối dần đi bởi các thanh kim loại còn lại cũng bị tắt ngóm theo trình tự từ chỗ tôi ngồi kéo dài ra phía đằng xa.
Sau đó, từng thanh kim loại được kéo lên trên, khiến cả không gian căn hầm đột nhiên vang những tiếng lạo xạo giống như tiếng cát rơi trên nền đá.
Tôi như mở cờ trong bụng, cuối cùng công sức của mình bỏ ra cũng được đền đáp, không những mở được Thiên Cung Cách sát trận mà còn khám phá ra đặc tính của những hạt cát bay.
Không gian bốn phía đen kịt, những tiếng lạo xạo vẫn không ngừng vang lên, xem ra những thanh kim loại vẫn đang được kéo lên tít trên kia.
Trong lúc lâng lâng vui sướng, tôi chợt rùng mình bất an, run rẩy nhìn về phía Lão Ngũ và chị Giai Tuệ đang đứng lúc nãy nhưng vẫn chỉ là màn đêm tối đen như mực. Hai người đã mất tích từ bao giờ.
Thất hận môn và cái xác khô
Trong lúc mở khóa, từ đầu tới cuối tôi chỉ đứng trong phạm vi phiến đá thứ năm mươi lăm, thỉnh thoảng quay đầu lại vẫn nhìn thấy Lão Ngũ và chị Giai Tuệ đứng từ phía đằng xa, tay cầm chiếc gương Dạ Minh lắc qua lắc lại, chiếu ra chùm tia sáng màu xanh lấp lánh. Hơn nữa, bốn phía xung quanh đều là một màu đen kịt, không có đến một tia sáng khác dù là nhỏ nhất, hai người họ không thể vì cố tình trêu tôi mà gập chiếc gương Dạ Minh lại được.
Vẫn không thấy, thực sự không thấy bóng dáng của hai người họ đâu! Tôi càng nghĩ càng thấy sợ hãi, liên tục quay sang tứ phía với hi vọng tìm thấy họ, tôi hét lên trong tuyệt vọng:
- Lão Ngũ ơi… chị Giai Tuệ ơi… Lão Ngũ… chị Giai Tuệ…
Nhưng trước mắt tôi chỉ là không gian im lặng như tờ và tiếng thét xé tan màn đêm của tôi, thỉnh thoảng có tiếng chuyển động khe khẽ vọng lại từ đằng xa.
Tôi cứ hét cho tới khi lạc cả giọng, nhưng bốn phía xung quanh đều không có bất cứ một tiếng phản hồi nào, chắc chắn hai người họ đã bị mất tích. Vậy có nghĩa là sau khi mở được phần Trung cung của Thiên Cung Cách sát trận, tôi đã khiến cho các phần khác của cỗ máy tự động biến mất, không biết nó lợi hại tới mức nào mà lại có thể khiến cho họ biến mất trong nháy mắt.
Thế nhưng cũng thật khó hiểu, cho dù có xảy ra chuyện gì thì họ cũng phải kêu lên một tiếng để báo hiệu mới phải, tại sao tôi lại không nghe thấy gì? Lẽ nào do quá tập trung tinh thần vào mở khóa nên tôi đã không nghe thấy tiếng họ gọi?
Nghĩ đi nghĩ lại, tôi vẫn không thể hiểu nổi vì sao họ lại biến mất như thế, cảm giác sợ hãi một lần nữa lại khỏa lấp tâm hồn non nớt. Một đứa con gái mới lớn như tôi thì biết làm gì trong căn hầm rộng lớn thế này đây?
Cùng lúc đó, các thanh kim loại cũng đã dừng chuyển động, những khe rãnh cũng dần khép kín. Để định hướng, tôi phải bò sát người xuống sàn, lần theo đường khe nối trong bóng tối mịt mùng để tìm tới nơi hai người mất tích.
Tôi đếm nhẩm trong đầu số lượng những phiến đá mình đã bò qua và phải luôn đảm bảo rằng mình đang đi đúng hướng. Khi lần được tới nơi, tôi đưa tay mò khắp nhưng vẫn không thấy gì cả. Trong nỗi kinh hoàng, tôi đã quờ quạng mọi chỗ có thể, thì bỗng nhiên chạm phải một vật gì đó mềm mềm. Tôi vội vàng giật lấy, dùng cả hai tay mân mê để xem đó là gì, hình như nó là đôi găng tay chuyên dụng của cảnh sát mà chị Giai Tuệ đã từng dùng.
Tôi đoán rằng trong lúc bất ngờ gặp sự cố, chị Giai Tuệ đã nhanh trí ném lại đôi găng tay này với mục đích đánh dấu vị trí để tôi phát hiện nơi hai người mất tích.
Căn hầm này không thấy đỉnh, chắc chắn hai người không thể bay lên đó, và cũng không thể nào có chuyện hắc ưng quắp họ đi mà tôi không mảy may nhận thấy. Vậy thì chỉ có thể là do mặt sàn đá, chắc hẳn phiến đá đã lật lại khiến hai người họ rơi xuống dưới.
Nghĩ vậy, tôi bèn lấy tay sờ từng phiến đá xung quanh, nhưng cũng chẳng phát hiện ra dấu hiệu gì bất thường. Suy nghĩ một lúc, tôi mới quyết định lấy chiếc kim móc ra cào lên phiến đá để xem liệu có tìm thấy manh mối nào không.
Tiếng ken két vang lên khi tôi cào lên nền đá giống như tiếng lũ chuột cống đang nghiến răng kèn kẹt, thêm vào đó là tiếng chuyển động của cỗ máy từ đằng xa vọng tới; những tạp âm này khiến tôi cảm thấy rất khó chịu, bất an. Lão Ngũ, chị Giai Tuệ, hai người đang ở đâu? Tôi cố nén dòng nước mắt đang chực chảy ra, tay cào lên mặt sàn mỗi lúc một nhanh.
Cuối cùng, tôi cũng phát hiện ra điều đáng ngờ trên một phiến đá. m thanh ở đó khá lạ lẫm, nhiệt độ bề mặt cũng mát hơn so với những phiến đá khác. Xem ra đây chính là thủ phạm, nếu như tôi đoán không sai, thì hai người họ đã bị rơi xuống phía dưới phiến đá này.
Tôi liền áp sát tai xuống mặt sàn để lắng nghe những âm thanh phía dưới, đó là những tiếng vang lớn, tạm thời tôi không thể biết rốt cuộc đó là sự chuyển động của vật gì, Tôi chuyển sang những phiến đá bên cạnh, mặc dù vẫn là tiếng vang đó, nhưng yếu hơn, rất có thể những âm thanh đó là của cùng một vật.
Khi đã xác định đúng vị trí, tôi hạ quyết tâm tìm cho ra điểm mấu chốt, có như thế mới biết tình hình hiện tại của Lão Ngũ và chị Giai Tuệ, xem họ còn sống hay… Nghĩ tới đó, bên tai tôi như văng vẳng đâu đây câu “Hay đấy!” quen thuộc của Lão Ngũ; và cả đôi mắt trong sáng, luôn lo lắng cho tôi của chị Giai Tuệ.
Tôi thấy sống mũi cay cay, nước mắt lại chực trào ra, nhưng nghĩ đến lời Lão Ngũ luôn chê tôi là đứa con nít chỉ biết khóc nhè; tôi đành cắn răng cố nén những giọt nước mắt vào trong, và cũng tự hứa với lòng mình rằng: Lão Ngũ. Chị Giai Tuệ, hai người cứ yên tâm, cháu nhất định sẽ tìm ra hai người.
Do đã có kinh nghiệm trong lúc khống chế những thanh kim loại lửa, nên tôi đã hiểu được phần nào cấu tạo và cơ chế hoạt động của những phiến đá này. Tôi lập tức lôi từ trong balô ra một miếng kim loại dẹt và mỏng, cố gắng dùng hết sức ấn mạnh nó vào đường khe nhỏ. Thế nhưng dù cố đến mức các đầu ngón tay trở nên tê cứng, thì phiến đá vẫn không dịch chuyển và không hề có một dấu hiệu nào cho thấy nó sẽ chuyển động. Tôi vẫn không nhụt chí, tiếp tục đổi sang các dụng cụ khác, nhưng vẫn không khả quan gì hơn.
Loay hoay một hồi lâu, tôi bắt đầu cuống lên, cả người đầm đìa mồ hôi, liền ngồi phịch xuống phiến đá bên cạnh thở dốc. Trong lúc đang nghĩ ngợi lung tung, tôi bỗng cảm thấy phiến đá dưới mông rung nhẹ, chưa kịp phản ứng thì bỗng nhiên thấy phía dưới trống không, cả người tôi chao đảo rớt xuống.
- Ôi mẹ ơi!
Tôi hét lên thật lớn, trong lòng lập tức hiểu ra mình đã bị phiến đá hất xuống dưới. Bản năng mách bảo tôi ôm chặt lấy hai gối, người co tròn lại, để tránh cho đầu và tay chân bị thương.
Cả người tôi lao xuống không phanh, bên tai chỉ còn tiếng ù ù của gió, lòng thầm sợ hãi và lo lắng, nếu như rơi xuống mặt sàn đá thì thân này chắc chắn sẽ nát như tương. Tôi cố gắng ngó xuống dưới, hình như có luồng ánh sáng rọi ngược lên nhưng chưa kịp nhận ra cái gì thì tôi đã cảm thấy phía dưới lưng mình mềm mềm, giống như chạm phải vật gì đó giống như bông xốp vậy. Bốn bề tối như bưng, lập tức một cảm giác bí bức vây lấy tôi khiến hơi thở cũng trở nên nặng nề, khó chịu hơn.
Cảm giác như mình mỗi lúc một lún sâu hơn, rồi ngay sau đó, phía dưới lưng lập tức truyền tới một lực đẩy rất lớn, khiến cả người tôi lại bật thẳng lên không trung. Nó rất giống với trò chơi bật bông hồi nhỏ ông nội hay cho tôi chơi.
Cảm thấy không nguy hiểm lắm nên trong lòng tôi đỡ lo đi phần nào. Cả cơ thể bật cao khoảng chừng hơn chục mét, lực đẩy yếu dần đi, rồi lại bắt đầu quá trình rơi tự do. Trên không trung tôi quay đầu nhìn xuống, những gì nhìn thấy khiến tôi kinh hãi suýt tè cả ra quần.
Phía dưới vẫn là một khoảng trống bất thường như trong lòng động, trên tường treo dày đặc những ngọn đèn dầu, mặc dù lửa không lớn lắm, nhưng do chúng có cụm lại với nhau nên chẳng trách ở dưới đó sáng như thế. Dưới mặt sàn là đống bầy nhầy màu đen rất lớn, kết dính với nhau, thỉnh thoảng lại điểm xuyết bằng những đốm lớn màu trắng, trông như những con mắt trắng dã.
Thoáng một cái, cả người tôi rơi xuống đống bầy nhầy đó, rồi lại bật lên, lần này không cao lắm, cứ lặp đi lặp lại như vậy thêm ba bốn lần thì dừng hẳn. Tôi nằm bất động trên đống bầy nhầy đen đúa đó, dưới mông hơi man mát, không biết có phải do tôi sợ quá mà tè ra không. Trong lòng bỗng dưng cảm thấy hỗn loạn vô cùng, rốt cuộc đây là đâu, những cây đèn dầu kia do ai thắp lên?
Tôi đưa mắt thăm dò xung quanh thì chợt phát hiện ra, trên bốn bức tường động mọc ra vô số thạch nhũ khổng lồ, ở đó đặt rất nhiều những cây đèn dầu với hình dạng cổ xưa, và gió… Tôi cũng không biết những luồng gió này từ đâu thổi đến, tuy bị gió tạt song những cây đèn dầu không hề bị thổi tắt. Không nén được tò mò tôi chậm rãi bò dậy.
Bỗng nhiên, bên tai tôi văng vẳng có tiếng ai đó gọi:
- Lan Lan, Lan Lan!
Tiếng gọi ban đầu rất xa xăm, cảm giác như từ một nơi cách xa ngàn dặm vọng tới, nhưng càng lúc tiếng vang đó lại càng rõ hơn.
Chị Giai Tuệ?!
Đó chính là giọng của chị Giai Tuệ, hình như còn lẫn cả giọng của Lão Ngũ nữa. Tôi sung sướng đến phát khóc, lập tức rướn cổ về phía tiếng gọi kia đáp lời. Cách nơi tôi đứng chừng hơn năm mươi mét, có hai bóng người mờ mờ đang ngồi trên một tảng thạch nhũ, đó chính là Lão Ngũ và chị Giai Tuệ! Chị Giai Tuệ vội cầm một cây đèn dầu lên, không ngừng vẫy tay ra hiệu, kèm theo đó là tiếng gọi vội vã của Lão Ngũ.
- Lan Lan, nhảy xuống phía dưới, đi men theo đường khe lại đây.
Khe nào mới được chứ? Tôi chưa kịp phản ứng thì toàn thân lại rung lên một lần nữa, phần “đệm” dưới chân bất ngờ biến mất, cả người tôi bỗng tụt mạnh xuống một cái hố, nửa người dưới rơi tùm xuống nước.
Tôi hốt hoảng giơ tay ra bám lấy miệng hố thì thấy mềm mềm như miếng thịt sống, móng tay tôi cắm chặt vào nó, hệt như đang tóm phải một cái bánh bao rất lớn. tay vẫn bám chặt, tôi ngoảnh đầu nhìn xuống. Thì ra những đốm trắng mà lúc nãy tôi nhìn thấy từ trên cao xuống chính là những cái hố sâu, phần miệng hố trơn nhẵn còn đáy thì sáng lấp lánh, phản chiếu những tia sáng lung linh trong trẻo, bên trong hồ chứa đầy dung dịch như lòng trắng trứng gà.
Cha mẹ ơi, đây là cái gì thế này? Tôi lập tức nhớ đến lời dặn của Lão Ngũ, liền cúi xuống nhìn lại thật kĩ, thì ra bên thành hố, giữa những tảng mềm mềm kia là một khe hở rất hẹp. Không lưỡng lự, tôi cúi người xuống, dùng tay vạch khe hở để chui qua. Lăn lộn trong cái đống bùng nhùng đó một lúc thì tôi rơi tiếp xuống dưới, lớp nhầy nhụa, bê bết vừa rồi dính đầy lên mặt lên đầu. Rất nhanh sau đó, tôi đứng thẳng dậy, cảm thấy dễ thở hơn và trong lòng yên tâm được phần nào. Trong lúc chui qua khe hở kia, bốn phía xung quanh đen kịt, một mùi tanh nồng bốc lên khiến tôi thấy lợm giọng buồn nôn.
Mặc dù trong lòng tôi rất lo sợ, nhưng may nhờ có tiếng gọi và sự hướng dẫn của Lão Ngũ và chị Giai Tuệ, tôi mới biết đường mà chui qua khe hở thoát thân. Vừa mới chui đầu qua, Lão Ngũ đã hối hả lấy tay phủi lớp bầy nhầy đang dính đầy trên đầu tóc và quần áo tôi, rồi cốc mạnh vào trán tôi, sung sướng nói:
- Con nhóc này, vậy là mi cũng xuống dưới này rồi.
Chị Giai Tuệ vội lao tới ôm chầm lấy tôi.
- May quá, may quá, chị cứ tưởng là đã lạc mất em. – Nói xong, chị lôi ra một chiếc khăn tay lau sạch mặt mũi, đầu tóc cho tôi.
Gặp lại hai người, tôi mừng rơi nước mắt, nắm chặt lấy tay họ, đang định nói gì đó thì chợt thấy trên người Lão Ngũ giờ chỉ còn lại một chiếc quần, để lộ ra hai cẳng chân gầy gò, đen đúa.
Tôi ngại ngùng hỏi lão sao lại cởi quần dài ra? Lão Ngũ liền chửi thề một câu, rồi kể lúc thấy cái thanh kim loại tự động kéo lên, hai người họ đã nghĩ mở khóa thành công nên định chạy thẳng tới chỗ tôi đừng, ai ngờ phiến đá dưới chân lại là phiến đá lật, nên họ bị rơi thẳng xuống dưới này. May mà phía dưới này mọc toàn nấm đá, nếu không thì đã tan xương nát thịt rồi.
Lão Ngũ nói với tôi, lớp nhầy nhụa ban nãy chính là nấm đá, chúng là một loại nấm khuẩn dưới mặt đất cực kì quý hiếm, để chúng mọc dài được như thế thì chắc cũng phải mất hàng trăm năm tuổi. Còn những đốm trắng phía trên bề mặt là những lỗ thoát khí, nó mở ra khép vào theo một chu kì nhất định. Cái số ta cũng thật chó chết, rơi đúng vào lúc nó đang khép lỗ thoát khí, vậy là nửa người dưới bị kẹp chặt, làm tuột mất cả chiếc quần dài.
Nói đến đây, lão vỗ mạnh vào đùi, khuôn mặt đầy vẻ ấm ức:
- Lần này đúng là lỗ to rồi, không những bị mất quần đùi, mà đến cả gương Dạ Minh, chuỗi hạt Ô Kim và mấy thứ bảo bối lúc trước tìm thấy giờ cũng mất hết rồi, mẹ kiếp! Nếu biết trước là rơi xuống lũ nấm đá này thì ta đã không giấu chúng ở trên người, bỏ mẹ trong balô có phải tốt hơn không.
Nghe thấy vậy, tôi cũng tiếc đứt ruột thay lão, nhìn vẻ mặt đau khổ của Lão Ngũ, tôi liền an ủi:
- Lão Ngũ, cháu vẫn còn một số bảo bối không dùng đến đây, cháu cho lão hết đấy.
Lão Ngũ đồng ý ngay tắp lự, nhưng đang định đưa tay ra nhận lấy thì mặt lão bỗng dưng đỏ ửng lên, ngượng ngùng nói:
- Cái này… cái này… ta làm sao lại đi giành đồ với một đứa trẻ chứ?
Tôi cười khì khì, nói rằng mình vốn dĩ không thích chúng, quay đầu sang thì thấy chị Giai Tuệ đang cầm trên tay chiếc đèn dầu rất cổ, liền vội hỏi chuyện gì xảy ra.
Lão Ngũ hào hứng vỗ lên thành tường:
- Theo như ta quan sát thì đây chính là một cái động tự nhiên, thế nhưng trên mỗi tảng thạch nhũ lại đặt những chiếc đèn dầu. Cả địa cung chỗ nào cũng tối đen như mực, duy chỉ nơi này mới có ánh sáng lung linh, có lẽ đích đến đã ngay gần chúng ta, và cái bọn đầu trọc tết tóc đuôi sam kia chắc chắn đang giấu loại bảo bối gì đó ở đây.
Nói rồi, lão di di bàn chân xuống mặt sàn. Ánh mắt tôi chợt dừng tại một cái lỗ nhỏ bằng đầu ngón tay trên tảng thạch nhũ, rõ ràng đó là do con người tạo ra, từ phía trong lỗ đang phun ra một thứ dung dịch màu xanh nhạt, chảy men theo tảng thạch nhũ nhỏ từng giọt xuống dưới. Cơn tò mò trỗi dậy, tôi liền ngồi xuống lấy tay quệt một chút dung dịch đó lên xem, cảm giác sền sệt dinh dính như nhớt.
Lão Ngũ nói ngay đây chính là loại dầu Hà Tử mà ngày trước những người Nữ Chân đã dùng làm chất đốt. Nó được luyện từ hỗn hợp mỡ và mật gấu đen vùng Đông Bắc, với đặc điểm rất đượm lửa, chỉ cần một giọt Hà Tử là có thể cháy sáng được cả ngày. Vừa xong lão và chị Giai Tuệ đã gỡ một chiếc đèn dầu xuống, dùng vải làm bấc, mặc dù chiếc gương Dạ Minh đã mất, nhưng dù sao cũng vẫn còn thứ này để ra khỏi đây.

Ch­ương 23:
Loại dầu Hà Tử công năng đặc tính thế nào tôi còn hiểu, nhưng còn người Nữ Chân Nữ Tay kia thì chẳng nghe thấy bao giờ. Chị Giai Tuệ liền giải thích cho tôi tộc Nữ Chân là tổ tiên của dân tộc Mãn, ngày trước họ cư trú ở vùng Cát Lâm và Hắc Long Giang, cuộc sống chủ yếu dựa vào săn bắn, hái lượm trong rừng sâu. Sau khi hoàng đế Nỗ Nhĩ Cáp Xích thống nhất từng vùng lãnh thổ, lật đổ nhà Minh đã xây dựng đế chế Hậu Kim, khởi nguồn cho triều Đại Thanh sau này.
Tôi gật gù ra vẻ hiểu biết:
- Em hiểu rồi, vậy tộc người Nữ Chân chính là thủy tổ của chị đúng không?
Chị Giai Tuệ mỉm cười, quay đầu nhìn sang bốn phía, giọng trầm hẳn xuống:
- Đúng thế, có lẽ đây chính là điểm cuối cùng trong hệ thống địa cung mà hoàng đế Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã xây dựng.

Nghe chị nói vậy, tôi reo lên mừng rỡ:
- Vậy thì bảo bối chắc chắn chôn ở đây rồi.
Lão Ngũ cũng cười khoái chí như trẻ con, chỉ tay lên đỉnh đầu, tự đắc nói thêm:
- Nhóc con, nhìn thấy gì chưa, trên đó có một cửa ra đấy. Ta và con nhỏ Giai Tuệ lúc nãy cũng đã tính rồi, chắc chắn đó là nơi cất giấu bảo bối, giờ mi cũng đến rồi, chúng ta cứ trèo lên đó xem sao, thành công hay thất bại còn tùy thuộc vào vận số nữa đấy.
Tôi ngẩng đầu nhìn theo hướng tay lão đang chỉ. Cách chỗ chúng tôi đứng chừng bốn mươi mét hơi chếch về phía bên trái là một bề mặt khá bằng phẳng và nhẵn nhụi, hình như đó là một cánh cửa. Nó ở chính giữa bốn tảng thạch nhũ, lại được những chiếc đèn dầu rọi sáng nên có thể nhìn thấy rất rõ.
Nhìn thấy cửa ải cuối cùng đang ở trước mắt, chúng tôi đều hào hứng vô cùng, hăng hái trèo lên những tảng thạch nhũ. Nhưng mọi việc lại không hề đơn giản như chúng tôi tưởng. Bề mặt của những tảng thạch nhũ này trơn như mỡ, cứ trèo lên được một đoạn thì lại bị trượt xuống, loay hoay cả buổi, chúng tôi mới lên được tới nơi, thật sự không hề dễ dàng gì.
Ở đó có một mỏm đá nhỏ rộng chừng hai ba mét nhô ra phía trước, ba chúng tôi cùng đứng chen chân ở đó. Tôi mệt đứt hơi, người đầm đìa mồ hôi, vừa vịn tường thở dốc vừa tiếp tục quan sát xung quanh.
Đó là một cánh cửa bằng sắt chi chít những vết hoen gỉ màu đỏ gạch, to chừng mặt bàn với với bốn cạnh vuông vức, gắn chìm vào trong vách đá. Tôi lập tức lấy chiếc kim móc trong balô ra, gõ liên tục phần mũi kia vào mặt cánh cửa, đồng thời áp sát tai chú ý lắng nghe từng tiếng động phát ra. m thanh phát ra khá nặng, điều đó chứng tỏ lớp gỉ sét bám trên cánh cửa này rất dày, tôi cạo nhẹ mũi kim lên lớp hoen gỉ, chúng rơi xuống lả tả như tàn tro.
Cạo một hồi lâu, cánh cửa trở nên sạch sẽ hơn, để lộ ra toàn bộ diện mạo của nó. Đó không phải là cánh cửa kim loại được đúc liền khối như tôi nghĩ ban đầu mà do bảy thanh kim loại màu đen ghép lại với nhau theo một kết cấu rất kì quặc, gồm năm thanh to nhỏ khác nhau ghép thành hình tam giác vuông, còn lại là một thanh hình vuông và một thanh hình bình hành được thiết kế ăn khớp với nhau. Đặc biệt là, trên mỗi thanh kim loại đều khắc một chữ “Hận” màu xanh đậm, chữ viết tay, rất rõ nét, không lồi lõm thô sơ, sờ tay lên đó thì có cảm giác phẳng lì không tì vết.
Cặp chân mày xinh đẹp của chị Giai Tuệ cau lại, chị thắc mắc:

- Nếu như đây là cửa ải cuối cùng dưới địa cung, thì những nét chữ này nhất định là mang một điều bí ẩn nào đó.
Nghe vậy, bỗng dưng tôi nhớ ra, cánh cửa trước mặt có thể chính là Thắt Xảo Thiên Tập môn mà ông nội đã từng có lần kể, nó được tạo thành dựa vào kết cấu Thất Xảo Bản. Thất Xảo Bản được bắt nguồn từ Yến chi đồ đời Tống và Điệp chí đồ thời Minh, cho tới tận đầu nhà Thanh, nó mới được hoàn thiện với bảy mảnh ghép biến hóa muôn hình vạn trạng, có thể sử dụng ở mọi loại trận địa. Sau đó có một bậc thầy chế tạo khóa đã dựa trên kết cấu của nó để chế tạo ra loại Thất Xảo Thiên Tập môn. Cửa chính là khóa, khóa chính là cửa, chính vì thế nên nó còn được gọi là khóa Thiên hợp, chủ yếu lấy thiên số “Thất” làm chủ đạo. Thất – số bảy là một con số có ý nghĩa rất đặc biệt, nó thường được dùng làm con số cơ bản cho các loại cửa cổ quái. Nếu tách nó ra làm “nhị - ngũ” là tượng trưng cho lưỡng nghi, ngũ hành; “tam – tứ” tượng trưng cho tam tài, tứ tượng; “nhất – lục” tượng trưng cho thái cực, lục hòa; nhưng khi cả bảy mảnh được ghép thành một khối thì lại mang ý nghĩa là thái cực sinh lưỡng nghi, lưỡng nghi sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái. Thế nhưng với chữ “Hận” thì hình như ông chưa từng nói đến.
Ngay sau khi nghe tôi giải thích, Lão Ngũ vỗ đùi đánh đét, giọng vô cùng hào hứng:
- Mẹ kiếp! Dùng khóa Thiên Tập để trấn áp thì chắc chắn bên trong có giấu báu vật rồi. Lan Lan, mi nhanh chóng động thủ đi.
Chị Giai Tuệ đưa tay chạm khẽ lên cánh cửa, nhìn chằm chằm vào bảy chữ “Hận” trên các mảnh ghép, rồi nói rằng những chữ này rất cổ quái, không thể nhận ra chúng được viết bằng cách nào, liệu đó có phải là một lời nguyền không?
Lão Ngũ đấm mạnh lên cánh cửa, tuyên bố:
- Nguyền rủa cái mẹ gì, chỉ có bọn chó đầu trọc sợ bị ăn trộm mất bảo bối, nên cố tình viết chữ lên đây để nhát mấy kẻ yếu bóng vía thôi. Lan Lan, mi giải quyết nó đi. Nếu có chuyện gì xảy ra ta sẽ chịu trách nhiệm, Lão Ngũ này mặt dày lắm, chẳng sợ bị thằng nào hận hết.
Thấy tôi gật đầu đồng ý, nên chị Giai Tuệ cũng không nói gì thêm, chỉ lôi từ trong balô ra một chiếc máy ảnh cỡ nhỏ, chụp tách tách vài kiểu, nói rằng để sau này làm tư liệu.
Do mỏm đá khá chật, nên tôi bảo Lão Ngũ và chị Giai Tuệ tụt xuống, để tôi nới rộng chỗ mở cánh cửa.
Tôi cố gắng đứng thật vững, điều chỉnh tư thế sao cho thoải mái nhất để quan sát kĩ càng hơn. Bảy mảnh ghép gồm có tất cả hai mươi ba đường biên, trừ sáu đường ẩn trong vách đá ra, thì trên cánh cửa vẫn còn mười bảy đường biên bên ngoài. Tôi lôi chiếc kính lúp chuyên dụng ra soi thì phát hiện trên đường biên xuất hiện dày đặc những móc khóa rất nhỏ ăn khớp với nhau. Tôi nghĩ ngợi hồi lâu rồi lôi ra một chiếc kim móc loại cực mảnh, chọc vào phía trong đường biên thăm dò, hóa ra mỗi đường lại được thiết kế một kiểu khác nhau: Có đường là vô số những bánh răng nhỏ khít chặt nhau, có đường là những trụ tròn, có đường lại được nối bằng những sợi dây nhỏ chập lại với nhau; nhưng tất thảy đều có một điểm chung là vô cùng cố quái, bắt buộc người mở khóa phải kết hợp sử dụng nhiều loại công cụ và kỹ thuật phức tạp thì mới có thể mở được.
Cảm giác đang đi đúng hướng, khiến tôi thấy không áp lực lắm, với kĩ năng mở khóa cấp Địa Kiện thì cánh cửa này không phải là quá khó, tuy nhiên chắc chắn là phải hi sinh vài sợi dây da lừa rồi.
Tôi từ từ chọc sâu mũi kim móc vào trong một đường biên, vừa lắc nhẹ chiếc kim, tôi đã nghe thấy một tiếng va chạm rất lớn, liền sau đó, chúng dội lên liên hồi, giống như tiếng kim loại va đập vào nhau nhưng được phóng to lên bội phần. m thanh đó mỗi lúc một lùi xa hơn, vọng khắp vách động. Tôi vô thức ngẩng đầu nhìn lên phía trên thì ngỡ ngàng phát hiện ra một điều, mỗi khi âm thanh lan đến đâu thì ngọn lửa đèn dầu lại chập chờn như bị gió tạt đến đó, nhưng sau đó lập tức trở lại trạng thái bình thường. Chỉ trong nháy mắt, những luồng âm thanh đó quay trở lại, tập hợp trước khóa Thiên Tập nghe răng rắc như những bánh răng đang kéo lê một đoạn xích.
Tôi lắc lắc đầu để dồn mọi sự tập trung vào đôi mắt, nhưng trong lòng thấy rất kì lạ, không biết rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra. Chỉ vài giây sau, từ vách đá đối diện với cánh cửa trồi ra bảy ống thép trắng, to gần bằng miệng cốc. Sau khi trồi ra chừng mười centimet, chúng bắt đầu xoay tít như nòng súng đang lên đạn, qua ánh sáng của ngọn đèn dầu, những ống thép phản chiếu ra một thứ ánh sáng vô cùng chói mắt.
Chứng kiến cảnh tượng trên, tôi thầm rủa mình vì đã bất cẩn chạm vào một chi tiết nguy hiểm nào đó. Bỗng nhiên, tôi nghe thấy có tiếng hét từ phía dưới, rồi một đoạn dây được quăng lên, cuối cùng tôi thấy mình nằm gọn trong lòng Lão Ngũ.
Chưa kịp định thần lại, thì tôi đã nhìn thấy từ miệng ống thép bắn mạnh ra những tia sáng trắng, lao thẳng vào cánh cửa kim loại, phát ra âm thanh đinh tai nhức óc như tiếng súng nổ.
Kèm với tiếng nổ là vô số những tia sáng dài chừng vài centimet liên tục bắn ra. Có vài tia rơi xuống người tôi, nhìn lại kĩ hơn thì hóa ra đó là những mũi tên rất nhỏ bằng kim loại màu trắng bạc, chỉ có điều chúng được bắn với tốc độ quá nhanh, khoảng cách lại quá ngắn nên có cảm giác như chúng chỉ là những tia sáng mảnh mai. Đầu mũi tên rất nhọn, phía đuôi gắn ba sợi lông vũ màu trắng rất nhẹ. Tôi ngẩng đầu nhìn lên cánh cửa, vẫn không hề để lại một dấu vết nào, thế cũng đủ biết cánh cửa đó cứng đến cỡ nào.
Những mũi tên màu trắng bạc vẫn tiếp tục bắn rào rào chừng nửa phút sau mới dừng hẳn. Tôi sợ đến mức dạ dày như cuộn lại, may mà Lão Ngũ nhanh tay kéo xuống, nếu không thì tôi sớm tiêu đời rồi.
Lão Ngũ cũng nhặt hai mũi tên lên ngắm nghía một lúc, lão nói với giọng vô cùng oán hận:
- Mẹ kiếp, là Thất Tinh Liên Châu Tiễn. Thật tàn ác! Hay đấy, hay đáy!
Lão quay sang giải thích với chúng tôi, bảy ống thép trắng kia được sắp xếp theo vị trí của chòm sao Bắc Đẩu, bên trong được thiết kế một lực đẩy rất mạnh, gọi là Thất Tinh Liên Châu Tiễn. Sức công phá của chúng còn mạnh gấp trăm gấp vạn lần so với năm lưỡi dao mà chúng tôi đã gặp ở cửa ải đầu tiên, chúng được đặt ở đây là nhằm để cản trở những người muốn vượt qua cánh cửa Thiên Tập kia.
Tôi nghĩ một lúc rồi đưa ra giải pháp:
- Lão Ngũ, hay là chúng ta trèo sang vách đối diện để phá bảy nòng Liên Châu Tiễn trước đã.
Lão Ngũ lập tức lắc đầu, giải thích:
- Đây được gọi là cỗ máy Tung hoành tiêu khí với đường dây dẫn chạy dài khắp vách động, mỗi một ống là một nòng bắn, chúng được nối liền tạo thành một chuỗi liên hợp với nhau. Chỉ cần phá bỏ một ống thì sẽ vô tình khởi động tất cả những ống còn lại, đến lúc đó mũi tên sẽ được bắn ra từ bốn phương tám hướng, đến một con ruồi cũng không thoát nổi đâu.
Tôi sợ rúm người nấp sau Lão Ngũ, lo lắng nhìn ngó khắp nơi vì lo những mũi tên đó lại xuất hiện lần nữa. Đến một người luôn điềm tĩnh như chị Giai Tuệ cũng cuống quýt hỏi:
- Lão Ngũ, phải làm sao bây giờ?
Lão Ngũ cúi đầu lẩm nhẩm một lúc, rồi vừa xoắn chòm râu thưa vừa khẳng khái nói:
- Nghìn vạn thiên binh còn không sợ nữa là ba tấc sắt này. Hiện giờ chỉ còn cửa ải cuối cùng này thôi, ta sẽ đứng phía sau Lan Lan để làm bia đỡ đạn vậy. Nếu như nó mở nhanh, thì tài nghệ của Lão Ngũ ta còn đường phát huy. Còn nếu như cả hai người cùng ngoẻo thì… ha ha… coi như chết có bạn có bè vậy
Chúng tôi bàn bạc kế hoạch một lúc lâu, mặc dù cả hai đều biết rõ làm vậy rất mạo hiểm nhưng thật sự không còn cách nào khác. Thế rồi tôi và Lão Ngũ cùng leo lên một phiến đá nhỏ, lưng áp lưng. Lão Ngũ cầm hai đầu mũi tên trong tay, hai chân choãi sang hai bên tìm thế đứng thật vững chãi, lão dứt khoát ra lệnh:
- Nhóc con, tiến hành đi!
Tôi không dám lưỡng lự thêm phút nào, lập tức bắt tay vào mở khóa. Kim móc vừa mới chọc vào đường biên thì Thất Tinh Liên Châu Tiễn đã bắt đầu khai hỏa, tôi nghe có tiếng leng keng không ngừng phát ra phía sau lưng, nhưng không hề thấy một mũi tên nào bắn trúng cánh cửa. Mặc dù không được tận mắt chứng kiến, nhưng tôi cảm nhận rất rõ toàn thân Lão Ngũ đang rung lên dữ dội, chắc hẳn lão đang cố gắng đánh bật cơn mưa mũi tên đang lao tới.
Tôi vô cùng lo lắng và sốt ruột nên đã quay đầu lại. Lão Ngũ đang không ngừng chống cự với hai mũi tên trong tay, hai chân cũng liên tục đá những mũi tên ở tầm thấp. Tốc độ chuyển động của tay và chân lão nhanh đến kinh người, khiến tôi có cảm giác như trên người lão mọc ra hàng nghìn tay chân, và cũng không thể đếm xuể có bao nhiêu mũi tên đang rào rào lao tới.
Tôi đang nhìn trân trân vào cảnh tượng kì diệu trên, thì bỗng nghe thấy chị Giai Tuệ vọng từ phía dưới:
- Lan Lan, tập trung vào mở khóa đi.
Tôi như choàng tỉnh khỏi cơn mộng mị, lập tức quay lại, dùng chiếc kim đang cắm một đầu vào lỗ sẹo trong lòng bàn tay cào nhẹ lên đường biên. Do kết cấu của từng đường biên không đồng nhất, nên tôi phải sử dụng các kĩ thuật khác nhau để gỡ từng bánh răng, cột trụ hay chùm dây xoắn bên dưới đường biên. Sau khi mở xong mười bảy đường biên bên ngoài, tôi ước lượng chiều dài của sáu đường biên nằm ẩn bên trong rồi dùng chiếc hộp tích lực chia sợi dây da lừa ra thành sáu đoạn, mỗi đoạn dài khoảng ba phân, sau đó dùng kim móc luồn từng đầu dây vào bên trong đường biên, xuyên qua chiếc ghim móc có nhiệm vụ níu chặt hai mảnh ghép lại với nhau, rồi lôi chúng ra ngoài. Cuối cùng mọi nỗ lực của tôi đã được đền đáp với mười hai đầu dây ngắn ngủi thò ra bên ngoài.
Thấy mọi thứ đã ổn, tôi nhanh tay buộc chúng lại với nhau, cứ hai đầu dây tạo thành một nút thắt, rồi dùng một sợi dây da lừa màu đen luồn qua sáu nút thắt kia, kéo nhẹ ra ngoài, đồng thời dùng một chiếc kim móc miết thật chặt. Chỉ vài giây sau, cả cánh cửa rung nhẹ, sáu chiếc ghim móc bên trong lách cách vài tiếng rồi rời nhau ra, bảy mảnh kim loại lần lượt thụt sâu vào vách đá.
Cùng lúc đó tôi nghe giọng Lão Ngũ hổn hển chửi thề phía sau lưng:
- Mẹ kiếp, cũng may mà con nhóc này giải quyết nhanh, nếu không ta cũng sắp ị ra quần tới nơi rồi. – Dứt lời, lão ngồi phịch xuống đất, dựa lưng vào chân tôi, thở không ra hơi vì kiệt sức.
Tôi vội vàng ngoái lại, bảy ống thép trên vách đá đối diện đang dần thụt vào trong, thoáng một cái đã biến mất dạng. Tôi cúi đầu nhìn xuống đáy, thật không thể đếm xuể những mũi tên màu bạc trắng đang nằm la liệt trên bề mặt nấm đá.
Lão Ngũ vẫn ngồi thõng ở dưới chân tôi, vừa lắc lắc cánh tay cho thư giãn gân cốt vừa hổn hển nói:
- Hay đấy, hay đấy! May mà lão già vẫn còn được việc, nếu không thì thành con nhím chết rồi.
Chị Giai Tuệ vội leo lên, ân cần bóp tay bóp chân Lão Ngũ.
Thấy Lão Ngũ không sao tôi cũng yên tâm phần nào, quay đầu nhìn lại cánh cửa Thiên Tập. Trong bảy mảnh kim loại, có một mảnh hình tam giác rất nhỏ nằm ở giữa, khi sáu thanh kia thụt vào trong thì nó lại lùi về phía bên trái. Tôi thử cầm trên tay, nặng trình trịch, thật không thể nhận ra nó được làm bằng chất liệu gì. Tôi vội nhấc nó ra cất vào balô làm kỉ niệm, coi như mình đã không uổng công đến đây.
Cánh cửa bỗng phát ra tiếng lộc cộc rồi từ phía trong phả ra một thứ mùi hôi thối rất khó ngửi khiến tôi nôn nao cả người. Một tay bịt mũi, một tay giơ chiếc đèn dầu lên để soi xét, tôi nheo mắt nhìn vào trong. Vừa ngó vào bên trong, tôi đã hốt hoảng lùi về phía sau, may mà không bị trượt chân rơi xuống. Thật không thể ngờ, bên trong đó lại có người.
Mặc dù ánh sáng của chiếc đèn dầu hơi lờ mờ, nhưng khoảng không gian bên trong cánh cửa cũng không lớn lắm, nên về cơ bản vẫn có thể nhìn thấy khá rõ. Dưới ánh sáng của ngọn đèn leo lắt, tôi thấy một người ngồi cách đó gần hai mét, đầu hơi nghiêng, đôi mắt mở to nhìn chằm chằm về phía tôi.
Đó là một khuôn mặt hết sức dữ tợn, mặt mũi nhăn nhúm, thế nhưng lại có vẻ như đang lo sợ điều gì đó. Tôi cũng không nhìn rõ lắm, nên “dữ tợn” thực ra chỉ là cảm nhận thoáng qua ban đầu. Chỉ trong khoảng vài mét mà bỗng nhiên xuất hiện một gương mặt với bộ dạng khó hiểu như vậy, thực tình cũng dễ khiến người ta sợ điếng người. Do quá bất ngờ, nên tôi hơi mất tự chủ, hoảng hốt bước lùi ra sau, nếu không nhanh tay bám vào tảng thạch nhũ bên cạnh thì chắc tôi cũng bỏ mạng ở đây. Tôi ngồi sụp xuống, chân tay run lẩy bẩy vì sợ hãi, mắt nhắm tịt nhưng những hình ảnh về khuôn mặt kia vẫn đeo bám tâm trí, khiến tôi mặt mày tái mét, không thốt nên lời.
Lão Ngũ thấy tôi co rúm người lại như con mèo ướt, thì vừa đẩy mông tôi vừa gắt gỏng:
- Nhóc con, sao thế? Nhanh chân trèo vào trong đi!
Tôi mếu máo cầu cứu lão:
- Lão… Lão… Ngũ ơi… bên… bên… trong… có… có… người!
- Mẹ kiếp!
Lão Ngũ chửi thề một câu rồi nhanh chóng bật dậy, chị Giai Tuệ cũng lập tức đừng lên theo, đỡ lấy ngọn đèn dầu đang trên tay tôi. Tôi ngồi phịch xuống dưới chân hai người, đầu gối nhũn ra như bún nhưng vẫn muốn tụt xuống càng nhanh càng tốt.
Một lúc sau, chị Giai Tuệ cúi xuống gọi tôi với giọng rất đỗi bình thường.
- Lan Lan à, đứng lên đi. Chỉ là một xác chết thôi mà.
Xác chết?! Nghe thấy vậy, nồng độ sợ hãi tụt đi quá nửa, tôi lồm cồm bò dậy, chui đầu qua khoảng trống giữa hai người, nhìn vào trong.
Cái xác ngồi duỗi thẳng hai chân, hai tay buông thõng xuống đất, đầu hơi nghiêng sang bên trái, mặc dù mắt mở to, nhưng chỉ còn lại hai cái hốc sâu hoắm, không còn con ngươi. Lớp da mặt thâm đen, nhăn nhúm như bị nhúng nước quá lâu nên sun cả lại, mồm miệng nhăn nheo rúm ró trông y hệt như con chuột già thành tinh. Trên người xác chết khoác một bộ lễ phục cổ xưa, mục nát đến mức không thể nhận ra màu gì nữa.
Tôi chăm chú nhìn một hồi lâu, nhưng vẫn cảm thấy không yên tâm lắm liền quay sang hỏi chị Giai Tuệ, nói nhỏ:
- Chị Giai Tuệ, có thật là xác người chết không?
Chị Giai Tuệ đang chăm chú quan sát từng chi tiết trên người xác chết, nghe thấy tôi hỏi liền khẽ gật đầu:
- Ừ, có lẽ đây là một cái xác khô, để chị xem thêm đã, em đứng yên đừng động đậy nhé. – Nói rồi chị dùng hai tay mò mẫm dò đường rồi bước vào căn hầm nhỏ phía sau cánh cửa Thiên Tập. Lão Ngũ cũng lặng lẽ đi sau chị.
Nhìn hai người họ cùng bước vào trong, tôi bạo gan nối gót Lão Ngũ tiến vào. Vào đến bên trong, mặt đối mặt, mới quan sát được kĩ hơn. Người này chắc là nam giới, nửa đầu cạo trắng hếu, chỉ có một túm tóc bé xíu tết gọn sau gáy. Bộ lễ phục trên người đã mục nát gần hết; trên vạt áo có thêu hình con rồng nhỏ đang giơ móng vuốt, hình như là màu vàng, phía trên cổ áo lấp lánh, có lẽ là được đính ngọc thì phải.
Lão Ngũ thốt lên câu gì đó trong miệng mà chỉ mình lão nghe thấy, rồi với tay gỡ miếng ngọc trên cổ áo xuống, đưa lên trước mặt ngắm một lúc rồi cười ha hả:
- Mẹ kiếp, là Hòa Điền Ngọc Tinh. Kiếm được nó thì coi như chuyến đi này đã đủ vốn.
Tôi nhăn mày vì nghĩ rằng lấy trộm đồ của người chết không hay ho chút nào.
Qua hình dáng và phục trang trên người xác chết, tôi đoàn có lẽ anh ta là người Mãn Thanh, thế nhưng kiểu tóc lại không giống lắm, nên cũng chưa rõ người này là ai và đã chết được bao nhiêu năm rồi. Rợn nhất là đôi mắt trợn trừng giống như bị chết oan, dưới ánh đèn lập lòe, chúng thực dễ khiến cho người ta nổi da gà.
Chúng tôi đi vòng ra phía sau cái xác khô thì phát hiện thấy sau lưng nó xếp đầy những chiếc hộp hình vuông, chiều dài mỗi cạnh khoảng ba phân, chúng đều có màu đỏ sậm. Thì ra do đằng sau có điểm tựa nên cái xác đó mới có thể ngồi thẳng như vậy.
Lão Ngũ lặng im nãy giờ, đột nhiên thốt lên một tiếng:
- Tuyệt! – Lão đưa chân đá đá cái xác khô, rồi quay sang nói với chúng tôi. – Mặc kệ nó là ai, bảo bối chắc chắn nằm ở đây.
Tôi thở dài, cúi đầu nhìn xuống đống hộp vuông màu đỏ, thì ra chúng là những chiếc khuôn được đúc bằng thép, bề mặt chi chít những vết hoen gỉ đỏ sậm, bốn cạnh là những đường cắt vuông vức, giống như được một con dao vô cùng sắc bén chia cắt thật ngọt. Nơi tiếp giáp giữa khuôn thép và mặt sàn không hề có đường biên, hình như chúng được đúc liền thành một khối.
Lão Ngũ ngồi xổm xuống, mò mẫm khắp nơi, đôi mắt hau háu nhìn ngó mọi ngóc ngách như thể phải lôi bằng được bảo bối ra ngoài. Trông lão lúc này giống hệt những đứa trẻ đang háo hức khám phá một thứ đồ chơi mới, tôi và chị Giai Tuệ cười thầm rồi đi quanh căn hầm một vòng.
Căn hầm không rộng lắm, chỉ khoảng mười mét vuông với bốn bức tường vuông vức. Tôi đưa tay sờ lên tường, lạnh và cứng, đích thị đây là một khối thép. Có một điều hết sức kì quặc là, trên bức tường có rất nhiều những đường vân nhỏ và dài, chúng nguệch ngoạc chồng chéo lên nhau, giống như bị vật gì đó cào mạnh. Ở góc tường phía trong cùng, chị Giai Tuệ nhặt lên một con dao vừa dài vừa mỏng, sắc bén vô cùng và dường như không có một vết hoen gỉ.
Chị Giai Tuệ búng búng tay lên lưỡi dao, thân dao hơi rung, vang lên chuỗi âm thanh xa vắng. Chị đưa lưỡi dao lên ướm thử những đưỡng vân trên tường, rồi chậm rãi nói:
- Hoàn toàn khớp với nhau, những vết đó chính là do lưỡi dao này tạo ra; chứng tỏ ở đây đã từng xảy ra trận xô xát, vậy cái xác khô kia…
Chị vừa nói đến đây, thì bỗng có tiếng Lão Ngũ gọi giật lại từ đằng sau:
- Lan Lan, lại đây, lại đây. Mẹ kiếp, cái hộp này thật đúng là cổ quái.
Chúng tôi lập tức chạy tới, ngồi xuống quan sát chiếc hộp Lão Ngũ vừa vỗ lên nắp vừa hổn hển nói:
- Mẹ kiếp, mở kiểu gì cũng không hề nhúc nhích. Bên trên lại đầy những vết chém, cứ như ma làm vậy.
Chị Giai Tuệ đưa ngọn đèn đến gần, qua quầng sáng mờ ảo, tôi nhìn thấy nắp chiếc hộp rất sạch sẽ, những vết hoen gỉ đã được Lão Ngũ cạo sạch, để lộ ra một màu sơn đen kịt, bên trên nắp là những đường gân vừa nông vừa mỏng phân bố đồng đều, giống như có người đã dùng một vật sắc nhọn để tạo ra những vết xước hình vòng cung có kích thước giống nhau. Ngón tay chậm rãi lần theo những vết xước, trực giác đã mách bảo tôi rằng, người xưa đã cố tình tạo ra chúng, chứ không phải sau này mới có. Tôi dùng mũi kim móc cào lên nắp hộp thám thính, âm thanh phát ra chứng tỏ bên trong hộp là rỗng.
Lão Ngũ miết ngón tay lên đường biên nối giữa chiếc hộp và mặt sàn, rồi nói với tôi:
- Chúng liền một khối đấy, nhóc con. Mi thử nhìn xem đây là loại khóa gì, nếu được thì nhanh chóng mở nó ra đi, ta sốt ruột quá rồi.
Tôi gật gật đầu, dùng mũi kim móc rà theo đường biên, một thứ âm thanh lạo xạo khác thường vang lên, giống như có hàng trăm con rết đang hành quân ngang qua, khiến tôi hoang mang cực độ.
Càng nghe tôi càng liên tưởng đển một điều gì đó rất quen thuộc, thế nhưng không tài nào hình dung ra được. Tôi lập tức quỳ gối, áp sát mặt nhìn thật kĩ những đường gân kì quái kia. Nhìn ngó một hồi lâu, quả nhiên tôi đã phát hiện ra điều bí mật bên trong đó.

Chương 24:
Tôi nhẩm tính một lúc mới quay đầu nói với hai người:
- Ngày trước cháu đã từng nghe ông nội nhắc đến loại khóa này một lần, nó được gọi là Hoa Hạp, một vật chuyên dùng trong hoàng cung thời Minh Thanh để cất giữ những vật cơ mật. Hai người có nhìn thấy những đường vân này không, đó chính là những bông hoa được khắc chìm trên thân hộp và cũng là một loại khóa biến hình siêu tuyệt. Mỗi một bông hoa lại có tám cánh, và thủ thuật để mở nó gọi là Liệt Biện. Loại khóa này rất khó xử lí, bình thường là một hoa, cùng lắm thì cũng chỉ ba hoa, nhưng vừa xong cháu đếm có tới năm hoa, loại này vô cùng hiếm, xem ra đúng là bên trong cất giữ vật báu rồi.
Nghe tôi nói vậy, Lão Ngũ vuốt vuốt chòm râu, nét mặt trở nên nghiêm trọng, lão sốt ruột hỏi:
- Vậy thì nhanh chóng mở nó ra đi, còn chần chừ gì nữa, có khó không?
Tôi loay hoay sờ nắn chiếc hộp một lúc rồi nói:

- Cũng có thể, dù sao cháu cũng đã đạt tới cấp Địa kiện nên chắc là có khả năng mở được nó.
Lão Ngũ hoan hỉ như bắt được vàng, liền vội vàng nói:
- Vậy thì để ta giúp một tay.
Lối thoát khỏi địa cung
Chiếc hộp Hoa Hạp nhô từ dưới mặt đất lên, để lộ ra năm mặt phẳng, mỗi mặt đều được khắc một bông hoa. Tôi quyết định bắt tay vào mở mặt trên cùng trước.
Tôi chọn ra một chiếc kim móc mảnh và nhẹ nhất, vì mở loại khóa này phải rất cẩn thận, tỉ mỉ. Những cánh hoa được khắc rất phức tạp với rất nhiều đường viền, mũi kim dò theo đường viên nhất định không được ngừng lại, nếu không sẽ khiến lực tác động lên các cánh hoa không đồng nhất, rất dễ ảnh hưởng đến đoạn lò xo ở phía trong, đến lúc đó cả chiếc hộp Hoa Hạp sẽ tự động khóa vĩnh viễn.
Tôi ngó nghiêng quan sát rất lâu để nhận diện thật chính xác từng đường viền trên cánh hoa; hít một hơi dài để lấy bình tĩnh, tôi từ từ đặt mũi kim lên đầu cánh hoa.
Rồi bằng tất cả sự cẩn thận của mình, tôi đưa mũi kim men theo đường viền trên cánh hoa đến hết, rồi mới chuyển sang cánh tiếp theo. Cứ thế mũi kim chạy trơn tru một lượt qua tám cánh hoa, coi như mắt xích trọng yếu trong cỗ máy đã được vô hiệu hóa, cuối cùng tôi mới chọc đầu mũi kim vào điểm chính giữa của bông hoa để giữ cố định.
Phần chính giữa của mỗi bông hoa là tám sợi nhụy cuộn tròn với nhau tạo thành một khối rất khăng khít, phần chân nhụy lại được nối với một sợi dây thép màu trắng, cắm sâu vào bên trong lòng hộp và được cố định vị trí bằng một sợi dây đồng. Tôi lại đặt đầu kim vào lỗ sẹo trong lòng bàn tay rồi xoay một vòng. Chiếc kim móc lúc thì hơi uốn cong lúc thì lại duỗi thằng để ăn khớp với những đoạn dây bên trong, âm thanh truyền qua đầu mũi kim một lúc sau, những tiếng “tạch… tạch” liên hồi vang lên, từng sợi từng sợi nhụy hoa bị bật tung, những sợi thép trắng cũng theo đó tuột khỏi chân nhụy. Chiếc hộp rỗng khẽ rung rung, rồi tám cánh hoa từ từ nhô lên khỏi bề mặt chiếc hộp khoảng chừng một đốt ngón tay. Một bông hoa đã nở.
Vẫn áp dụng theo phương pháp này, tôi tiếp tục mở nốt bốn bông hoa còn lại.

Vậy là cả năm bông hoa đã nở.
Thấy mình thành công nhanh chóng, lòng tôi lâng lâng hạnh phúc. Còn nhớ ông nội đã từng nói, với khả năng hiện tại của tôi, may ra cũng chỉ mở được từ hai đến ba bông hoa, vậy mà tới giờ đã có năm bông hoa được mở một cách nhẹ nhàng, chứng tỏ tôi đã có sự tiến bộ vượt bậc. Nếu ông được tận mắt chứng kiến, không biết ông sẽ thích thú và tự hào đến nhường nào? Bỗng dưng tôi lại thấy nhớ ông nội da diết, khóe mắt cay cay, khiến mọi cảm giác hưng phấn trước đó lập tức biến mất.
Tôi từ từ thả người ngồi bệt xuống sàn, mặt đờ đẫn nhìn những cánh hoa đang nhô cao, những kỉ niệm về đêm giao thừa tết Nguyên đán năm 2005 bỗng dưng ùa về, giọng nói của ông nội như vẫn vang vọng bên tai: “Con bé ngốc này, ta không thể nuôi con cả đời được, giờ con không biết làm gì cả thì sau này khi không có ta, con sẽ sống như thế nào đây?”
Đúng thế, ông không thể ở bên tôi cả đời được, sẽ có ngày ông già và mất đi. Thế nhưng hiện giờ Lan Lan đã có đủ bản lĩnh để tự nuôi sống bản thân rồi, Lan Lan chỉ mong ông nội trở về để được tận hiếu với ông. Tôi quay sang nhìn cái xác khô vẫn đang ngồi im lìm một góc, trong lòng tràn ngập nỗi xót xa, ông nội nếu gặp nguy hiểm hoặc chết ở dưới này thì liệu có bị biến thành như thế không… Càng nghĩ ngợi tôi càng cảm thấy buồn vô hạn, hai dòng nước mắt cứ thế tuôn trào đầm đìa.
Thấy tôi bỗng dưng rơi nước mắt, chị Giai Tuệ vội vã hỏi thăm, còn Lão Ngũ thì nhìn tôi với vẻ khó hiểu:
- Đấy, lại nước mắt vòng quanh rồi. Cả năm bông hoa đã được mở ra, giờ còn khóc lóc cái nỗi gì?
Tôi như choàng tỉnh giấc, ngượng ngùng dùng mu bàn tay quệt nước mắt, rồi nhẹ nhàng nói:
- Không sao, cháu chỉ bị cay mắt thôi. À, giờ chắc là có thể mở được rồi, để cháu thử xem sao!
Một tay chống xuống đất, tôi lê người tới trước chiếc hộp, hai tay nhấc từng bông hoa ra khỏi bề mặt chiếc hộp, để lộ ra một khoảng trống hình cánh hoa, bên trong lòng hộp cất giữ một vật gì đó. Tôi gí ngọn đèn dầu ngay sát miệng cánh hoa, mắt mở to nhìn thẳng vào bên trong, thì ra là một quả cầu kim loại do vài chục vòng thép màu trắng lồng ghép lại với nhau. Về kết cấu, nó có phần hơi giống sân vận động Tổ Chim ở thế vận hội Olympic 2008 tại Bắc Kinh, thế nhưng lại có chút khác biệt trong sự phân bổ rất quy củ. Về bản chất thì đó là một quả cầu được lồng bằng những vòng tròn hoàn hảo, xung quanh là những sợi dây thép hình vòng cung, lần lượt cắm chặt xuống đáy hộp. Giữa hai vòng thép là một đường khe rất nhỏ, lúc ẩn lúc hiện. Nhìn kĩ hơn vào đường khe, tôi nhận ra trong lòng quả cầu kim loại có một vật hơi dẹt màu trắng đục, có lẽ nó mới chính là bảo bối mà chúng tôi đang tìm kiếm.
Lão Ngũ vội đưa tay tóm lấy quả cầu kim loại, ra sức lắc lắc, nhưng vật bên trong vẫn không hề chuyển động.
- Mẹ kiếp! Lại còn giở trò này nữa cơ đấy! Xem ra đây mới chính là ổ khóa cuối cùng.
Tôi nghiêng đầu ngắm nghía hồi lâu, rồi nói với hai người:
- Lão Ngũ, chị Giai Tuệ, hai người còn nhớ chiếc khóa tơ ba mươi sáu vòng với các vòng móc lại với nhau không? Chiếc khóa này cũng có kết cấu gần như thế, đều là một dạng khóa đa vòng.
Lão Ngũ ồ lên vỡ lẽ, vừa vân vê vài sợi râu lưa thưa dưới cằm vừa nói:
- Cái khóa đấy ta đã phải mất rất nhiều công sức mới mở được, bọn này thật là thâm độc, xem ra số lượng của những chiếc vòng kim loại này cũng không hề ít đâu.
Tôi gật đầu đồng ý với Lão Ngũ, rồi nói thêm rằng loại trước là theo kết cấu bề mặt với dây và tơ, còn loại này lại theo kết cấu hình lập thể, vốn dĩ được coi là dạng khó nhất.
- Trong những bí kíp mở khóa được truyền lại, với dạng khóa hình cầu này, một vòng là Thiên địa, hai vòng là Thí nhật, ba vòng là Hạo Nguyệt, bốn vòng là Phồn tinh, năm vòng là Thủy hỏa, sáu vòng là Phong lôi, bảy vòng là Sơn xuyên, tám vòng là Địa lý…
Trong khi tôi đang say sưa giảng giải về những kiến thức liên quan đến loại khóa vòng lập thể đầy hào hứng, thì Lão Ngũ lại sốt ruột phẩy mạnh tay rồi giục loạn lên:
- Nhóc con, đừng có lèm bèm nữa, mau bắt tay vào việc đi.
Chị Giai Tuệ tủm tỉm cười, nói đỡ cho tôi:
- Cũng hay mà, lão cứ để Lan Lan nói tiếp đi.
Lão trợn trừng mắt nhìn hai chị em tôi:
- Nói cái gì mà nói, giờ không phải lúc, nói đến vòng một trăm tám mươi thì Lão Ngũ ta chắc đã biến thành vòng thứ một trăm tám mươi mốt từ đời tám hoánh rồi.
Tôi bĩu môi cự lại:
- Lão Ngũ à, loại khóa này chỉ có tối đa bốn mươi tám vòng thôi, muốn hơn cũng không có nữa đâu.
Lão Ngũ nhanh chóng ăn miếng trả miếng:
- Bốn mươi tám hay tám mươi bốn vòng thì cũng mặc mẹ nó. Cái con nhóc này, nhanh nhanh mở ra đi, ta muốn biết trong đó cất giữ thứ gì lắm rồi.
Thực ra tôi cũng muốn mở thật nhanh chiếc vòng đó không kém gì lão, nên đành tạm dừng cuộc đôi co để cầm quả cầu kim loại kia lên. Đếm đi đếm lại, tôi mới phát hiện ra tổng cộng quả cầu kim loại có bốn mươi tám vòng thật. Tôi giật mình không dám tin vào sự thật này, liền cẩn thận đếm đi đếm lại thêm vài lần nữa, đúng là vừa đúng bốn mươi tám vòng. Tôi thất vọng buông thõng một câu:
- Haizzzz, cái này không thể mở được.
Chị Giai Tuệ sốt ruột hỏi lại:
- Vì sao vậy, có phải là nó quá khó không?
Lão Ngũ cũng lập tức ngồi thẳng dậy.
- Mi đừng lấp lửng nữa, mau nói vì sao lại không mở được đi.
Tôi lắp bắp giải thích:
- Vấn đề không phải là khó hay dễ, nhưng mà vì nó thực sự gồm có bốn mươi tám vòng. Trong giới mở khóa, người ta vẫn thường nói rằng: Bốn mươi tám vòng đổi mạng người.
Nghe tôi nói vậy, Lão Ngũ và chị Giai Tuệ đều ngẩn người ra trong giây lát, rồi vội vàng hỏi tôi vì sao lại như thế.
Tôi nhìn thẳng Lão Ngũ và nói ngắn gọn một câu:
- Lão Ngũ, đây là khóa bốn mươi tám vòng, nó áp dụng phép nhân sáu tám.
Lão Ngũ khẽ rùng mình, lắc lắc đầu như vẻ không tin, mắt mở to, hai con ngươi liên tục đảo xuôi ngược. Như sực nhớ ra điều gì đó, lão quay sang nhìn lại quả cầu kim loại, nói lớn:
- Thuật lục bát! Mẹ kiếp, nó chính là cỗ máy tuyệt môn. Hay đấy, hay đấy!
Thấy chị Giai Tuệ vẫn có vẻ chưa hiểu, tôi và Lão Ngũ thay nhau giải thích lại cho chị. Trong mắt của người Trung Quốc cổ đại, thế giới xung quanh được chia thành sáu chương gồm: Trên, dưới, trước, sau, trái, phải; hay nói đơn giản hơn thì đó chính là sáu mặt của chiếc hộp. Trong đó, tại điểm giao nhau của ba mặt phẳng sẽ tạo thành đỉnh góc, tổng cộng có tám đỉnh như thế, gọi là tám hướng xiên. Sáu mặt và tám đỉnh, cộng lại thành mười bốn hướng mang hàm ý “vũ trụ hồng hoang, như phong tự bế”. Tương truyền Lục hòa và Bát quái đều bắt nguồn từ đó mà ra, thế nhưng đó chỉ là kết cấu bề mặt, độ khó vẫn không thể bằng cấp độ của kết cấu lập thể.
Những loại khóa hay cỗ máy thông thường rất kị sử dụng thuật lục bát, và tránh dùng con số bốn mươi tám. Nếu như phải sử dụng chúng thì có nghĩa là đắc tội với thần thánh, trời không dung, đất không tha. Trước mặt chúng tôi chính là cỗ máy như thế, một khi đã được tạo ra thì đến người chế tạo ra nó cũng không thể mở được, nếu như vẫn cố tình mở thì cỗ máy sẽ tự động bị phá hủy, thậm chí còn gây ra những hiểm họa khôn lường.
Chúng tôi chỉ biết bất lực nhìn quả cầu kim loại mà thở dài, lòng vô cùng mâu thuẫn, rốt cuộc nên hay không nên mở đây?
Nếu quyết mở ra thì sẽ được nhìn thấy loại bảo bối được cất giữ trong đấy, nhưng điều đó cũng đồng nghĩa với việc tự đẩy mình xuống vực thẳm. Còn nếu như không mở thì thật áy này, đã sống chết vượt qua bao nhiêu cửa ải mới mò được tới đây, nhìn thấy thức ăn bày ra trước mắt mà không được dùng, quả thực cũng không cam lòng.
Cả ba người nhìn nhau đắn đo, không ai biết làm thế nào mới phải.
Lão Ngũ bỗng đứng bật dậy, xoay xoay quả cầu vài vòng, tay vừa mân mê chòm râu, miệng vừa nhẩm tính điều gì đó. Cuối cùng lão giậm mạnh chân, nói với vẻ đầy bất mãn:
- Cũng lắm là chết chứ gì! Dù gì thì cũng đã đến được đây còn gì phải do dự nữa.
Nói xong, lão ngồi sụp xuống, vỗ vai tôi như muốn khuyến khích và tiếp thêm sức mạnh:
- Nhóc con, mở đi! Trước khi banh xác mà được nhìn thấy bảo bối đó thì đời lão già này cũng coi như mãn nguyện.
Chị Giai Tuệ cũng nắm lấy tay tôi, bóp nhẹ và nói:
- Lan Lan, em mở đi. Hoàng đế Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã cho xây dựng địa cung hùng vĩ với vô vàn cạm bẫy như thế cũng chỉ với mục đích cất giấu nó, hoặc là một điều bí mật kinh thiên động địa nào đó thôi. Chẳng dễ gì chúng ta tới được đây, vẫn nên thử xem rốt cuộc đó là gì. Với lại, chúng ta hiện giờ cũng chưa tìm được cách thoát ra khỏi đây.
Thực ra tôi cũng đang nửa tò mò, nửa lưỡng lự, chưa biết quyết định ra sao, nhưng khi nghe hai người nói vậy, tôi cũng hạ quyết tâm, tháo chiếc balô đang đeo trên lưng xuống.
- Được, vậy để cháu mở!
Lão Ngũ và chị Giai Tuệ cùng gật đầu, rồi từ từ đứng lùi ra sau vài bước chừa cho tôi một khoảng trống vừa đủ.
Tôi lẩm nhẩm tính toán một chút rồi mở bộ kim móc ra, cẩn thận chọn lấy mười bốn chiếc kim, lần lượt cắm vào sáu mặt và tâm đinh. Tôi thận trọng nhìn lại một lần nữa, chỉnh sửa lại vị trí sao cho thật chuẩn. Những sợi thép bên trong chiếc hộp xoắn lại với nhau, tại những giao điểm lại được nối kết bằng vô vàn móc nhỏ, bánh răng và những sợi dây như vô hình. Mười bốn chiếc kim móc đều đã được cắm vào đúng vị trí giao nhau.
Để tránh cho kim bị lỏng và tụt ra, tôi lấy ngón tay búng mấy cái, thân kim không ngừng lắc sang hai bên, phát ra những tiếng tách tách, cắm cũng khá chắc.
Tôi lấy một sợi dây da lừa dài nhất, luồn qua những lỗ nhỏ ở phần chân kim, rồi nhanh chóng thắt nút lại, khiến cho mười bốn chiếc kim đều chụm lại thành một mối.
Loại khóa cầu lập thể này có một đặc tính rất cổ quái, đó là bắt buộc phải mở tất cả các mặt cùng lúc, tránh để lực tác động lên các mặt không đều nhau, dễ khiến cho kết cấu trong lõi khóa bị biến hình đổi dạng.
Khi mọi công đoạn chuẩn bị đã hoàn tất, tôi hít một hơi thật sâu, ngửa lòng bàn tay phải lên, tập trung hoàn toàn trí lực vào quả cầu kim loại rồi định sẵn trong đầu những thao tác và trình tự phải thực hiện.
Nhất định sẽ làm được. Tôi đưa hai tay ra trước, lần lượt dùng ngón cái, ngón trỏ bóp thật chặt hai chiếc kim; tay trái vặn chặt theo chiều kim đồng hồ một vòng, tay phải vặn thêm hai vòng nữa.
Lắng nghe âm thanh khẽ phát ra từ bên trong, tôi theo đà, tiếp tục thực hiện kế hoạch với hai chiếc kim, lần lượt vặn thêm ba vòng, rồi bốn vòng... Sau đó, tay phải đưa ra trước, tay trái chuyển sang sau, lần lượt vặn chặt hai chiếc kim thêm năm sáu vòng.
Mặc dù mỗi lần vặn số vòng không giống nhau, nhưng khi thao tác hai tay, tôi luôn giữ tốc độ nhanh chậm nhịp nhàng và co duỗi đồng nhất để lực tác động lên ổ khóa bên trong quả cầu không bị thay đổi.
Sáu mặt đã được mở thành công, tôi thấy trong lòng có phần nhẹ nhõm hơn. Tiếp sau đó tôi lại mở thêm được tám đỉnh, đồng thời vặn cùng lúc những chiếc kim móc để kích hoạt cỗ máy bên trong. Tôi nhét một đầu sợi dây da lừa vào lỗ sẹo trong lòng bàn tay, chọn ra một góc độ thích hợp nhất, năm đầu ngón tay vẫn giữ chặt sợi dây rồi giật mạnh, cả mười bốn chiếc kim cũng oằn mình cọ xát với nhau. Ngay lập tức, quả cầu kim loại đã được mở, điều gì xảy ra tiếp theo thì chỉ còn biết trông chờ vào ông trời mà thôi.
Tôi nhanh chóng lùi ra sau, đứng sát bên cạnh Lão Ngũ và chị Giai Tuệ, nắm chặt lấy tay của hai người, nhưng vẫn nghển cổ chăm chú nhìn vào quả cầu.
Ban đầu, quả cầu kim loại không có bất cứ phản ứng gì, nhưng chỉ một thoáng sau, nó dần dần chuyển động, mỗi lúc một nhanh hơn, trông giống như quả cầu pha lê lóng lánh ở các sàn nhảy; bên trong lòng quả cầu liên tục phát ra thứ âm thanh của những chiếc móc đang dần bị nới lỏng.
Tôi siết chặt lấy tay của chị Giai Tuệ, nhìn quả cầu không chớp mắt, không biết nó còn tiếp tục quay như thế đến bao giờ.
Nhưng chỉ một lúc sau, quả cầu bỗng nhiên dừng lại, ngay sau đó là những tiếng “cạch, cạch” rất khẽ phát ra từ bên trong. Quả cầu lúc này trông như một quả dưa hấu bị bổ đôi bằng một đường rạch rất ngọt, những vòng thép bọc xung quanh quả cầu cũng lần lượt trượt xuống hai bên, khiến đường rạch mỗi lúc một to hơn.
- Mở rồi, mở rồi! – Lão Ngũ hét toáng lên trong sung sướng.
Cả ba chúng tôi cùng lao tới trước để nhìn cho rõ hơn. Chẳng lẽ hoàng đế Nỗ Nhĩ Cáp Xích cho xây dựng hẳn một địa cung rộng lớn với những thiết kế và tầng khóa nguy hiểm như thế chỉ để cất giữ một thứ đơn giản? Nhưng biết đâu chính vật này mới mang đến sự kì diệu thì sao?
Nghĩ vậy, tôi vội vàng ngồi xuống, quan sát thật tỉ mỉ vật được cất giữ trong quả cầu kim loại. Lão Ngũ và chị Giai Tuệ cũng tò mò không kém, cả ba cùng chụm đầu vào nhau, chăm chú quan sát, không ai nói với ai câu nào, âm thanh duy nhất lúc này chính là hơi thở gấp gáp của mỗi người.
Vật được cất giấu bên trong quả cầu là một khay sứ dẹt, nó gần giống với chiếc khay sứ vẫn dùng để đựng thức ăn với đường diềm hơi lượn sóng giống như một cánh hoa mềm mại, lòng khay thì được in hoa văn màu xanh nhạt. Đó là một bức tranh sống động với những ngọn núi cao sừng sững, thấp thoáng đâu đó trên lưng chừng núi là một vài phong đình để dừng chân, nhìn hệt như thật, tựa như được dán một tấm ảnh vậy.
Tôi không chớp mắt, nhìn hồi lâu, ngoài việc cảm thấy rất đẹp ra, không thấy có gì đặc biệt; nhưng Lão Ngũ thì bỗng dưng trợn mắt, miệng lắp bắp như bị trúng tà:
- Cái… cái… này… mẹ kiếp… quá… quá hay, Khang Hy Thanh… Thanh Hoa sứ.
Chị Giai Tuệ “hả” một tiếng rồi từ từ đưa tay vuốt nhẹ lên khay sứ:
- Uhm, đúng là sứ Thanh Hoa! – Giọng của chị đầy mê đắm.
Vẻ mặt Lão Ngũ bỗng dưng sa sầm lại:
- Giai Tuệ, nếu như ta nhìn không lầm thì đây chính là chiếc khay Thanh Hoa Sơn Thủy, một tuyệt phẩm từ thời Khanh Hư.
Chị Giai Tuệ cũng rùng mình hoảng hốt hỏi lại:
- Khang Hy… nhưng… Lão Ngũ…
Lão Ngũ hít một hơi dài, ra hiệu cho chị Giai Tuệ bình tĩnh, rồi nhẹ nhàng nhấc khay sứ ra khỏi quả cầu kim loại, ngửa phần đáy lên. Chị Giai Tuệ vội giơ ngọn đèn dầu lên. Dưới ánh đèn, phần chính giữa của đáy đĩa có viết bốn chữ phồn thể màu xanh theo hàng dọc.
Những nét chứ phóng khoáng tuyệt mĩ, nhưng tôi lại không thể nhận ra một chữ nào, liền tò mò hỏi Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, trên đó viết gì thế ạ?
Lão Ngũ nheo nheo đôi mắt, chậm rãi nói:
- Chúng có nghĩa là “do xưởng Mặc Văn Đường chế tạo”. Nói rồi lão miết ngón tay lên dòng chữ khắc, nói chắc như đinh đóng cột. – Không sai, chính là Khang Hy Thanh Hoa sứ.
Thấy hai người cứ nói câu được câu mất, thần sắc hết sức kì lạ, tôi không nén được sự tò mò đành nói chen vào:
- Khang Hy thì cháu biết, ông ta là một bậc hiền vương của nhà Thanh, đây cũng chính là Cố Cung của nhà Thanh, điều này rất bình thường mà.
Lão Ngũ liếc xéo tôi không nói năng gì, chỉ chau mày, hai con ngươi liên tục chuyển động, không biết lão đang nghĩ ngợi điều gì trong đầu. Chị Giai Tuệ thở dài, rồi quay sang kéo nhẹ tay tôi, giải thích:
- Cố Cung Thẩm Dương là do hoàng đế Nỗ Nhĩ Cáp Xích sau khi chiếm thành ra lệnh xây dựng, mà Khang Hy lại là vị vua sau đó bốn đời, tính ra chỉ là hàng cháu chắt, hai người sống cách nhau hàng trăm năm…
Nói đến đây, chị nhìn chằm chằm vào chiếc đĩa sứ với ánh mắt hoài nghi, rồi chậm rãi nói tiếp:
- Lan Lan, em thử nghĩ xem, dưới lòng Cố Cung được xây dựng từ thời hoàng đế Nỗ Nhĩ Cáp Xích tại sao lại cất giấu báu vật của thời Khang Hy?
Lúc này tôi mới ngớ người bởi sự vô lý đó, thứ đồ này đáng lẽ ra không thể xuất hiện ở đây. Cũng giống như việc ông nội làm một chiếc hộp gỗ từ khi tôi chưa được sinh ra, bên trong đựng một đôi giày tôi đã từng đi, thế nhưng lúc đó làm gì đã có tôi trên đời này.
Tôi đờ đẫn nhìn chiếc đĩa sứ, trong đầu hỗn độn rất nhiều giả thuyết khác nhau. Thực tình lúc đó tôi không sợ hãi, mà chỉ nhìn thấy mọi việc diễn ra quá sức tưởng tượng của mình.
- Xuyên việt, chính là Xuyên việt[1] đấy.
[1] Tức là ngược dòng thời gian. Đây chính là một trào lưu tiểu thuyết, phim truyền hình mới của Trung Quốc.
Sau một hồi suy đoán, trong đầu tôi bỗng bật lên một ý tưởng:
- Hồi cấp Hai cháu rất thích đọc loại tiểu thuyết này. Nhất định là người từ thời Khang Hy đã ngược dòng thời gian để trở về thời đại của hoàng đế Nỗ cái gì Xích ấy nhỉ, rồi để lại vật này.
- Cái gì? – Lão Ngũ vẫn chưa nghe rõ, quay lại nhìn tôi thắc mắc, - Xuyên cái gì việt, đó là tên một tuyệt kĩ mới sao?
Chị Giai Tuệ lắc đầu ngao ngán:
- Lan Lan, em đừng nói linh tinh. Đó chỉ là những điều hư cấu trong tiểu thuyết thôi, làm sao có thể tin được.
Nói xong, chị đưa mắt nhìn sang bốn phía, rồi dừng lại ở cái xác khô, lưỡng lự nói tiếp:
- Lão Ngũ, Lan Lan, hai người nghĩ xem liệu có thể có khả này không nhé: Hoàng đế Nỗ Nhĩ Cáp Xích xây dựng địa cung này nhất định là chôn giấu một loại bảo bối nào đó; tới thời vua Khang Hy, đã có người lén lút xuống đây, rồi dùng thủ đoạn lấy cắp bảo bối đó và đổi thành một vật khác… Nếu như điều đó thực sự xảy ra thì chứng tỏ cái khay sứ trong tay chúng ta chỉ là đồ ngụy tạo, cái xác này có khi nào chính là tên trộm đồ khi đó đã không thận trọng nên bị cỗ máy giết chết tại đây?
Mặc dù không hiểu lắm nghĩa của từ ngụy tạo, nhưng tôi đoán nó có nghĩa là đồ giả. Tôi ngồi xuống, đưa tay sờ quả cầu kim loại, nói với vẻ chắc chắn:
- Không thể nào, đây chính là loại khóa chế tạo theo luật lục bát, mở xong thì coi như đã bị phá hỏng hoàn toàn, không thể nào tiếp tục sử dụng nữa, đến cả ông nội em cũng khó có thể làm gì được.
Lão Ngũ khẽ gật đầu, nghiêm giọng nói:
- Đúng thế, cái cỗ máy khốn kiếp này… Mẹ kiếp, mở xong là coi như tự hủy luôn… Hừm… không hay rồi, sắp có chuyện xảy ra đấy, tốt nhất ba chúng ta hãy nhanh chóng rời khỏi đây mau.
Lão Ngũ đưa chiếc khay sức cho chị Giai Tuệ, nói tiếp:
- Mặc mẹ nó là hàng thật hay hàng giả, cái khay này cũng đáng giá không ít tiền đâu, đủ cho ba chúng ta xả láng một trận đấy. Giai Tuệ, cất nó đi!
Chị Giai Tuệ cẩn thận dùng một chiếc áo bọc chiếc đĩa lại rồi cất vào trong balô, Lão Ngũ tóm lấy tay hai chị em tôi lôi đi xềnh xệch.
- Hai đứa, nhân lúc cỗ máy chưa kịp khởi động, chúng ta hãy mau nghĩ cách chuồn khỏi đây thôi.
Lão Ngũ vẫn chưa dứt lời, tôi bỗng nghe thấy có tiếng nước chảy ầm ầm từ phía bên ngoài căn hầm, giống như một thác nước khổng lồ đang đổ từ trên xuống không ngừng nghỉ.
- Đ. mẹ, rắm vừa đánh là ị ngay luôn. Hay đấy!
Lão Ngũ vặn người lao thẳng tới cánh cửa, tôi và chị Giai Tuệ cũng chạy theo, bám lên cánh cửa ngó ra ngoài. Nước đang cuồn cuộn chảy từ những miệng lỗ trên bức vách đá, giống như những con rồng nước đang giận dữ lao tới; chỉ trong chốc lát, những “con mắt trắng dã” của lũ nấm đá đã bị chìm ngập trong lòng nước hung dữ. Toàn bộ những ngọn đèn dầu trên thạch nhũ cũng bị tắt ngấm, cả khoảng không gian trong lòng động trở nên tối đen như mực, chỉ còn duy nhất ngọn đèn dầu trên tay chị Giai Tuệ là vẫn đang tỏa chiếu những tia sáng leo lắt, yếu ớt.
Lão Ngũ giậm chân lo lắng:
- Không khéo chúng ta bị chết chìm mất. Dòng sông ngầm cuối cùng cũng bị vỡ rồi.
Qua ánh sáng của ngọn đèn, tôi nhận thấy nước mỗi lúc một dâng cao với những con sóng bạc đang cuồn cuộn tiến tới, đi kèm theo đó là những tiếng nổ lớn đinh tai. Tôi rối trí vô cùng, quay sang cố hét thật lớn để át đi tiếng ì ầm của dòng nước.
- Làm thế nào bây giờ? Nước sắp dâng tới nơi rồi!
Chương 25:
Có vẻ như lúc này, chị Giai Tuệ vẫn là người điềm tĩnh nhất trong ba chúng tôi, chị vừa ngó ra ngoài vừa nói:
- Xuống thì cũng không xuống được, chi bằng chúng ta bám vào những tảng thạch nhũ để trèo lên trên để Lan Lan mở cánh cửa đá phía trên đỉnh, quay trở lại Thiên Cung Cách sát trận.
Lão Ngũ vuốt mấy sợi râu lưa thưa dưới cằm, đăm chiêu một lúc rồi vừa khẽ gật đầu vừa nói:
- Chỉ còn cách đó thôi, thế nhưng ngọn đèn này có lẽ không đem theo được nữa.
Nghĩ tới màn đêm tối đen như mực trong Thiên Cung Cách sát trận, đến một tia sáng heo hắt cũng không có là tôi đã không muốn quay lại. Nhưng tình thế trước mắt vô cùng khẩn cấp, nên giờ cũng chỉ biết tới đâu hay tới đó thôi. Vì vậy, chúng tôi nhanh chóng cất hết đồ đạc vào balô đeo lên vai rồi tiếp tục trèo lên cao.

Chiều cao của cả cái động này ước chừng một trăm mét, chỗ chúng tôi đang đứng là ở khoảng giữa, thế nhưng dòng nước từ phía trên đỉnh không ngừng đổ xuống, lực cản rất lớn. Lão Ngũ đã trèo thử vài bận mà không thể nào thoát ra được, lão xoa xoa mặt, rủa ầm ĩ:
- Không được rồi, không được rồi. Mẹ kiếp! Trơn như mỡ lợn thì trèo thế nào được?
Chị Giai Tuệ đăm chiêu suy tính một lúc, rồi bỗng nhiên lên tiếng:
- Vẫn còn một cách khác. Đợi tí nữa nước dâng lên đến miệng động, chúng ta cứ bơi ra, đợi động ngập nước, chỉ cần Lan Lan nhanh tay mở khóa là có thể…
Hiểu được ý của chị Giai Tuệ, tôi vội vàng lên tiếng:
- Nhưng em không biết bơi!
Chị Giai Tuệ nắm chặt vai tôi động viên:
- Không sao, lúc đấy chị sẽ dìu em…
Lão Ngũ tỉnh queo tiếp lời:
- Thế nếu nó mở chậm thì coi như ba người chúng ta được một thể uống nước đẫy bụng à? Hay đấy, hay đấy!

Chúng tôi tranh cãi một lúc, vẫn chỉ có cách đó là khả thi nhất nên đành ngồi ở miệng hầm đợi nước dâng lên.
Chị Giai Tuệ quay lại nhìn cái xác khô, nói rằng muốn đem một vài thứ về nghiên cứu. Chị lập tức đứng dậy đi về phía cái xác, lôi ra một con dao nhỏ, cắt lấy một mảnh da đen thui đã bị khô teo, nhổ lấy một vài sợi tóc. Rồi chị nhờ tôi cởi bộ quần áo đã mục nát trên cái xác khô ra, đặt nằm thẳng xuống sàn, và lôi chiếc máy ảnh nhỏ xíu ra chụp lại.
Mặc dù có chút dã man, nhưng tôi vẫn cố làm theo. Khi cởi bỏ quần áo cho cái xác, tôi bỗng nhiên phát hiện trên cổ anh ta có một sợi dây màu trắng thít sâu vào trong thịt, chỉ để lòi ra hai đầu dây ngắn cũn. Nhìn kĩ hơn, tôi bỗng giật mình, đó chính là sợi dây da lừa của phái Kiện môn, lẽ nào người này lại bị một người mở khóa khác siết cổ cho tới chết?
Chị Giai Tuệ chau mày, sờ tay vào cổ cái xác rồi đưa ra kết luận cổ họng đã bị cứa đứt, chứng tỏ là bị người khác siết cổ cho tới chết. Chị từ từ lôi sợi dây da lừa ra, đưa cho tôi tiếp tục lục lọi quần áo của anh ta, nhưng không phát hiện thêm thứ gì khác.
Sau khi đã hoàn tất mọi việc, chúng tôi vẫn phải đợi thêm khoảng hơn nửa canh giờ nữa dòng nước mới ngập tới miệng hầm, dòng nước cuốn theo bùn đất lao mình vào vách đá, chỉ trong nháy mắt nước đã ngập cao hơn chục centimet. Lão Ngũ hét lên một tiếng rồi nhảy xuống dòng nước cuồn cuộn, tay vẫn cố giơ cao ngọn đèn dầu để không bị tắt. chị Giai Tuệ cũng lập tức nhảy theo, hai người đạp nước quay lại gọi tôi cùng xuống.
Mặc dù trong lòng rất sợ hãi nhưng tôi vẫn cắn răng, ngồi vắt vẻo trên miệng hầm một lúc, rồi lấy can đảm từ từ thả mình xuống dòng nước. Chị Giai Tuệ vội bơi tới ôm lấy thắt lưng tôi rồi kéo tôi ra xa hơn để tránh một ngọn sóng đang ào ạt xô tới.
Chúng tôi giữ chặt chiếc balô làm phao để nổi trên mặt nước. Tôi lo lắng nhìn những “con rồng nước” dữ dội lao xuống, trong lòng thấp thỏm không yên, chỉ mong sao dòng nước nhanh nhanh ngập tới đỉnh, mở được cánh cửa đá kia là coi như thoát khỏi đây an toàn.
Nổi lênh đênh trên mặt nước gần một tiếng đồng hồ khiến cả người tôi ướt sũng, lạnh cóng, hai hàm răng va vào nhau lập cập rất khó chịu. Cũng may là mực nước dâng lên khá nhanh, giờ đây tôi đã có thể giơ tay chạm tới đỉnh động.
Trên đỉnh là những tảng đá vuông vức xếp ngay ngắn cạnh nhau, đó chính là mặt dưới của Thiên Cung Cách sát trận. Nhưng loay hoay một lúc lâu, tôi mới phát hiện ra những tảng đá này đều được thiết kế một chiều, tức là chỉ có thể xoay theo chiều từ trên xuống, còn từ dưới thì hoàn toàn bó tay, trừ khi có một mũi khoan để khoan thủng phiến đá thì may ra.
Lão Ngũ cũng đã nhìn ra vấn đề, lão không nhịn được chửi ầm lên:
- Mẹ kiếp! Đúng là bọn khốn nạn thâm hiểm!
Chị Giai Tuệ để Lão Ngũ giữ tôi rồi tự mình tìm hiểu đỉnh động. Chị bơi một vòng rồi bất ngờ dừng lại ở phía bên trái, gõ gõ sờ sờ mãi mới vẫy tay gọi chúng tôi đến. Từ chỗ chị Giai Tuệ dừng lại, tôi nhìn thấy ngay sát đỉnh động có một cái hang nhỏ hơi dẹt, điều đặc biệt là dòng nước không lọt được vào đó, mặc dù mực nước ở xung quanh vẫn không ngừng ì oạp dâng lên.
Phát hiện thấy sự khác thường, Lão Ngũ lập tức giơ đèn ra soi. Miệng hang vừa đủ một thân người chui qua, bên trong là một màu đen kịt nên không thể nhận biết nó sâu cỡ nào. Lão Ngũ vội quay sang nói với chúng tôi:
- May mà còn có một cái lỗ thoát thân, chui qua đi, hai đứa.
Lúc đầu dòng nước vẫn chưa ngập quá cổ, vậy mà giờ nó đã mấp mé miệng tôi. Không còn thời gian suy nghĩ nữa, Lão Ngũ và chị Giai Tuệ đẩy tôi chui qua trước, rồi luồn ngọn đèn dầu theo sau.
Lòng hang tôi vừa trèo vào rất hẹp, chỉ vừa đủ cho một người bò sát xuống sàn. Tường xung quanh chỗ lồi chỗ lõm, trên vách hang gồ ghề là rất nhiều những viên đá lóng lánh, dưới ánh sáng của ngọn đèn, chúng phản chiếu lấp lánh như một bầu trời sao.
Tôi còn đang say sưa ngắm nghía hiện tượng kì thú, thì có tiếng Lão Ngũ sặc sụa hét lên:
- Lan Lan, mẹ kiếp! Đang mơ màng gì đấy? Còn không mau bò lên trước đi, Lão Ngũ ta sắp bị mi nhấn chìm rồi.
Tôi sực tỉnh, cố gắng ép mình vào sát vách để lấy khoảng trống cho hai người leo lên. Lão Ngũ vẫn cuống cuồng thúc giục:
- Nhanh… nhanh… nhanh… cố lên… cố lên… nước dâng tới nơi rồi!
Lão chưa dứt lời, tôi đã thấy phía dưới người ươn ướt, thì ra dòng nước lạnh buốt đã bắt đầu tràn đến. Tôi đoán nước đã hoàn toàn nhấn chìm động đá phía sau lưng, tạo nên một áp suất lớn đẩy nước tràn vào lỗ hang này. Chỉ trong nháy mắt, mực nước đã tăng lên vài centimet, và vẫn không ngừng dâng lên nhanh chóng.
Cả nửa thân người ngập trong nước, vừa lạnh vừa sợ, một tay cầm ngọn đèn dầu giơ lên thật cao, tôi cố gắng leo lên chỗ cao nhất có thể.
Đó là một địa đạo dài vô tận, thẳng tắp theo hướng cao dần lên, hầu như không có khúc cua. Cả ba chúng tôi không ai nói với ai câu nào, chỉ cúi đầu hùng hục bò về phía trước. Không biết chúng tôi đã bò như thế trong bao lâu, chỉ biết dòng nước ở phía sau lưng đang từ từ rút xuống, nhưng vẫn ở mức cao.
Tiến thêm được một đoạn nữa thì tôi mệt tới mức thở không ra hơi, lòng bàn tay và hai đầu gối đều bị trầy xước đau rát do bò trên mặt đá gồ ghề. Tôi liền dừng lại một lúc, hổn hển nói:
- Mệt quá… mệt chết mất! Lão Ngũ ơi, nghỉ một lúc đã!
Chị Giai Tuệ ở phía đằng sau cũng đồng tình:
- Đúng đấy, nước không còn dâng cao nữa, chúng ta dừng lại nghỉ một chút đi!
Lão Ngũ ậm ừ đồng ý rồi nói thêm:
- Vậy thì nghỉ một chút. Lan Lan, đưa ngọn đèn để ta soi một chút.
Tôi vòng tay chuyền ngọn đèn ra phía sau lưng để chị Giai Tuệ chuyển cho Lão Ngũ, trong lòng băn khoăn không biết lão dùng đèn soi thứ gì. Chợt một vài tia sáng lấp lánh sau lưng chiếu xiên lên phía trước, kèm theo đó là giọng nói đầy phấn khích của Lão Ngũ.
- Khá lắm, thì ra đây là kênh Thiết Trân. Hay đấy, hay đấy… Chết mẹ! Không ổn rồi, không ổn rồi, hình như có người đã đến đây trước chúng ta.
Tôi và chị Giai Tuệ đồng thanh hỏi lại:
- Kênh Thiết Trân là cái gì ạ?
Lão Ngũ liền hắng giọng cắt nghĩa:
- “Thiết” là ăn trộm, “Trân” là của báu, Thiết Trân chính là con kênh đào do bọn trộm mộ tạo ra. Giai Tuệ, mi cũng thử ngó lên vách tường đá hai bên mà xem. – Nói rồi lão đưa ngọn đèn tới đoạn tường đá gần chỗ chị Giai Tuệ.
Không lâu sau, chị Giai Tuệ bỗng thốt lên đầy kinh ngạc:
- Đúng rồi, bề mặt vách đá đều mang dấu vết chạy theo hướng từ trên xuống dưới. Chắc chắn là đã có người đào con kênh này.
Nghe thấy vậy, tôi cũng lập tức đưa tay ra sờ lớp vách đá bên cạnh mình, quả nhiên là có vô số những vết cào chạy từ trên xuống.
Lão Ngũ nói với chúng tôi, kĩ thuật của phái Đạo gia cũng chia thành hai loại là Nhuyễn Đạo và Ngạnh Đạo. Nếu như dùng kĩ thuật của bàn tay để lấy đồ của người khác thì gọi là Nhuyễn Đạo, còn nếu như dùng công cụ để khoan cắt hay là bất cứ một cung hoặc lăng mộ thì gọi là Ngạnh Đạo, và những con kênh đào xuyên lòng đất để vào bên trong cung như thế này được gọi là kênh Thiết Trân. Do đó, chắc chắn một điều rằng, trước đây đã từng có người đào kênh Thiết Trân để chui xuống dưới địa cung ăn cắp báu vật, nhưng người đó là ai, đào vào thời gian nào thì không thể biết được.
Tôi lập tức hỏi Lão Ngũ, vậy cái xác khô lúc này có phải là do những tên ăn trộm đó để lại? Liệu có phải chúng đã gặp phải cái bánh chưng[2] ấy không? Thấy Lão Ngũ không hiểu, tôi liền giải thích rõ hơn.
[2] Từ lóng của dân trộm mộ chỉ xác chết.
Lão Ngũ nghe xong liền phì cười, chế giễu:
- Đừng có ngồi đó mà tưởng tượng vớ vẩn, Trung Quốc lấy đâu ra nhiều lăng mộ thế cho mi đào? Lại còn bánh chưng bánh dầy cái nỗi gì, đưa ta miếng bánh gạo còn tốt hơn.
Chúng tôi cứ thế ngồi đoán già đoán non, nhưng cũng không tìm ra được một lí do thuyết phục. Những phút nghỉ ngơi quý báu đã giúp hồi phục sinh lực, nên chúng tôi tiếp tục bò về phía trước. Được khoảng hơn hai trăm mét, tôi bỗng nghe thấy có tiếng gió ù ù thổi đến, hình như chúng tôi đã tới đầu bên kia của kênh Thiết Trân, trước mặt tôi lúc này là một khoảng trống không rộng lớn và thoáng đãng.
Tôi mừng rơn, vội vàng báo cho hai người kia biết, rồi lập tức bò thật nhanh về phía trước, đến một nơi có vẻ như là miệng hang. Tôi lấy ngọn đèn ra giơ cao lên phía trước để nhìn rõ hơn. Mặc dù vẫn là một khoảng tối om om, nhưng tôi có thể cảm nhận thấy trước tầm mắt mình hoàn toàn không có vật cản nào, chứng tỏ đây là một không gian rất rộng lớn. Ánh sáng của ngọn đèn có hạn, nhưng may thay, ngay phía dưới chỗ tôi đang ngồi là một dải cát trắng phau, ánh đèn đã làm chúng phản chiếu ra những tia sáng lấp lánh, soi rọi cả một vùng mờ ảo.
Tôi vội ngoảnh đầu lại, sung sướng thông báo:
- Tới nơi rồi, Lão Ngũ, chị Giai Tuệ, chúng ta tới nơi rồi!
Không để cho chị Giai Tuệ kịp lên tiếng, Lão Ngũ đã cướp lời:
- Phì, tới cái đầu mi ấy, toàn nói lời đen đủi.
Tôi quá sung sướng nên cũng chẳng thèm để ý đến lão nói gì nữa, hai tay vịn chắc vách tường từ từ tụt người xuống. Tôi đặt cây đèn dầu sang một bên, vươn vai, vặn vẹo tay chân cho đỡ mỏi, cảm giác thật thoải mái dễ chịu vô cùng.
Ngay sau đó, chị Giai Tuệ và Lão Ngũ cũng tụt xuống, cả ba chúng tôi đứng cạnh nhau, chẳng thèm nhìn ngang ngó dọc như mọi bận mà chỉ tranh thủ nghỉ ngơi, tận hưởng cảm giác được thoát khỏi nơi tù túng.
Sau khi nghỉ ngơi thoải mái, chúng tôi soi ngọn đèn về bốn phía xung quanh và nhận ra đây là một không gian mênh mông có dạng kết cấu thẳng đứng. Nơi chúng tôi vừa thoát ra nằm gần chân vách đá, còn phía trên đầu, cách chúng tôi chừng ba mét là một vòm nham thạch khá xù xì với những mỏm đá nhô ra chi chít. Dưới ánh đèn dầu, những mỏm đá nhấp nhô không ngừng phản chiếu ra những tia sáng lấp lánh, lung linh màu sắc, thỉnh thoảng lại có những giọt nước mát lạnh nhỏ xuống.
Chị Giai Tuệ liền bước tới, quan sát một lượt xung quanh rồi nói với chúng tôi, đây có lẽ là phần đáy của một khe nứt được tạo thành trong quá trình địa chấn kiến tạo vỏ trái đất từ hàng nghìn năm trước. Hầu hết dưới lòng đất vùng Đông Bắc đều mang cấu tạo như thế, chúng được phân bổ khắp nơi với độ nông sâu khác nhau, có tác dụng làm giảm nguy cơ các tầng đất đá dưới lòng đất bị đè nén, do vậy ở đây ít khi bị động đất như ở khu vực Tứ Xuyên và Thanh Đảo.
Nghe chị giải thích tường tận như vậy, trong lòng tôi không tránh khỏi lo lắng, sợ hãi.
Lão Ngũ cũng lắc đầu, cứng cỏi đáp:
- Mặc mẹ nó có động đất hay không, mà nếu có thì cũng là ý Trời.
Chị Giai Tuệ mỉm cười, một tay giơ cao ngọn đèn, một tay vỗ vào thành đá, chị nói:
- Ngày xưa cô giáo từng giải thích hiện tượng động đất đã tạo ra những đứt gãy về mặt liên kết, hay chính xác hơn là tạo ra những thềm địa tầng nhấp nhô, chạy dọc lên mặt đất. Nếu như chúng ta tìm ra được những thềm địa tầng này thì cũng có thể thoát ra khỏi đây.
Mặc dù không hiểu lắm về kiến thức địa lý, nhưng nghe đến việc có thể thoát ra ngoài, tôi và Lão Ngũ vô cùng hào hứng, dù sao cũng còn có chút hi vọng. Cả ba chúng tôi lập tức bắt tay vào việc tìm lối ra dưới sự hướng dẫn của chị Giai Tuệ.
Trên đường đi, những mỏm đá nhọn hoắt chi chít chen lẫn với nhau, luôn rập rình đâm vào chân khiến chúng tôi luôn phải dò dẫm từng bước khó nhọc. Đi được chừng vài trăm mét, tôi chợt nhìn thấy có cái gì đó trăng trắng lấp ló phía trước, hình như nó còn hơi chuyển động thì phải. Bị cơn tò mò thúc giục nên tôi đã bước thật nhanh về phía trước, gần tới nơi, tôi mới phát hiện ra trước mắt mình là một con sông mênh mông với mặt nước phẳng lặng như tờ, trông rất giống chiếc gương soi lấp loáng, dòng nước lững lờ trôi mà không hề gây ra tiếng động nào dù là nhỏ nhất.
Đang lúc tò mò khôn xiết, bỗng nhiên tôi nghe giọng chị Giai Tuệ từ đằng sau hét lớn:
- Nhìn kìa, kia là cái gì thế?
Theo hướng tay chị chỉ, tôi nhìn thấy một vật màu trắng nhờ nhờ nổi trên mặt nước cách bờ chừng mười mét, đang từ từ trôi dạt về phía chúng tôi.
Lão Ngũ “hừm” một tiếng, rồi bì bõm lội xuống nước, vớt được vật kia lên, lão liền chửi thề một câu trước khi quay vào bờ. Thì ra đó là vỏ chai nước khoáng, lớp giấy nhãn bọc bên ngoài đã bị tuột mất.
Tôi vô cùng sửng sốt, lẽ nào đã có người tới đây trước chúng tôi thật? Tôi sực nghĩ đó có thể là ông nội lắm chứ, ông đi bằng con đường khác và cũng đã tới đây, uống nốt chai nước cuối cùng rồi vô tình ném xuống sông?
Càng nghĩ tôi càng cảm thấy phấn khích vô cùng, lao nhanh về phía trước, hớt hải ngó nghiêng xung quanh, rồi chạm hai tay trước miệng hét lớn:
- Ông ơi, ông ơi, cháu là Lan Lan đây, ông đang ở đâu?
Thấy tôi gọi ông nội, Lão Ngũ như cũng sực nhớ ra và lập tức cất tiếng gọi lớn:
- Lão Sở, lão Sở… cái lão già chết tiệt này, mau chui ra đi…
Tôi và Lão Ngũ cùng ra sức hò hét, người này cố át đi tiếng của người kia, âm thanh liên tục dội tới tường đá rồi vọng lại khắp nơi, khiến những giọt nước đang đọng trên thạch nhũ cũng rơi xuống nhanh hơn tạo nên một cơn mưa nhỏ phía dưới vòm đá. Thế nhưng, dù chúng tôi gọi khàn cả cổ nhưng vẫn không có một tiếng trả lời nào, mọi thứ vẫn lặng im như tờ. Tôi bắt đầu cuống lên, quay người lại nắm chặt lấy tay chị Giai Tuệ.
- Chị Giai Tuệ, chúng ta phải nhanh lên thì mới có thể đuổi kịp ông em.
Vẻ mặt của chị Giai Tuệ rất lạ, chị lặng lẽ nói với vẻ hoài nghi:
- Không phải đâu, chai nước này là của hãng Băng Lộ, hơn nữa vỏ chai đã rất cũ rồi, không thể có chuyện vừa mới được vứt xuống đây.
Chị vặn chiếc nắp chai ra, nhìn vào mặt phía trong, nói:
- Ngày sản xuất là tháng Hai năm ngoái, tới giờ đã hơn một năm rồi. Hơn nữa, Cơ quan Cảnh sát có mối quan hệ làm ăn với công ty Robust Thẩm Dương từ rất lâu rồi, nên từ trước đến nay mọi người đều dùng nước của hãng này.
Nghe chị Giai Tuệ nói tôi đã hiểu ra, cái vỏ chai này không phải là do ông nội ném lại, nhưng chắc chắn đã có một người khác từng ở đây. Lẽ nào, một năm trước đã có người xuống dưới địa cung, và cũng mò tới được thềm địa tầng như chúng tôi?
Nghĩ đến đây, tôi chợt có một linh cảm rất lạ: Nếu như đã có người đến đây, vậy tại sao những cỗ máy kia đều không có dấu vết của việc đã từng bị mở, và họ đến đây với mục đích gì?
Lão Ngũ vỗ mạnh lên đầu mình tự giễu:
- Tóm lại chúng ta vẫn không phải là người đầu tiên, bảo bối cũng đã bị lấy mất rồi. Mẹ kiếp, đến muộn rồi… đến muộn rồi. Hay đấy, hay đấy!
Tôi đang định hỏi chị Giai Tuệ rốt cuộc chuyện gì xảy ra, thì bỗng thấy chị cười, chỉ tay lên đỉnh đầu nói:
- Thẩm Dương đang mưa rất to đấy.
Không hiểu vì sao lúc này chị Giai Tuệ lại có thể buông ra một câu không đầu không cuối như thế. Trong khi chúng tôi vẫn đang bị chôn chân dưới lòng đất hàng nghìn mét, kể cả khi bên trên mặt đất có bom nguyên tử nổ thì chưa chắc chúng tôi đã biết, vậy mà chị lại có thể nghĩ đến việc trăng sao mưa gió như thế.
Thấy chúng tôi vẫn ngơ ngác chưa hiểu ra vấn đề, chị Giai Tuệ mới từ từ giải thích. Chị nói, dòng sông lớn trước mặt chúng tôi gọi là Phục lưu[3], được tạo thành bởi các mạch nước ngầm tập trung lại, hoặc do các mạch nước men theo những khe nứt trong lòng địa tầng, qua thời gian, các tầng đá dần bị bào mòn tạo thành lòng sông. Hiện tượng Phục lưu này nếu được phân bố tại những vị trí có độ nông sâu, to nhỏ, lưu lượng dòng chảy khác nhau sẽ phân thành hai loại dòng chảy là dòng chảy xiết và dòng chảy lặng. Theo như chị quan sát, thì nhánh sông này thuộc nhóm dòng chảy lặng.
[3] Sông ngầm
Lão Ngũ nghe chị giải thích phức tạp quá nên phẩy tay, nói:
- Thôi, thôi! Phục gì thì phục, cũng chỉ là sông ngầm mà thôi. Lão Ngũ ta đã băng sông vượt biển chán rồi, số sông ngầm ta đã vượt qua còn nhiều hơn những dòng chảy chúng bay từng thấy đấy. Nhanh nhanh nói rõ rốt cuộc là có chuyện gì đi.
Chị Giai Tuệ mỉm cười, cúi người ngồi bên bờ sông, thò tay xuống dòng nước rồi nói:
- Chai nước không phải do ai đó ở đây ném xuống, hơn nữa ngày sản xuất khá lâu rồi, vậy thì chỉ có thể giải thích rằng, nó đã trôi nổi theo dòng sông chảy tới đây…
Tôi vỡ lẽ đôi chút nhưng vẫn còn khá hồ nghi:
- Em biết rồi, lúc nãy chị vừa nói về mấy vết nứt, về tảng đất đá gì gì đó, giờ lại nói về mặt nước, dòng chảy… Liệu ý của chị có phải là chai nước đã rơi xuống một vách đá nào đó rồi trôi nổi xuống tận dưới này không?
Chị Giai Tuệ gật đầu.
- Không sai, chị nghĩ rằng chúng ta chỉ cần men theo dòng chảy này là sẽ tìm ra… vách đá mà em vừa nói đến. Chị nghĩ phía trên chúng ta chắc chắn phải có rất nhiều mạch nước ngầm, kết hợp với vị trí đang đứng, chị đoán đây chính là dòng Hỗn Giang của Thẩm Dương.
Chị giải thích cặn kẽ thêm là, vị trí này cách mặt đất rất xa, nếu như phía trên không có dòng chảy mạnh và áp suất lớn thì chiếc vỏ chai này khó có thể lọt xuống đây, cho nên chị đoán rằng tại Thẩm Dương chắc hẳn đang mưa rất to. Sau đó chị còn cắt nghĩa thêm về mấy thứ đại loại như đường dẫn nước, chân không hay áp suất gì gì đó, nhưng dĩ nhiên là tôi nghe như vịt nghe sấm; cuối cùng chị kết lại một câu, đó là cứ theo ngược dòng, chắc chắn sẽ tìm thấy lối ra.
Nghe tới đó, Lão Ngũ lập tức cởi chiếc áo đang mặc trên người ra rồi xé toạc thành hai mảnh, lần lượt buộc tay tôi vào tay lão và chị Giai Tuệ. Thấy chúng tôi ngơ ngác nhìn nhau, lão cười khoái chí rồi nói:
- Hai đứa còn nhìn cái gì nữa, không mau đi thôi. Có ra được khỏi đây không còn phải trông chờ vào số mệnh của ba chúng ta. Nếu chìm thì coi như là được chết có nhau, còn nếu qua được cửa tử thì có thêm bạn đồng hành.
Chúng tôi nắm chặt tay, cố trao nhau ánh mắt khích lệ. Sống mũi cay cay, tôi bỗng thấy ngoài ông nội ra, hai người này đã trở thành những người thân thiết nhất của tôi.
Ngay sau đó, hai người để tôi đi ở giữa, rồi cùng lội xuống dòng nước mát lạnh. Ban đầu, nước chỉ ngập quá bắp chân tôi, nhưng càng tiến ra xa mực nước càng dâng cao hơn, khi ra tới giữa dòng thì nước đã ngập ngang ngực. Người tôi khẽ chao đảo theo từng nhịp sóng nước. Lão Ngũ và chị Giai Tuệ nhẹ nhàng kéo tôi nổi theo, cứ thế từ từ bơi ra xa.
Dòng sông phẳng lặng, bốn phía đều yên tĩnh một cách kì lạ, chỉ có tiếng tay chân chúng tôi rẽ nước ì oạp. Mặc dù độ sáng của ngọn đèn dầu khá yếu ớt, nhưng chúng tôi vẫn có thể lờ mờ nhìn thấy bức tường đá hai bên bờ xám xịt với những hình dạng hết sức cổ quái, kèm theo những tia sáng lóng lánh, phản chiếu qua ánh đèn lúc sáng lúc tối như có hàng trăm đôi mắt đang dõi theo, khiến tôi sởn hết tóc gáy.
Chúng tôi bơi được chừng ba trăm mét thì phát hiện bờ sông bỗng nhiên hẹp dần, bức tường đá phía trên mỗi lúc một thấp xuống cho tới khi chỉ còn cách mặt nước chừng vài centimet tạo thành một khe hở rất nhỏ. Chúng tôi phải trầm mình dưới nước, ngửa cổ lên để mũi và miệng lấy được chút không khí, rồi lại tiếp tục bơi về phía trước, tôi cảm thấy người rã rời và đói vô cùng. Chị Giai Tuệ mò trong balô ra gói lương khô, giơ cao lên đầu xé lớp túi bọc rồi bẻ nhỏ chia cho mỗi người một miếng. Do khoảng không quá nhỏ không đủ để nhô hẳn đầu lên, nên mọi người phải khó khăn lắm mới hoàn thành được bữa ăn trên mặt nước.
Cả một đoạn đường dài, lúc trôi theo dòng nước, lúc thì tạm dừng nghỉ, nên không rõ chúng tôi đã đi được bao xa; cho tới khi tôi nghe thấy tiếng ầm ầm vọng tới, dòng nước êm đềm bỗng chuyển dòng chảy xiết.
Chị Giai Tuệ hào hứng giải thích, dưới áp lực của dòng nước, nơi dòng chảy xiết và dòng chảy lặng giao nhau chính là vị trí thềm địa tầng bị đứt đoạn, hay chính là những khe đá sau khi địa tầng được hình thành đã tạo nên dòng thác chảy xiết. Vượt qua chúng sẽ lại tới một dòng chảy lặng. Rồi tiếp tục dâng lên, cho tới khi có đường thoát ra ngoài.
Nghĩ đến việc sẽ thoát được ra ngoài, chúng tôi hào hứng bơi ngược dòng thêm một đoạn khoảng hơn trăm mét nữa. Lúc này lực cản của dòng nước đá rất lớn, nếu không phải ba người chúng tôi chụm lại với nhau, thì có lẽ đã sớm bị đẩy ngược lại rồi.
Không lâu sau đó, quả nhiên đúng như lời dự đoán của chị Giai Tuệ, tôi nhìn thấy một vách đá rất lớn đang ầm ầm tung bọt trắng xóa, tiếng thác đổ như những hồi trống giục giã nhấn chìm cả bầu không gian yên tĩnh.
Chương 26:
Lão Ngũ cố át tiếng ầm ầm của dòng nước:
- Hai đứa, sống hay chết chính là ở đây, giờ thì vào thôi! – Nói rồi, lão gắng sức lôi mạnh tôi và chị Giai Tuệ tiến vào dòng thác hung hãn.
Vừa vào lòng thác, ngọn đèn dầu trong tay tôi đã tắt phụt, bốn phía xung quanh tối om om. Tôi cảm thấy như mình đang bị vô số xoáy nước cuồn trôi, những đợt sóng liên tiếp ào đến tối tăm mặt mũi.
Tôi cố gắng nín thở, vùng vẫy điên cuồng để người nổi lên, rồi bám chặt vào một mỏm đá kề ngay miệng thác, cùng với sự giúp sức của hai người đồng hành, tôi dồn sức trèo qua, sống chết bơi ra một quãng xa, nơi dòng nước đã hiền hòa trở lại. Mặc dù không thể nhìn thấy xung quanh, nhưng cảm giác của tôi cho thấy đây chính là dòng chảy lặng, khác hẳn chặng đường vừa rồi. Chúng tôi lại cần mẫn bơi ngược dòng thêm một đoạn rồi tiếp tục oằn mình chống chọi với dòng chảy xiết thứ hai…
Cứ hết dòng thác này lại tới dòng thác tiếp theo, cho tới khi tôi không thể nhớ mình đã vượt qua bao nhiêu tầng thác, chỉ biết rằng lực đã cùng sức đã kiệt, ba chúng tôi đều rét run cầm cập.

Tiếp tục vượt qua thêm một tầng thác nữa, tôi bỗng thấy lẫn trong dòng nước là lớp bùn cát đục ngầu đang kéo chúng tôi vào giữa trung tâm cơn xoáy rồi ùa vào tai vào mũi, khó chịu vô cùng.
Sự lo sợ dâng lên cực đỉnh khi mảnh vải buộc tay tôi vì bị giằng kéo quá lâu nên đã đứt lìa, dòng nước lập tức đẩy Lão Ngũ và chị Giai Tuệ ra xa. Do không thể mở mắt và cũng không kịp mở miệng lấy hơi, nên tôi chỉ có thể vùng vẫy theo bản năng.
Khoảng hai phút sau, ngực tôi đau tức như muốn nổ tung, toàn thân bị kéo mạnh xuống dưới làn nước đục ngầu. Không chịu được nữa, tôi đành há miệng lấy hơi, lập tức một dòng nước lạnh buốt kèm theo cả bùn đất chui tọt vào trong cổ họng. Trong đầu không nghĩ được điều gì, tôi chỉ biết mình đã bị sặc nước, hai lỗ mũi cũng trở nên cay xè khó chịu. Bỗng nhiên tôi thấy đầu đau nhói, hình như có ai đó túm tóc tôi giật mạnh lên. Chỉ một lúc sau, đầu tôi đã nhô lên khỏi mặt nước, không khí lại được lấp đầu lá phổi; tôi nhận thấy có một bàn tay đang vòng qua eo ôm thật chặt.
Tôi như từ cõi chết trở về, mệt mỏi hé mắt, một tay chị Giai Tuệ ôm chặt lấy tôi, tay còn lại đang sải rộng cố bơi theo dòng nước.
Tôi bám chặt tay chị, mừng rỡ khóc òa lên:
- Chị… chị Giai Tuệ, chúng… chúng ta thoát ra rồi!
Tôi quay đầu nhìn xung quanh, vẫn là một vùng tối đen với từng đợt sóng đang nhẹ nhàng vỗ bờ, bầu trời bên trên xám xịt trong cơn mưa tầm tã, từng tia chớp chói lóa thỉnh thoảng rạch qua bầu trời, kèm theo những tiếng sấm ì ầm từ xa.
Đây chính là dòng Hỗn Giang thật sao, vậy mà tôi lại thấy nó rất giống với mặt biển thường thấy trên tivi. Tôi bất giác vòng tay ôm thật chặt chị Giai Tuệ.
Chị Giai Tuệ vẫn sải tay bơi, được một lúc, chị đánh mắt ra hiệu cho tôi nhìn về phía Tây, từ phía xa xa có một vật nhọn hoắt chĩa thẳng lên trời, càng nhìn càng thấy nó giống chiếc đũa bạc đang tỏa chiếu những tia sáng lóng lánh, trông rất đẹp mắt.
Chị Giai Tuệ reo lên đầy phấn khích, tay vẫn ôm chặt eo tôi:
- Lan Lan, đó là tháp truyền hình tỉnh Liêu Ninh đấy. Với khoảng cách này, có lẽ chúng ta đang ở khu Đông Lăng, đây chắc chắn là Hỗn Giang rồi, thì ra dòng sông ngầm nối liền với sông Hỗn Giang thật.
Vừa thoát cơn nguy hiểm, tôi sung sướng định reo lên thật lớn thì sực nhớ tới Lão Ngũ, tại sao lão vẫn chưa ngoi lên, không lẽ đã bị nhấn chìm rồi sao? Nghĩ tới đó, lòng tôi bỗng đau tê tái, nước mắt chực trào ra.
Thấy tôi hỏi về Lão Ngũ, chị Giai Tuệ cũng lắc đầu buồn bã.
- Chị không biết, nhưng Lão Ngũ bơi rất giỏi, chắc sẽ không xảy ra chuyện gì đâu.
Chị Giai Tuệ chưa nói dứt lời thì bất chợt từ dưới mặt nước bỗng nhô lên một mái đầu bạc trắng, ướt sũng, cùng một giọng nói hết sức quen thuộc vọng tới:
- Mẹ kiếp, hay… hay đấy, cuối cùng thì… cũng ngoi lên được. Mẹ kiếp!
Thấy Lão Ngũ cũng bình an vô sự, tôi và chị Giai Tuệ vội vàng bơi tới ôm chầm lấy lão. Lão Ngũ cười sảng khoái:
- Lão già này đúng là có số đào hoa, tự nhiên lại được hai đứa con gái chủ động đến ôm cơ đấy.
Sau khi xác định được phương hướng, Lão Ngũ và chị Giai Tuệ cố gắng kéo theo tôi vượt sông, bám vào hàng rào ngăn cách leo lên bờ.
Phần ba: Thanh Nham Thánh Cảnh
Lão Ngũ bước lên lớp tuyết. tiến tới dưới gốc cây thông, thoắt một cái đã trèo lên cây, đưa tay ngắt một nắm lá thông vẫn bám đầy tuyết trắng. Nắm chặt nắm lá trong tay, lão từ từ bước tới mép vách đá, nheo mắt ngẩng lên nhìn ánh trăng, cánh tay phải vung mạnh, những chiếc lá thông nhọn hoắt như chiếc kim bay thẳng lên trời, tạo thành những đường sọc đen in hình xuống nền đất, rồi nhanh chóng bị cơn gió cuốn đi. Cùng lúc, đám người đứng bên dưới kia mới bắt đầu động đậy, ai ai cũng vươn dài cổ, mắt mở to, nhìn chằm chằm vào đám lá thông, luôn miệng lẩm bẩm gì đó.
Bí ẩn đĩa sứ Mặc Văn đường
Ngày hôm đó mưa quả thực rất lớn, sấm chớp liên tục xé ngang bầu trời, nước mưa làm ngập hết đường, chúng tôi đứng đó khá lâu mà không thấy một bóng xe đi qua, đành dìu nhau lội mưa một đoạn khá dài. Vừa nhìn thấy đồn cảnh sát địa phương vùng Đông Lăng, chị Giai Tuệ liền kéo chúng tôi đi thật nhanh về phía trước.
Mấy anh cảnh sát trực ban trợn tròn mắt khi nhìn thấy bộ dạng ướt sũng, rũ rượi đến thảm hại của chúng tôi, đặc biệt là Lão Ngũ, vì trên người lão hiện giờ chỉ còn duy nhất chiếc quần đùi còn sót lại. Đợi sau khi chị Giai Tuệ trình bày rõ lai lịch xong, họ mới vội vã đi tìm quần áo cho chúng tôi thay và nấu cho mỗi người một tô mì nóng hổi. Chị Giai Tuệ vừa ăn mì vừa bấm điện thoại gọi điện cho Trưởng phòng Tư.
Chỉ khoảng hai mươi phút sau, Trưởng phòng Tư và Trần Đường đã có mặt. Vừa thấy chúng tôi, cả hai mừng rỡ lao tới ôm chầm lấy. Trưởng phòng Tư ôm chặt tôi vào lòng một lúc lâu, rồi quay sang cảm ơn Lão Ngũ rối rít, ông cũng không quên thông báo bên quản lí trại giam đã đồng ý xóa án cho lão sớm hơn quy định. Lão Ngũ cười khoái trá, sung sướng thốt lên rằng chuyến đi lần này coi như lãi to.
Biết tôi vẫn chưa tìm thấy ông nội, Trưởng phòng Tư thở dài, an ủi tôi đừng lo nghĩ nhiều, nói không chừng ông nội tôi cũng đã thoát được ra ngoài. Sau đó, Trưởng phòng Tư đưa chúng tôi về cùng. Suốt chặng đường đi, chúng tôi vừa thăm hỏi vừa báo cáo sơ qua tình hình.
Lần này, Trưởng phòng Tư và Trần Đường đi một chiếc ôtô bình thường tới đây, và cũng không có đội cảnh sát bảo vệ đi kèm. Trần Đường nói rằng rút kinh nghiệm từ lần trước, không nên phô trương mà càng ít người biết càng tốt.
Chiếc xe không quay về Cục Cảnh sát mà tiếp tục đi về hướng ngoại ô và dừng lại ở một khu biệt thự liền kề. Trần Đường đưa chúng tôi vào một ngôi biệt thự hai tầng nhỏ nhắn, đầy đủ nội thất nhưng vẫn nồng mùi sơn sửa. Trần Đường nói rằng đây là ngôi nhà mới tu sửa nhưng chưa có ai ở của một người họ hàng, nên anh mượn để chúng tôi ở tạm vài ngày, ở đây an toàn tuyệt đối lại rất yên tĩnh thoải mái.
Khi tôi tắm gội xong đi ra thì đã nhìn thấy Tôn Ngọc Dương và La Hoán Văn ngồi ngay trong phòng khách. Tôn Ngọc Dương đứng dậy mừng rỡ ôm lấy tôi, miệng liên tục cảm ơn trời đất đã phù hộ, nếu như cả tôi cũng mất tích nữa thì Kiện môn coi như không còn người nối dõi.
Sau một hồi hỏi thăm nhau, Trưởng phòng Tư mời mọi người ngồi xuống, để chúng tôi kể lại chi tiết chuyến thám hiểm dưới địa cung vừa rồi. Thực ra, mọi việc chủ yếu là do chị Giai Tuệ tường thuật lại, tôi và Lão Ngũ chỉ bổ sung thêm một vài chi tiết liên quan đến chuyên môn. Khi nghe đến đoạn phía dưới khóa tường Song Long là cả một không gian vô cùng rộng lớn với rất nhiều tầng khóa khác biệt, mà mỗi tầng khóa lại ẩn chứa vô số điều thần bí; tất cả mọi người đều cảm thấy kinh ngạc tột độ và thắc mắc không hiểu hoàng đế Nỗ Nhĩ Cáp Xích xây dựng địa cung với mục đích gì?
Cuối cùng, mọi ánh mắt đều dồn vào chiếc khay sứ Thanh Hoa, một vật mà ngay từ cách xuất hiện của nó đã khiến cho tất cả mọi người cảm thấy kì quặc, không thể giải thích nổi. Trưởng phòng Tư thở dài, buông một câu tự thán:
- Đây rõ ràng là lịch sử đang thử thách chúng ta.
La Hoán Văn trầm tư cầm chiếc khay sứ lên soi xét rất lâu, rồi chậm rãi lên tiếng:
- Hay thật! Một chiếc khay sơn thủy bằng sứ Thanh Hoa tuyệt mĩ, tôi có thể chắc chắn một điều rằng đây là một bảo vật thời Khang Hy, được nung tại trấn Cảnh Đức tỉnh Giang Tây. - Nói rồi ông lật phần đế lên và nhìn chằm chằm vào dòng chữ khắc bên dưới, rất nhiều sắc thái biểu cảm lẫn lộn trên gương mặt ông.
Trưởng phòng Tư gặng hỏi ông phải chăng dòng chữ khắc đó có vấn đề gì? Ông suy nghĩ một hồi rồi từ từ giải thích với chúng tôi. Nghệ thuật khắc chữ gốm sứ của Trung Quốc bắt đầu xuất hiện từ thời nhà Tống, nhưng lúc đó còn rất sơ khai, phải cho tới thời nhà Minh thì nghệ thuật này mới thực sự phát triển. Nhưng bấy giờ cũng mới chỉ dùng các loại chữ “Tạo năm x x” hay “Đường tạo năm x x”, chứ rất hiếm khi khắc chữ “Chế”. Đến thời nhà Thanh, do chữ “Tạo” và chữ “Triệu” đều là chữ phạm húy, nên người ta chỉ dùng chữ “Chế” để khắc chữ chứ tuyệt đối không dùng chữ “Tạo”. Nhưng chiếc khay này tại sao lại phạm sai lầm lớn như thế?
Tôn Ngọc Dương tò mò hỏi lại tại sao chữ “Chế” lại phạm húy.
La Hoán Văn lắc lắc đầu, đưa mắt nhìn khắp lượt chúng tôi, giọng nói bỗng nhiên trầm hẳn xuống:
- Nỗ Nhĩ Cáp Xích!
Trong số những người ngồi ở đây, tôi là người có học vấn thấp nhất, thế nhưng cũng thực sự sững sờ trước câu trả lời vừa rồi của La Hoán Văn. Đơn giản là vì tôi biết rằng, ngay cả khi chưa cần xem xét đến vấn đề chiếc khay sứ Thanh Hoa này ra đời vào khoảng thời gian nào, thì việc Nỗ Nhĩ Cáp Xích xây dựng địa cung để cất giấu vật được cho là đã phạm húy của mình cũng thật là quá sức tưởng tượng.
Tôn Ngọc Dương cũng ngẩn người ra một lúc lâu, dường như anh vẫn chưa hoàn toàn tin vào lời giải thích của La Hoán Văn nên đã dùng điện thoại lên mạng tìm kiến thông tin, và nhận được lời giải đáp rằng: “Miếu hiệu của Nỗ Nhĩ Cáp Xích là Thái tổ, thụy hiệu là Võ hoàng đế, sau đổi thành Cao hoàng đế, niên hiệu Thiên Mệnh. Tên đầy đủ của ông là Thừa Thiên Quảng Vận Thần Công Thánh Đức Triệu Kỷ Lập Cực Nhân Hiếu Duật Võ Đoan Nghị Khâm An Hoằng Văn Định Nghiệp Cao hoàng đế”. Quả nhiên là có chữ “Triệu”, xem ra chiếc khay sứ này đúng là một câu hỏi lớn.
Mọi người đều cảm thấy hết sức khó hiểu, ai cũng đưa ra ý kiến của riêng mình, đặt ra đủ mọi giả thuyết nhưng cuối cùng vẫn không đưa ra được một kết luận thống nhất, thậm chí càng thảo luận càng phát hiện ra nhiều điều kì bí. Cánh cửa Thất Xảo Thiên Tập được bảo tồn nguyên vẹn, tầng khóa cuối cùng là chiếc khóa tuyệt môn lục bát thuật cũng không thể mở lần thứ hai, vậy mà bên trong đó lại xuất hiện chiếc khay sứ Thanh Hoa thời Khang Hy, điều đó chỉ có thể giải thích được rằng. Chiếc khay này có phép biến hóa thần thông quảng đại.
Chúng tôi say sưa tranh luận và bàn tán mãi cho đến quá nửa đêm, nên Trưởng phòng Tư đã phân công Tôn Ngọc Dương ở lại để bảo vệ sự an toàn của tôi và Lão Ngũ; còn ông, chị Giai Tuệ cùng những người kia phải trở về thành phố báo cáo với cấp trên, đồng thời cũng phải đưa chiếc khay sứ đi kiểm nghiệm kỹ thuật nung.
Trước khi Trưởng phòng Tư rời đi, tôi còn giao luôn những bảo bối thu được trong suốt chặng đường thám hiểm cho ông, từ viên đá m Sơn Hải Lan, cát bay, Tinh ngọc Hòa Điền cho đến mảnh kim loại hình tam giác khắc chữ Hận.
Lão Ngũ lập tức tỏ thái độ, lão ca cẩm chuyến đi này coi như trắng tay, bao nhiêu bảo bối đều phải sung công hết.
Trưởng phòng Tư hiểu ý lão liền mỉm cười trấn an:
- Tiền bối à, đợi khi chúng tôi kiểm tra xong, tất cả những bảo bối này tặng lại hết cho ông.
Nghe nói vậy, Lão Ngũ liền thay đổi thái độ, cười hí hửng và luôn miệng lầm bầm “hay đấy, hay đấy!”
Sau khi mọi người ra về, tôi và Lão Ngũ lập tức lên giường đánh một giấc thật say sưa. Tôi ngủ li bì cho tới tận tối hôm sau, khi Tôn Ngọc Dương gọi dậy ăn cơm. Sau khi nghỉ ngơi thoải mái, ăn uống no nê, tôi mới cảm thấy mình đã hoàn toàn được giải thoát khỏi những căng thẳng mệt mỏi cả về thể xác lẫn tinh thần.
Chúng tôi ở trong ngôi biệt thự đó bốn ngày, thì cả bốn ngày đó không thấy Trưởng phòng Tư hay chị Giai Tuệ liên lạc gì, nên cũng không biết họ đã báo cáo tình hình đến đâu, và đã tìm ra manh mối về nguồn gốc chiếc khay sứ kia chưa?
Tôn Ngọc Dương ở lại căn biệt thự để giữ an toàn cho chúng tôi, không cho chúng tôi bước chân ra ngoài dù chỉ một phút.
Mặc dù ngày nào cũng được ăn ngon và nghỉ ngơi thoải mái, nhưng tôi vẫn luôn cảm thấy trong lòng bất an. Hiện tại vẫn chưa biết ông nội sống chết ra sao, tôi còn lòng dạ nào mà ngồi chờ ở đây được.
Thấy tôi suốt ngày lo lắng cho ông nội, Lão Ngũ cùng thở dài và nói với giọng pha chút tủi thân:
- Lão Sở thật là có phúc, có cô cháu gái chăm sóc tuổi già. Còn lão già này cả đời coi như chẳng có gì, đến khi chết đi, ngay cả người đào mộ cũng chẳng có.
Đây là lần đầu tiên Lão Ngũ buồn rầu như thế, tôi cảm thấy tình cảnh lão thật đáng thương, tuổi già sức yếu mà chẳng có đến một mụn con cháu chăm sóc, sau này một mình lão sẽ sống như thế nào. Tôi lập tức nắm lấy bàn tay gầy guộc của lão, tỉ tê:
- Lão Ngũ à, lão đừng buồn nữa, không phải là còn có cháu nữa sao. Đợi khi nào tìm được ông nội, cháu sẽ chăm sóc cả hai người.
Ánh mắt của Lão Ngũ bỗng long lanh trìu mến, tôi biết rằng lão đang rất xúc động, còn đưa tay vuốt lên mái tóc tôi, luôn miệng nói:
- Con tiểu a đầu này, ngoan lắm, ngoan lắm! - Thần sắc và cử chỉ ân cần của lão làm tôi nhớ đến ông nội, sống mũi cay cay và nỗi buồn trong lòng lại dâng lên tê tái.
Sang ngày thứ năm, lúc hơn mười giờ tối, chị Giai Tuệ bỗng tới chỗ chúng tôi với vẻ rất vội vã. Tôi vui sướng lao tới ôm chầm lấy chị và không quên hỏi kết quả kiểm định chiếc khay sứ thế nào, đến khi nào tôi mới được tiếp tục đi tìm ông nội?
Vẻ mặt của chị Giai Tuệ vẫn bình thản như mọi khi, chỉ nói rằng chúng tôi chuẩn bị trở về Cục Cảnh sát với chị ngay bây giờ, kết quả kiểm nghiệm hết sức có giá trị. Máu tò mò nổi lên, lập tức tôi và Lão Ngũ thu dọn đồ đạc rồi cùng chị Giai Tuệ và Tôn Ngọc Dương lái xe quay về trụ sở Cảnh sát.
Vì đang là đêm khuya nên cánh cổng chính của Cục Cảnh sát đóng im lìm, đèn cũng không bật, sự yên tĩnh và không gian tối đen ấy thật dễ khiến người ta lạnh người. Chúng tôi đỗ xe ở bên ngoài, rồi đi vào cánh cổng phụ bên cạnh, sau đó lên cầu thang tiến thẳng đến tầng năm. Trưởng phòng Tư đang đứng ngay cửa ra vào phòng làm việc, chắc ông đang đợi chúng tôi.
Sau khi vào phòng, tôi thấy Trần Đường và La Hoán Văn đã có mặt ở đó với dáng vẻ cũng hào hứng không kém, trên mặt bàn phía trước mặt họ chồng chất rất nhiều tập tài liệu và hơn chục bức ảnh. Tôi liếc qua, thì ra đó là những bức ảnh chụp cái xác khô dưới địa cung và một lưỡi dao dài và nhỏ, tất cả chúng đều do chị Giai Tuệ cẩn thận chụp lại.
Trưởng phòng Tư đứng dậy đóng cánh cửa, rồi quay lại đứng trước mặt tôi và Lão Ngũ, nhẹ nhàng lên tiếng:
- Hắc tiền bối, Lan Lan, mấy ngày vừa rồi hai người đã đỡ mệt chưa? Hôm nay tôi mời hai người tới đây, một là để thông báo kết quả kiểm định chiếc khay sứ, hai là mong rằng sẽ nhận được sự giúp đỡ của hai người thêm lần nữa.
Vừa nghe thấy vậy, Lão Ngũ lập tức co chân vào, rồi nói với vẻ không được nhiệt tình cho lắm:
- Ta đã nói là không nên tin lời của đám quan chức rồi mà, lúc nào cũng vòng vo nhiễu sự, có phải cho dù ta có đồng ý hay không thì vẫn phải tiếp tục thực hiện điều đó không?
Tôi cảm thấy hơi khó hiểu. Chẳng lẽ mọi việc vẫn chưa chấm dứt? Bảo bối cũng đã lấy về rồi, giờ còn muốn chúng tôi giúp gì nữa đây? Tôi sốt ruột hỏi lại:
- Nếu như cháu không đồng ý, thì có phải mọi người sẽ không giúp cháu tìm ông nội, và cũng… cũng không cho cháu làm… làm cảnh sát nữa đúng không?
Trưởng phòng Tư mỉm cười, nói:
- Hắc tiền bối hiểu lầm ý chúng tôi rồi. Lan Lan, cháu hãy bình tĩnh. Tôi chỉ đang kêu gọi sự giúp đỡ của hai người chứ không phải là ra mệnh lệnh. Nếu như hai người nghe xong mà vẫn quyết định không tiếp tục tham gia thì có thể rời đi bất cứ lúc nào, phía cảnh sát chúng tôi nhất định sẽ thu xếp ổn thỏa cuộc sống của hai người sau này. Còn Lan Lan, ta đã hứa với Sở thúc là sẽ nhận cháu vào Cục Cảnh sát tỉnh Thẩm Dương rồi, cháu là trường hợp đặc biệt nên sẽ được đặc cách vào thẳng, chính thức trở thành đồng nghiệp của những người đang ngồi đây.
Tôi và Lão Ngũ quay sang nhìn nhau, thực sự điều này cũng không tệ lắm, thế nên đã ngồi lại để nghe họ nói rốt cuộc chuyện gì đã xảy ra.
Thì ra ngay sau khi rời khỏi ngôi biệt thư, Trưởng phòng Tư và chị Giai Tuệ lập tức chuyển chiếc khay sứ tới phòng thí nghiệm để kiểm tra niên đại của nó, đồng thời triệu tập cả những chuyên gia cổ vật có tiếng tăm đến để thảo luận. Tất cả các chuyên gia đều thống nhất khẳng định rằng đây chính là cổ vật được nung tại trấn Cảnh Đức từ những năm đầu thời Khang Hy. Thế nhưng, về dòng chữ khắc “Mặc Văn đường tạo” thì họ cũng không thể tìm ra lời giải thích phù hợp, duy chỉ có một vị chuyên gia lập luận khá hợp lý. Đó là mặc dù nhà Thanh đã lập triều được một thời gian khá lâu, nhưng thời đó những băng đảng giang hồ hay đa phần người dân vẫn ủng hộ triều Minh, luôn mang trong lòng ý niệm phản Thanh phục Minh, nên rất có thể mấy chữ “Mặc Văn đường” đó là tên của một băng đảng nào đấy, và họ cố tình dùng chữ “Tạo” với mục đích mà ai cũng biết đó là gì.
Ngoài ra, Cố Cung Thẩm Dương bắt đầu xây dựng vào năm 1625, hoàn thành vào năm 1636, trong khi đó hoàng đế Nỗ Nhĩ Cáp Xích lại mất vào năm 1626. Mặc dù có thể nói rằng ý tưởng xây dựng Cố Cung là của ông, nhưng phần lớn công việc xây dựng lại do người con thứ tám là Hoàng Thái Cực hoàn thành. Cho nên, có thể nói chiếc khay sứ này không phải do Nỗ Nhĩ Cáp Xích đặt vào, mà chính là do Hoàng Thái Cực.
Mặc dù tôi rất dốt môn lịch sử nhưng vẫn cảm thấy có gì đó không ổn lắm. Chị Giai Tuệ nói rằng, giữa Nỗ Nhĩ Cáp Xích và Khang Hy là Hoàng Thái Cực và Thuận Trị, nếu không phải do Nỗ Nhĩ Cáp Xích làm, thì khoảng thời gian cách nhau quá xa.
Trưởng phòng Tư mỉm cười và quay sang hỏi tôi có còn nhớ sợi dây da lừa trên cổ xác khô và đoạn kênh Thiết Trân dưới lòng động không? Ông đưa ra giả thuyết cũng có thể lúc bấy giờ Hoàng Thái Cực đã dùng loại khóa tuyệt môn lục bát thuật để cất giấu báu vật. Nhưng đến thời vua Khang Vy, đã có một cao thủ của Kiện môn xuống dưới đó, dùng chiếc khay sứ này để đánh tráo với bảo bối kia. Trong giới Kiện môn có lưu truyền thuật Thiên giới với sức mạnh vô cùng thần kì, nên có lẽ chiếc khóa tuyệt môn kia đã bị thuần phục.
Nghe những giả thuyết đó, tôi lập tức đứng dậy phản pháo:
- Chú Tư, có phải chú đang nghi ngờ người phái Kiện môn chúng cháu phạm tội giết người không? - Vừa dứt lời, tôi mới sực nhớ ra, phái Kiện môn và Đạo môn cũng đã từng có giai đoạn tranh giành chém giết lẫn nhau, xem ra không phải không có người xấu. Nghĩ vậy, tôi cố kìm lòng và từ từ xuôi theo những lời phân tích của Trưởng phòng Tư.
Lão Ngũ đang vân vê mấy sợi râu thưa dưới cằm, đột nhiên cất tiếng:
- Mẹ kiếp, vậy là ta đoán không sai mà, chắc chắn là có đứa đến nẫng tay trên bảo vật trước ta rồi. Vậy đã điều tra ra tên đó là ai chưa?
Tôi cũng rất muốn biết tên ăn trộm kia rốt cuộc là ai, có phải khi đó hắn đã bị đồng bọn giết hại rồi cướp mất bảo vật không, chẳng trách trên vách hang lại có nhiều vết dao như vậy.
Trưởng phòng Tư không nói gì mà chỉ rút một tập tài liệu trên bàn rồi đẩy tới. Tôi nhìn thấy tiêu đề của tập tài liệu là: Kết luận pháp y liên quan đến mẫu da người và mẫu tóc lấy từ địa cung dưới lòng Cố Cung Thẩm Dương, mép tài liệu còn in dấu đỏ “Tuyệt mật”. Tôi cầm lấy, tiện tay giở qua vài trang, bên trong toàn là những thuật ngữ chuyên môn mà tôi không thể hiểu nổi.
Chị Giai Tuệ ngồi bên cạnh thấy vậy liền giải thích kĩ càng hơn cho tôi. Cái xác khô mà chúng tôi nhìn thấy tại hiện trường, cổ họng đã bị xiết đứt, chứng tỏ người đó đã bị sợi dây da lừa thít chặt cho đến chết; hơn nữa, trên cơ thể lại không có vết thương nào khác, nên nguyên nhân gây tử vong không có gì phải đắn đo nữa. Dựa vào những kết quả phân tích pháp y về mẫu da và tóc thì thời gian người này chết trong khoảng từ ba trăm hai mươi năm đến ba trăm ba mươi năm về trước, vừa đúng với thời gian vua Khang Hy đăng cơ lên ngôi và ra thông báo bị mất bảo vật. Đồng thời, qua khám nghiệm xương rút ra kết luận, người này bị giết chết khi mới bốn mươi mốt tuổi. Thậm chí rốt cuộc người này là ai, ta cũng có thể tìm ra.
Nói đến đây, chị Giai Tuệ quay sang nhìn La Hoán Văn. La Hoán Văn gật đầu, đứng dậy cầm bức ảnh chụp cái xác khô, rồi chỉ cho chúng tôi thấy những con rồng nhỏ màu vàng được thêu trên cổ áo.
Tôi nhìn ngắm một lúc lâu vẫn không phát hiện ra những con rồng đó có gì khác lạ, nhưng Lão Ngũ ngồi bên cạnh đã lập tức thốt lên:
- Kim Long ngũ chỉ! Là rồng năm ngón sao? Mẹ kiếp, lúc đó không kịp để ý, cái này mới đúng là… hay đấy, hay đấy!
La Hoán Văn mỉm cười đồng tình:
- Con mắt của Hắc tiền bối thật là tinh tường, đây chính là rồng năm ngón.
Tôi vội vàng nhìn lại kĩ hơn, những con rồng đó đúng là có năm ngón chân, bốn ngón ở phía trước và một ngón ở phía sau, thế nhưng tôi không rõ những ngón chân này thì nói lên điều gì?
La Hoán Văn tận tình giải thích cho tôi biết, rồng Trung Quốc đầu tiên không phải là năm ngón, mà là từ ba ngón, bốn ngón phát triển thành. Từ triều đại nhà Nguyên, chỉ có người trong hoàng thất mới được sử dụng hình tượng rồng năm ngón, đến các vương tôn cũng chỉ được dùng hình tượng rồng ba ngón hoặc bốn ngón mà thôi. Những con rồng năm ngón thêu trên cổ áo chứng tỏ rằng người này thuộc hoàng tộc Mãn Thanh. Đặc biệt túm tóc phía sau tết theo kiểu đuôi chuột dài, đó là một kiểu tóc đặc trưng của thời tiền Thanh; đến tận thời hậu Thanh mới dần dần biến đổi thành kiểu đầu âm dương mà ta vẫn thường nhìn thấy trên tivi, tức là cạo trọc nửa đầu trước và phần tóc ở nửa đầu sau tết thành bím dài.
Càng nghe tôi càng cảm thấy những bí mật này thật thú vị. Xem ra cái xác khô này đúng là hoàng thân quốc thích thật, thế nhưng người này xuống dưới địa cung làm gì, để rồi bị một cao thủ Kiện môn thít cổ chết?
Chương 27:
La Hoán Văn lại lấy ra hai tấm hình khác, lần lượt mang hình ảnh hai con dao nhỏ và dài; trong đó một con dao nằm cạnh xác khô, con còn lại đặt trên nền vải nhung đỏ trong tủ kính.
La Hoán Văn nói với chúng tôi rằng: Con dao thứ hai đang cất giữ tại viện bảo tàng Cố Cung Thẩm Dương, đó là vật bất li thân của Thái Tông Hoàng Thái Cực, hiện nay nó là cổ vật cấp một của quốc gia; lưỡi dao thứ nhất chụp nằm cạnh cái xác có hình dạng y hệt như thế, và chắc chắn cũng là lưỡi dao của người trong hoàng tộc. Ông tiếp tục lấy ra một bức ảnh khác chụp viên Tinh ngọc Hòa Điền màu vàng và tiếp tục giảng giải:
- Trên người xác khô có đeo một miếng ngọc màu vàng, màu vàng là màu của hoàng gia, hơn nữa lại là loại ngọc Tịnh cực kì quý hiếm, những người bình thường trong hoàng thân quốc thích cũng không được phép dùng nó, thế nên người này rất có thể chính là: Hoàng đế!
Nghe tới đây, tôi bỗng rùng mình, cảm thấy thực sự hoảng hốt. Trời ạ! Hoàng đế ư? Điều này thật quá sức tưởng tượng! Lẽ nào xác chết đó lại chính là vua Khang Hy, người đã mang chiếc khay sứ Thanh Hoa xuống dưới địa cung, rồi bị một cao thủ Kiện môn giết hại?
Nghe thấy những thắc mắc ngây ngô của tôi, La Hoán Văn và mọi người đều phì cười, chị Giai Tuệ cầm tay tôi, ân cần nói:

- Lan Lan, người đó chắc chắn không phải là Khang Hy đâu, mọi người đều đoán người đó chính là phụ thân của Khang Hy, hoàng đế Thuận Trị.
Chị còn nói, dựa vào ghi chép của sử sách để lại, hoàng đế Thuận Trị sinh năm 1638, đến năm hai mươi ba tuổi thì bị mắc bệnh truyền nhiễm nên đã qua đời vào đúng năm 1661. Lịch sử đã ghi lại rất nhiều giả định về cái chết kì bí của vị hoàng đế này, trong đó có một giả thuyết cho rằng do ái phi Đồng Ngạc lâm bệnh và qua đời, Thuận Trị quá đau buồn nên đã xuất gia đi tu, từ đó không thấy tin tức gì.
Tôi bỗng dưng nhớ đến bộ phim Lộc đỉnh ký đã từng xem, hình như trong phim cũng giải thích như vậy, tôi nhanh miệng thốt lên:
- Cháu biết rồi, hoàng đế Thuận Trị thực ra không phải bỏ đi, mà là xuống địa cung, rồi bị người khác hãm hại.
La Hoán Văn và mọi người đều khẽ gật đầu, chỉ có chị Giai Tuệ lên tiếng xác nhận:
- Cũng gần như vậy.
Lão Ngũ im thin thít từ đầu đến giờ bỗng phì một tiếng.
- Mẹ kiếp! Làm gì có chuyện phi lý thế! Thuận Trị không chết, cũng không bỏ đi, mà lại bị một cao thủ siết cổ. Có chết ta cũng không tin.
Chị Giai Tuệ liền mỉm cười, đáp:
- Lão Ngũ, ban đầu mọi người cũng không tin, thế nhưng tất cả chứng cớ đã rõ ràng, người này chỉ có thể là hoàng đế Thuận Trị. - Vừa nói chị vừa chỉ vào những kết luận pháp y. - Thời gian hình thành xác khô cách đây khoảng ba trăm hai mươi đến ba trăm ba mươi năm, đúng vào năm 1675 đến 1685, và khi chết người này ở độ tuổi bốn mươi mốt. Còn hoàng đế Thuận Trị sinh vào năm 1638, mất năm 1661, vậy là ông qua đời vào năm hai mươi ba tuổi. Theo như giả thiết ông không mất, mà còn sống thêm mười tám năm nữa, tức là vào năm 1679, điều này hoàn toàn ăn khớp với độ tuổi của cái xác. Lão thử nghĩ xem, từ dáng vẻ tới trang phục của người này hẳn phải là hoàng đế, nhưng lại không phải Khang Hy, vậy ngoài Thuận Trị thì còn có thể là ai khác?

Mặc dù những con số chị Giai Tuệ nói đến quá nhiều khiến tôi lâm vào trạng thái mơ mơ hồ hồ, nhưng nghĩ kĩ thì tôi thấy cũng khá chính xác, xem ra xác chết đó chính là hoàng đế Thuận Trị thật. Nghĩ đến việc từng tiếp cận xác hoàng đế, rồi chính tay mình còn động vào đó, tôi có một cảm giác lâng lâng khó tả, nếu như kể chuyện này với người khác, chắc họ sẽ nghĩ tôi bị thần kinh mất.
Lão Ngũ vẫn ngồi cạnh tôi, miệng lẩm nhẩm tính toán với vẻ mặt hết sức khó hiểu, cuối cùng lão cũng thốt lên:
- Mẹ kiếp, không ngờ mình còn được đá hoàng đế một cái, chuyện này… hay đấy, hay đấy! - Xem ra, cuối cùng lão cũng đã bị thuyết phục bởi điều này.
Thấy mọi người có vẻ không hiểu ý câu nói vừa rồi của Lão Ngũ, nên chị Giai Tuệ kể lại việc Lão Ngũ giơ chân đá cái xác khô để mọi người cùng nghe, sau khi đã vỡ lẽ tất cả đều cười vang, khiến bầu không khí nhẹ nhõm đi rất nhiều.
Lão Ngũ vẫn không ngừng lầm bầm:
- Mẹ nó chứ, đá lên thi thể nhà vua, nếu chuyện này lộ ra ngoài thì ta sẽ nổi danh khắp thiên hạ.
Đợi cho mọi người cười nói xong, La Hoán Văn mới tiếp tục câu chuyện:
- Đó không chỉ là một phát hiện quan trọng đâu, nó thậm chí còn khiến ta phải sửa lại lịch sử, và thêm một điểm đáng giá nữa, nó chính là lời giải đáp cho những nghiên cứu đang bị bỏ dở.
Nói rồi, ông cúi xuống mở chiếc hộp da đang để dưới chân, từ từ nhấc mảnh sắt hành tam giác của cánh cửa Thất Xảo Thiên Tập ra, nhẹ nhàng đặt lên mặt bàn rồi chỉ vào chữ “Hận” màu xanh.
- Khi nghe Giai Tuệ nói, mọi người đã mở được cánh cửa Thất Xảo Thiên Tập với bảy chữ “Hận” trên mỗi mảnh, tôi đã thầm đoán rằng, liệu đây có phải là bảy nỗi uất hận của Nỗ Nhĩ Cáp Xích?
Nghe đến điều này, thói tò mò của tôi thực sự đã bị kích thích, lập tức lên tiếng hỏi bảy nỗi uất hận đó là gì?
La Hoán Văn chậm rãi giải thích:
- Năm 1618, Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã chính thức tuyên bố chiêu binh lật đổ nhà Minh. Bảy nỗi uất hận của ông ta chính là bảy lần nhà Minh thẳng tay đàn áp bộ tộc Kiến Châu Nữ Chân. Mặc dù điều này đều là sự thật nhưng những học giả sau này đều cho rằng đó thực ra chỉ là cái cớ để khởi binh, vì sợ rằng sau này không có chứng cớ gì. Sau đó, quân của Nỗ Nhĩ Cáp Xích liên tục thắng trận và dời đô tới Liêu Ninh vào năm 1621, tiếp đó ông ta mang quân đánh chiếm vùng Quảng Ninh thuộc phía Tây tỉnh Liêu Ninh, ngày nay gọi là thành phố Bắc Chân trực thuộc tỉnh Cẩm Châu. Nỗ Nhĩ Cáp Xích lấy Bắc Châu làm bàn đạp, định tiếp tục tiến quân vào sâu bên trong, nhưng ông đã gặp đúng đối thủ khét tiếng là Viên Sùng Hoan, nên đành phải dừng quân tại Bắc Chân mà không mở thêm được phần đất nào mới. Thời gian tại Bắc Chân, Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã làm được một việc rất trọng đại, đó là quyết định dời đô tới Thẩm Dương, lịch sử cũng ghi nhận đã có một sự thay đổi vô cùng lớn trong giai đoạn này.
Ngay sau khi dời đô đến Thẩm Dương, Nỗ Nhĩ Cáp Xích đã lên kế hoạch xây dựng Cố Cung. Nhưng có một điều bất ngờ xảy ra, khi ông ta cho triệu họp các trung thần và đưa ra quyết định dời đô đến Thịnh Kinh (ngày nay là Thẩm Dương), rất nhiều thân vương và triều thần đã kịch liệt phản đối nhưng Nỗ Nhĩ Cáp Xích vẫn quyết giữ ý kiến của mình. Về lý do Nỗ Nhĩ Cáp Xích dời đô tới Thẩm Dương, lịch sử đều ghi chép lại rằng: “Nỗ Nhĩ Cáp Xích đặc biết tin vào phong thủy. Thẩm Dương nằm bên bờ sông Hỗn Giang, thông với sông Liêu Hà, Liêu Hà chảy thẳng tới biển, nên về phong thủy đây được coi là vùng đất quý; hơn nữa nhìn vào các triều đại trước khi dựng đô, đều xem phong thủy là việc đặt lên hàng đầu”.
Nỗ Nhĩ Cáp Xích đưa ra quyết định vào buổi sáng, thì đến buổi chiều đã lập tức lên kế hoạch cho việc dời đô, sau khi đến Thẩm Dương, ông liền bắt tay vào việc xây dựng Cố Cung. Mọi việc diễn ra hết sức cấp bách nên khiến càng trở nên khó hiểu hơn, và điều này cho tới tận ngày nay chúng ta vẫn chưa tìm ra câu trả lời. Bây giờ chúng ta lại có một giả thuyết khác về việc Nỗ Nhĩ Cáp Xích dời đô, có lẽ Cố Cung chỉ là một bức màn che của địa cung để cất giấu một báu vật trong chiếc khóa tuyệt môn lục bát thuật phía sau cánh cửa Thất Xảo Thiên Tập. Cho dù bên trong đó rốt cuộc cất giấu thứ gì, nhưng cánh cửa Thiên Tập lẫn khóa tuyệt môn lục bát thuật đã bị mở đã chứng tỏ một điều vật đó không hề tầm thường, và có liên quan trực tiếp tới việc Nỗ Nhĩ Cáp Xích chống lại triều Minh. Nỗ Nhĩ Cáp Xích đóng đô tại Thẩm Dương đến năm thứ hai, tức là năm 1626, thì thất bại trong trận đánh với Viên Sùng Hoan, ông bị trúng đạn pháo khi đang chiến đấu, do vết thương quá nặng không thể chữa trị nên cuối cùng đã qua đời. Lúc bấy giờ đã có người khuyên Hoàng Thái Cực nên dừng việc xây Cố Cung lại, lí do là thời gian này, cuộc chiến với nhà Minh vẫn chưa chấm dứt, nếu tiếp tục xây dựng sẽ tiêu hao nhiều tiền của và sức lực binh sĩ. Nhưng Hoàng Thái Cực không đồng ý và quyết tâm hoàn thành tâm nguyện của cha. Do đó, ông đã một mặt tiếp tục cuộc chiến đấu với nhà Minh, một mặt vẫn không ngừng đẩy nhanh tiến độ xây dựng Cố Cung dang dở. Việc Hoàng Thái Cực một mực thực hiện di chúc của phụ thân càng chứng tỏ rằng vật phía dưới địa cung có mối quan hệ đặc biệt và vô cùng quan trọng tới quyền lực của triều Thanh, thậm chí còn có thể là một bí mật kinh thiên động địa.
Mặc dù, hiện nay vẫn chưa thể đoán ra, nhà vua Thuận Trị một mình đi xuống dưới Cung ngầm và bị giết hại, hay là đi cùng một đoàn người hộ tống xuống rồi mới bị giết hại. Thế nhưng khi bị giết, chắc chắn là ông đang xuống Cung ngầm để tìm hoặc cố giữ bí mật của tổ tiên mình. Vật báu thực sự đã bị tráo đổi, nhưng nếu ta tiếp tục lần theo manh mối là chiếc đĩa sứ này, dần dần cũng sẽ tìm ra…
Nói đến đây, La Hoán Văn bỗng dưng đứng dậy, mắt nhìn thẳng về phía chúng tôi, giọng run run:
- Các đồng chí, những bí mật của lịch sử đang bày ra trước mắt chúng ta. Tôi đã dành cả cuộc đời để nghiên cứu, còn may mắn trở thành giám đốc Viện bảo tàng Cố Cung, nếu như có thể giải đáp được bí mật quốc gia này, thì không chỉ có tôi… mà tất cả các bạn, đều sẽ đi vào lịch sử.
Ông thở dốc, hai tay chắp ra sau, liên tục đi qua đi lại trong phòng, rồi hướng đôi mắt như van nài về phía tôi, nhìn không chớp mắt, giống như tôi chính là hung thủ sát hại vua Thuận Trị nên đương nhiên sẽ nắm rõ tất cả những bí mật vậy.
Mặc dù tôi không hiểu biết nhiều về lịch sử, nhưng cũng vô cùng phấn khích, toàn thân nóng bừng lên. Cứ nghĩ đến việc mình có thể tìm ra bí mật quốc gia, trong lòng tôi lại trào lên một cảm giác bồi hồi thật khó tả, hay cũng có thể là sự hưng phấn của tuổi trẻ bồng bột.
Lão Ngũ cũng thở hắt ra rồi đứng lên, tuyên bố:
- Mẹ kiếp, nếu như việc này thành công thì coi như lão già này cũng mở mày mở mặt. Được! Ta sẽ theo đến cùng. Hay đấy, hay đấy, hay đấy… - Lão Ngũ liên tục nhắc đi nhắc lại câu cửa miệng đến bảy tám lần, xem ra lão cũng đang vô cùng phấn khích.
Trưởng phòng Tư, chị Giai Tuệ và La Hoán Văn rõ ràng không phải là vừa mới biết nhưng vẫn hết sức phấn chấn, Tôn Ngọc Dương cũng nắm chặt tay tôi, mặt mũi đỏ bừng. Mọi người đều dồn ánh mắt vào tôi, như thể chỉ chờ cái gật đầu của tôi nữa thôi.
Tôi cũng không suy nghĩ gì thêm, đứng bật dậy, rành rọt nói:
- Cháu… đồng ý! Cháu là một đoàn viên, lại rất muốn trở thành cảnh sát, cháu nhất định sẽ cống hiến cho đất nước.
Sau này, khi nhớ lại cảnh tượng lúc bấy giờ, tôi mới thấy mình sao lại hồn nhiên ngây thơ đến thế, nhưng nếu đặt vào hoàn cảnh và bầu không khí đó, thì có lẽ ai cũng sẽ có tâm trạng giống như tôi.
Nói xong câu ngốc nghếch đó, tôi chợt nghĩ tới ông nội, liền thêm một câu nữa:
- Nhưng.. nhưng cháu còn phải tìm ông nội.
La Hoán Văn gần như không nghe thấy câu nói sau cùng, ông tiến tới nắm chặt lấy tay tôi, cảm kích nói:
- Cháu gái, cảm ơn cháu, lịch sử nhất định sẽ không quên cháu đâu.
Chị Giai Tuệ tiến tới đặt nhẹ tay lên eo tôi vỗ về, chị nói:
- Lan Lan, em yên tâm, mọi người nhất định sẽ giúp em tìm ông nội.
Mọi người vẫn tiếp tục phấn khích một lúc lâu rồi mới chịu ngồi xuống bàn, cùng nhau bàn bạc tìm bước đi tiếp theo. Mặc dù các phân tích đều đã rất hùng hồn và rõ ràng, thế nhưng bây giờ đến nguồn gốc của chiếc khay sứ cũng không tìm thấy thì biết bước tiếp như thế nào đây?
Lão Ngũ bỗng nhiên lên tiếng, thời gian còn lang bạt giang hồ lão đã cầm trên tay không ít đồ gốm sứ quý hiếm, và có quen biết với một người thợ sứ ở trấn Cảnh Đức, Giang Tây. Người này tên là Hứa Liên Tăng, nổi tiếng với những sản phảm sứ sắc sảo và có hồn, hơn nữa ông ta lại rất am hiểu gốm sứ, nếu như tìm được người này thì rất có thể sẽ có thêm nhiều phát hiện mới về chiếc khay sứ. Chỉ có điều không biết người này còn sống hay đã chết.
Trưởng phòng Tư liền nói, vấn đề này rất đơn giản, chỉ cần dùng hệ thống điều tra của cảnh sát là có thể biết ngay. Chị Giai Tuệ lập tức mở laptop đăng nhập vào mạng công an nội bộ, rồi dựa vào độ tuổi của Hứa Liên Tăng mà Lão Ngũ cung cấp, chỉ trong nháy mắt, thông tin về những người đàn ông tên là Hứa Liên Tăng hiện ra trên màn hình. Vừa mở tư liệu về người thứ nhất ra xem, Lão Ngũ đã lập tức vỗ đùi tuyên bố:
- Khỏi tìm nữa, hóa ra tên trùng thối này vẫn chưa chết.
Tôi chạy tới nhìn vào màn hình, đó là một người đàn ông khoảng bảy mươi tuổi, mái tóc bạc phơ, khuôn mặt hồng hào, lông mày rậm rì rất đạo mạo. Bức ảnh chụp lúc người này đang mỉm cười, ánh mắt như ngầm nói với chúng tôi rằng:
- Đến đi, đến đi, đến tìm ta là đúng người rồi…
Bàn bạc thêm một lúc nữa thì trời đã sắp sáng, do mọi người đang rất hào hứng nên không ai thấy mệt mỏi mà chỉ thấy đói bụng. Phía dưới chưa có hàng quán nào mở, nên chúng tôi phải lái xe tới quán KFC gần đó để ăn sáng.
Lúc đó, trong cửa hàng KFC chưa có bóng một vị khách nào, nhân viên phục vụ nhìn thấy chúng tôi một đoàn cả già lẫn trẻ cùng bước vào, cười nói tươi tỉnh, nên rất ngạc nhiên. Đặc biệt là La Hoán Văn, ông vừa đi vừa cười ầm, nên tôi đoán đám nhân viên chắc đang nghĩ chúng tôi bị thần kinh.
Sau khi ăn sáng xong, mọi người tạm biệt nhau để Tôn Ngọc Dương đưa tôi và Lão Ngũ về ngôi biệt thự. Tôi nằm trên giường, thao thức mãi không ngủ được, trong đầu chỉ chăm chăm nghĩ về bí mật kia. Tôi cũng không ngừng nghĩ về ông nội, không biết giờ này ông đang ở đâu, có phải ông cũng đã thoát được ra ngoài, nhưng tại sao lại không liên lạc với tôi? Tôi cứ mơ mơ màng màng và chìm vào giấc mơ lúc nào không hay.
Đêm hôm đó, chị Giai Tuệ lại tới đưa chúng tôi đến Cục Cảnh sát. Trưởng phòng Tư nói với chúng tôi rằng, để tránh rò rỉ thông tin ra ngoài, từ giờ trở đi công việc tìm kiếm sẽ do chị Giai Tuệ, Lão Ngũ và tôi thực hiện, Cục Cảnh sát sẽ cố gắng tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ. Do từ Thẩm Dương tới trần Cảnh Đức không có chuyến bay thẳng nên chúng tôi phải chuyển chặng ở Nam Xương. Quy định của hàng không quốc gia không cho phép mang theo súng lên máy bay nên chị Giai Tuệ đã phải liên lạc trước với công an tỉnh Giang Tây, để khi tới Nam Xương, chúng tôi sẽ nhận được sự trợ giúp kịp thời.
Sau ba ngày làm công tác chuẩn bị, sáng sớm ngày thứ tư, Trưởng phòng Tư, La Hoán Văn, Trần Đường và Tôn Ngọc Dương và một vài người khác đưa chúng tôi ra tận sân bay Đào Tiên ở Thẩm Dương, dặn dò kĩ lưỡng trước khi đưa chúng tôi vào phòng kiểm tra an ninh.
Đó là lần đầu tiên tôi được đi máy bay, nhìn những đám mây trắng muốt đang trôi lững lờ sát ngoài cửa sổ, tôi hồi hộp vô cùng, chỉ sợ bị rơi xuống đất lúc nào không biết. Lúc đầu, tôi không dám rời khỏi chỗ ngồi, nhưng chỉ một lúc sau, khi đã quen với mọi thứ tôi mới dám ngó nghiêng và khám phá mọi thứ xung quanh.
Lão Ngũ cũng tò mò không kém, lão nhìn không chớp mắt những cô tiếp viên hàng không, rồi lẩm bẩm một mình:
- Lão già này phải tu mấy kiếp mới được bay lên trời cùng các cô gái trẻ trung, xinh đẹp thế này. Hay đấy, hay đấy! - Rồi lão quay sang nhìn chị Giai Tuệ, gật gù rồi nói, - Giai Tuệ xinh đẹp như vậy, nếu làm nữ tiếp viên cũng được đấy!
Tôi tò mò chen ngang:
- Lão Ngũ, thế còn cháu?
Lão Ngũ liền lắc lắc đầu và nói:
- Mi thì thôi. Người thì lùn, mặt thì tròn phèn phẹt, trông chán chết!
Thấy tôi có vẻ không vui, chị Giai Tuệ liền vỗ vai tôi, an ủi:
- Lan Lan lớn thêm mấy tuổi nữa, chắc chắn cũng sẽ rất xinh đẹp đấy.
Nghe vậy, tôi cũng thấy vui lên phần nào.
Không đến ba tiếng sau, chúng tôi đã tới sân bay Xương Bắc của thành phố Nam Xương, sau đó bắt taxi tới Cục Cảnh sát tỉnh Giang Tây tại số 133 đường Dương Minh. Đúng như lời chị Giai Tuệ nói, cảnh sát dù ở đâu thì cũng là một, họ rất nhiệt tình, không những đưa cho chị Giai Tuệ khẩu súng ngắn và một chiếc xe Jeep, mà còn thu xếp cho chúng tôi nghỉ tại nhà khách của công an tỉnh.
Cả đêm hôm đó không ai nói với ai câu nào, cho tới ngày hôm sau, trời vừa sáng chúng tôi đã dậy trả phòng, và lái xe tới trấn Cảnh Đức.
Đây là một thành phố không lớn lắm, lần theo địa chỉ của Hứa Liên Tăng, chúng tôi nhanh chóng tới trước cổng một tứ hợp viện[1] với vẻ bề ngoài rất riêng. Vừa xuống xe, Lão Ngũ nhanh như chớp, lao thẳng tới trước cổng, gọi toáng lên:
- Trùng thối! Mau ra đây ngay!
[1] Một dạng nhà cổ của người Trung Quốc.
Chỉ một lúc sau, từ trong nhà bước ra một ông cụ tóc bạc phơ, thân hình cao to, đó đích thị là “Trùng thối” Hứa Liên Tăng mà Lão Ngũ vẫn gọi, người này vừa bước vừa lẩm bẩm:
- Đứa nào đấy? - Ngẩng đầu lên thấy Lão Ngũ, thoạt đầu ông ngớ người trong giây lát, sau đó mới nhanh chân bước tới mở cổng, miệng liến thoắng. - Mẹ mày chứ, vẫn chưa chết à? - Rồi bắn thêm một tràng dài tiếng Giang Tây khiến chúng tôi ù hết cả tai.
Lão Ngũ rảo bước tới trước, đấm nhẹ lên vai Hứa Liên Tăng một cái rồi nói:
- Mẹ cái thằng này, rủa thế chứ rủa nữa ta đây cũng không chết được đâu.
Nói rồi, hai người ôm chầm lấy nhau cười lớn, khiến bầu không khí trở nên vô cùng rôm rả.
Lúc sau, Hứa Liên Tăng quay sang giải bày với chúng tôi, thấy bên ngoài có người gọi “trùng thối”, ta biết ngay là người quen, nhưng không ngờ rằng lại là tên Hắc còi này, rồi ông hỏi Lão Ngũ tại sao lâu lắm không nghe thấy động tĩnh gì, có phải bị người ta tóm, giữ tay còng chân rồi không?
Lão Ngũ cười phá lên, cũng không giải thích gì thêm, chỉ nói rằng chuyện dài không thể một sớm một chiều kể hết được.
Vừa bước vào trong nhà, tôi đã thấy nóng bức ngột ngạt vô cùng, giống như trong một cái lò hơi, không biết vì sao lại như vậy nhưng vì phép lịch sự, tôi đành nín nhịn sự thắc mắc vào lòng. Lão Ngũ sau khi giới thiệu mọi người với nhau, thì đi thẳng vào vấn đề, thật thà nói rõ mục đích chuyến viếng thăm lần này. Nghe nói đến đồ sứ quý hiếm, Hứa Liên Tăng lập tức hào hứng hẳn lên, bắt chúng tôi phải lấy ngay chiếc khay đó ra.
Chị Giai Tuệ đặt balô xuống, cẩn thận lôi chiếc khay ra, bỏ lớp vải bọc bên ngoài rồi mới nhẹ nhàng đặt nó lên mặt bàn.
Hứa Liên Tăng vừa nhìn thấy chiếc khay đã thất vọng nói:
- Đây không phải là đồ sứ Thanh Hoa thời Khang Hy, nhưng khoan đã, hình như có điều gì đó rất kì lạ ở đây!
Sau khi cầm chiếc đĩa trong tay, sắc mặt ông lập tức thay đổi, đăm chiêu suy nghĩ rồi lại say sưa cúi xuống ngắm nhìn và mân mê bức tranh sơn thủy trong lòng đĩa. Khi nhìn thấy dòng chữ “Mặc Văn đường tạo” dưới đế, hai tay ông run run, mắt mở to, tròn xoe, gần như dán chặt vào chiếc khay, khó nhọc nuốt nước bọt, rồi mới ngẩng đầu lên, giọng nói đầy vẻ kích động:
- Tuyệt vời, hết sức hoàn hảo! Mọi người biết đây là cái gì không? Đây chính là Điệp trong Điệp. Cả đời theo nghề gốm sứ, đây là lần đầu tiên tôi được tận tay cầm một vật quý hiếm như thế này đấy! - Với lời khẳng định chắc nịch của Hứa Liên Tăng, tôi chắc chắn ông biết rất rõ nguồn gốc chiếc khay sứ này.
Quả đúng như thế, sau một hồi xoay ngang xoay dọc chiếc khay sứ để quan sát, Hứa Liên Tăng vui vẻ giải thích cho chúng tôi:
- Điệp trong Điệp chính là loại sứ lồng sứ, tức là các lớp sứ được chồng lên nhau một cách khéo léo, tinh xảo. Xuất hiện từ thời nhà Minh, để sản xuất được loại sứ này đòi hỏi một nghệ thuật rất phức tạp, yêu cầu cực kì khắt khe; hơn nữa do kỹ thuật này đã sớm bị mai một, nên những sản phẩm sứ lồng sứ còn lại đều được xem là quốc bảo hiếm có. Bản thân tôi cả đời sống với nghề gốm sứ, có thể được coi là có chút tiếng tăm trong nghề, nhưng cũng chỉ nhìn thấy tận mắt không quá ba báu vật loại này, trong đó, một cái là chiếc lọ vạn niên từ thời nhà Minh, một cái là chiếc độc bình thời Sùng Trinh, cái thứ ba là Tam thể nhân tượng thời Khang Hy.
Chưa để cho Hứa Liên Tăng nói hết, Lão Ngũ đã bực bội chen ngang:
- Mẹ kiếp, chưa già đã lẩn thẩn, toàn lảm nhảm cái gì đâu đâu, mau nói xem rốt cuộc nó là gì.
Hứa Liên Tăng cười ha hả:
- Cái lão khỉ đột này, lúc nào cũng sồn sồn lên, để ta cho các người xem một bảo bối. - Nói rồi, lão quay người, nhấc vài viên gạch đặt bên cạnh bục sưởi dưới kháng lên, thò tay vào trong rồi lấy ra một cái hộp gỗ vuông vức màu vàng đậm, to gần bằng chiếc hộp đựng giầy.
Thì ra lò sưởi vẫn đang đốt lửa, thảo nào trong phòng nóng hừng hực, ông già này giữa mùa hè mà còn đốt lò sưởi, xem ra cũng không bình thường chút nào. Thế nhưng, tôi lại nghĩ đến chiếc hộp gỗ màu đỏ mà ông nội đã trao cho tôi, hồi đó nó cũng được ông giấu bên trong chiếc kháng, xem ra tất cả những người già đều có chung một thói quen là nhét tất cả những đồ quý hiếm ở ngay dưới chỗ mình nằm. Nhắc đến chiếc hộp, tôi mới nhớ ra, với khả năng hiện tại, tôi chắc đã có thể mở được nó, đợi khi trở về tôi nhất định phải mở ra để xem ông nội cất bảo bối gì trong đó mới được.
Hứa Liên Tăng đặt chiếc hộp lên mặt bàn, rồi nhấc nắp ra, quả nhiên đó là một chiếc hộp trơn không chạm khắc hay khảm đính thứ gì, chỉ là hai mảnh gỗ úp lại với nhau. Bên trong hộp phủ một lớp vải nhung đỏ, bên trên đặt một chiếc đĩa sứ, viền ngoài màu vàng, mép đĩa hơi uốn lượn giống như một bông hoa cúc. Phía dưới đế là màu trắng, lòng đĩa vẽ bốn mĩ nhân thời cổ đại rất xinh đẹp, màu sắc sống động, từ ánh mắt đến cơ thể đều toát lên vẻ quyến rũ, giống y hệt người thật, thậm chí cô gái đứng ngoài cùng bên trái có nét mặt gần giống với chị Giai Tuệ.
Hứa Liên Tăng cẩn thận nhấc chiếc đĩa ra, rồi vừa nâng niu nó trên tay vừa kể rằng chiếc đĩa này gọi là Dương Ám Bình Phanh Hoa Khẩu Ngũ Sắc Mĩ Nữ. Cái tên vừa dài vừa khó hiểu, ngoài từ “mĩ nữ” ra, những từ khác tôi không biết nó mang ý nghĩa gì.
Chị Giai Tuệ liền tò mò hỏi lại:
- Tại sao ông lại phải cất chiếc đĩa vào trong lò sưởi ạ?
Hứa Liên Tăng lim dim mắt giải thích: Đồ sứ về bản chất là đất sét do nung qua lửa mà thành, dựa vào nguyên lí tương sinh trong ngũ hành là hỏa sinh thổ, nên tất cả những đồ sứ quý hiếm luôn phải được nuôi dưỡng trong môi trường nhiệt độ cao, như vậy mới có thể kéo dài tuổi thọ và giữ nó toàn vẹn như mới. Thậm chí đến chiếc hộp này cũng phải làm bằng gỗ tùng, vì đồ sứ quý hiếm ngày xưa thường được nung bằng loại gỗ tùng trên núi mới giữ được nhiệt cao. Tôi ngỡ ngàng lắng nghe, xem ra làm đồ sứ cũng thực sự rất cầu kì.
Chương 28:
Hứa Liên Tăng cầm chiếc đĩa Dương Ám Bình Phanh Hoa Khẩu Ngũ Sắc Mĩ Nữ trong tay, tiếp tục giải thích:
- Kỹ thuật nung gốm sứ thời nhà Thanh đã đạt tới sự phát triển vượt bậc, do kế thừa kĩ thuật tinh xảo từ thời nhà Minh, kết hợp với sự tiến bộ không ngừng nghỉ, những nghệ nhân lúc bấy giờ đã sáng tạo ra loại sứ ghép và sứ lồng. Chiếc đĩa tôi đang cầm chỉ là một ví dụ của loại sứ ghép. Đầu tiên là trải qua bốn công đoạn nung khác nhau để nung thành hình bốn cô gái, sau đó mới khéo léo vẽ màu sắc lên đó, rồi ghép lên mặt đĩa và cuối cùng nung lại một lần nữa để trở thành một tác phẩm hoàn chỉnh. Trong đó phải sử dụng thành thạo những kĩ thuật vẽ tay như âm dương, sáng tối; kĩ thuật nung gồm có bình, lập, tạp, xuyến… Vì vậy mới gọi là Dương m Bình Phanh. Bốn cô gái trong lòng đĩa chính là tứ đại mĩ nhân của Trung Quốc, từ trái qua phải lần lượt là: Điêu Thuyền, Tây Thi, Vương Chiêu Quân và Dương Ngọc Hoàn (Dương Quý Phi).
Tôi nghĩ thầm trong bụng, thì ra trông chị Giai Tuệ rất giống Điêu Thuyền, đúng là một mĩ nhân.
Hứa Liên Tăng say sưa kể, vật chúng tôi mang đến không gọi là khay, mà gọi là đĩa, tất cả những khay tròn hạng cao cấp đều thống nhất gọi là đĩa; hơn nữa đây còn là điển hình của loại sứ lồng. Loại này lại có quy trình ngược lại với loại sứ ghép, đầu tiên là nung hoàn thiện phần đáy, sau đó mới tạo hình sơn thủy bên trên, rồi tiếp tục nung phủ thêm một lớp vỏ bên ngoài. Do lớp sứ phủ bên ngoài cực kì mỏng và trong suốt, nên ta có thể nhìn thấy rõ bức tranh sơn thủy phía dưới, nên mới gọi là Dương Minh Gian Sáo Thanh Hoa Sơn Thủy Hoa Khẩu Điệp.
Nhắc đến kỹ thuật lồng sứ, Hứa Liên Tăng còn nói thêm, sau khi đồ sứ đã thành hình, thì phần kỹ thuật phủ lớp vỏ ngoài vô cùng khó, nhưng một khi đã phủ thành công thì các lớp men sẽ dính kết lại với nhau vĩnh viễn, cho nên vào thời nhà Minh, trong phương ngữ của Bắc Kinh có câu nói “chưa quen thì dần dần sẽ trở nên khăng khít như sứ lồng” và nguồn gốc chính là từ đây ra.
Tôi thật sự ngỡ ngàng, lẽ nào những kỹ thuật nung gốm sứ tinh xảo và thần kỳ như thế từ thời cổ đại đã có rồi sao? Vậy tại sao từ trước đến nay tôi chưa từng được nghe đến?
Thấy chúng tôi ngơ ngác và liên tục đặt câu hỏi, Hứa Liên Tăng ngửa cổ cười sảng khoái, rồi nói:
- Đây đều là những bí mật trong nghề, người ngoài làm sao có thể biết được. - Ông khẽ quay người sang, đầu ngón tay miết lên dòng chữ “Mặc Văn đường tạo”, đầu liên tục gật gù, rồi xúc động thốt lên. - Cuối cùng cũng có người mang nó đến cho ta thưởng thức, quả là một Mặc Văn đích thực!
Hứa Liên Tăng nói như vậy chứng tỏ ông rất am hiểu ý nghĩ của bốn chữ “Mặc Văn đường tạo”. Điều đó khiến chúng tôi càng thấy tò mò hơn, chị Giai Tuệ cũng sốt ruột liên tục đặt câu hỏi.
Hứa Liên Tăng cũng không giấu giếm gì, ông từ tốn kể lại cho chúng tôi nghe một câu chuyện đậm màu sắc liêu trai. Thật không ngờ, bốn chữ “Mặc Văn đường tạo” lại cất giữ trong nó một loại hình nghệ thuật thần bí cổ xưa đến như thế. Và cũng không ngờ rằng, nhờ bốn chữ này mà tôi được gặp một cô gái trẻ rất xuất chúng, chúng tôi đã cùng nhau tìm ra những bí mật kinh thiên động địa về sau này.
Hứa Liên Tăng chậm rãi lần đầu ngón tay khắp mặt đĩa, nháy mắt rồi tiết lộ với chúng tôi một bí mật kì lạ:
- Mọi người không biết đấy thôi, lớp bên trong chính là hình xăm đấy!
Hình xăm?! Tôi ngỡ ngàng, tưởng mình nghe nhầm, vội quay sang bên phía chị Giai Tuệ và Lão Ngũ, khuôn mặt hai người cũng đang hết sức bất ngờ.
Hứa Liên Tăng như sợ mọi người chưa hiểu, liền dùng động tác vẽ tay lên người, cố gắng nói với giọng điệu nghiêm túc hơn:
- Hình xăm, là hình xăm, mọi người có biết không?

Thấy thần sắc và dáng vẻ của ông, tôi lờ mờ hiểu ra, bên trong chiếc đĩa nhỏ xíu kia, chắc chắn có đặt một mảnh da người, nếu không thì sao lại gọi là hình xăm. Tưởng tượng ra cảnh da thịt người được cấy vào chiếc đĩa, tôi thấy rùng cả mình, vậy ai đã đặt mảnh da người đó vào đây?
Lão Ngũ lắc đầu ra chiều không tin rồi chửi thề một câu:
- Trùng thối, mi lẩn thẩn rồi hả? Nói năng phải nghĩ chứ? Mẹ kiếp!
Chị Giai Tuệ cũng chau mày hỏi lại:
- Lão tiền bối, cháu vẫn chưa hiểu lắm, tại sao trong đĩa sứ lại có cả da người?
Hứa Liên Tăng cười khoái chí, ông xua tay, nói:
- Đừng nóng, đừng nóng, nó chính là kỹ thuật khắc hình thật đấy! - Rồi ông kể, cũng giống như những người phái Đạo môn hay như những cao nhân mở khóa phái Kiện môn, những người chuyên xăm hình trong giới giang hồ cũng có một phái riêng gọi là Mặc môn, hay còn gọi là Văn môn. Trong đó, kỹ thuật cao nhất trong Mặc môn là trổ hình, nghệ thuật này không chỉ xăm hình trên cơ thể con người, mà còn có thể xăm lên cả bề mặt của đồ vật. Trước đây người ta gọi là trổ hình, nhưng sau này người ta lại đổi thành khắc hình. Qua những phán đoán của ông, bức tranh phong cảnh sơn thủy trong lòng đĩa đã áp dụng nghệ thuật tinh xảo nhất của Mặc môn chính là thuật khắc hình. Đặc biệt là với bốn chữ ở mặt sau “Mặc Văn đường tạo”, thì chắc chắn điều này không thể nhầm được.
Tôi nghe mà thấy hỗn độn khó hiểu. Xăm trổ thì tôi có thấy, nhưng thật không dám tin trên đời này lại có một loại nghệ thuật xăm hình trên đồ gốm sứ.
Lão Ngũ xoắn xít mấy sợi râu dưới cằm, rồi hoài nghi nói:
- Mẹ kiếp, Mặc Văn! Ta đây cả đời tung hoành trong giới giang hồ tại sao cũng chưa lần nào nghe thấy? Chuyện này mà không đúng, thì ta sẽ tính sổ với mi đấy!
Hứa Liên Tăng không thèm đáp lại lời đe dọa trẻ con của Lão Ngũ mà vẫn từ tốn kể tiếp, Mặc môn cũng chia làm hai phái lớn ở hai miền Bắc Nam là Nam Từ và Bắc Đường. Do đặc thù và kỹ thuật khác nhau, vì đa phần người của giới Mặc môn đều là họa sĩ hoặc thư pháp gia có tiếng tăm, lại thêm việc bị các phe phái khác đe dọa vì thời bấy giờ việc xăm trổ vẫn bị coi là kiêng kị, nên rất ít người trong giới giang hồ biết đến. Cuối thời nhà Thanh, nghe nói có một nghệ nhân tay nghề lão luyện tên là Đường Vũ Lâm, xăm hình gì cũng sống động như thật. Lúc bấy giờ, tri huyện Cảnh Đức trấn muốn tặng nhà vua một món quà, nên đã đích thân nhờ Đường Vũ Lâm làm một chiếc ly khắc hình đôi rồng uốn lượn. Hình ảnh hai con rồng màu xanh đậm dưới đáy chiếc ly sứ trắng, nếu đặt dưới ánh trăng rằm, thì quả thật chẳng khác nào một đôi rồng thật đang vờn nhau. Chính vì thế nó được coi là tuyệt tác của mọi tuyệt tác và luôn được cất giữ cẩn thận ở vườn Nguyên Minh. Sau này liên quân Anh Pháp đã đổ bộ vào Bắc Kinh và đốt hết khu vườn này, chiếc ly quý cũng bị chúng lấy mất đem về Hồ Lô cung tại Pháp.
Nghe tới đây, chị Giai Tuệ bỗng cười khúc khích:
- Là Lô Phù cung[2] chứ ạ.
[2] Phiên âm tên cung điện Louvre của Pháp.
Hứa Liên Tăng gật gật đầu, vừa xoa cằm vừa tiếp tục nói:
- Gì thì cũng bị bọn Pháp cướp mất rồi, giờ không thấy tin tức gì về nó nữa. Thật đáng tiếc!
Mặc dù tôi không hiểu “Hồ Lô cung” và “Lô Phù cung” khác nhau ở điểm gì, nhưng bây giờ tôi đã biết bức tranh sơn thủy này là được xăm trong đáy đĩa chứ không phải vẽ tay như bình thường. Nhìn kĩ lại hơn thì cũng thật thần kì, bề mặt đĩa trơn nhẵn như vậy mà không hề có một vết xước, chẳng lẽ những hình xăm đó lại được khắc từ bên trong? Lại còn thêm chuyện Mặc môn cũng được phân thành hai dòng Nam Bắc, xem ra lịch sử môn phái này cũng không khác gì Kiện môn chúng tôi.
Hứa Liên Tăng nói tiếp, dù là sứ lồng, nhưng hai lớp trong và lớp ngoài đều được nung lần lượt từng phần riêng biệt, bức tranh phong cảnh này có lẽ là được khắc ở lớp trong, nếu như tách được lớp ngoài ra, chắc chắn sẽ biết được rất nhiều bí mật khác. Chị Giai Tuệ liền gặng hỏi xem có cách nào để tách chúng ra không?
Ông già họ Hứa suy nghĩ một lúc rồi rút từ ngực áo ra một vật mỏng dẹt màu trắng, rất giống một mũi dao, trịnh trọng nói:
- Đây là chiếc dao sứ được làm từ bạc trắng và đất sét, dùng gỗ bồ đề để nung đi nung lại vài lần mới được, đây là vật dụng bắt buộc phải có của thợ sứ. Phàm những vật cao cấp và quý hiếm như chiếc đĩa sứ này nhất định phải dùng vật dụng có thuộc tính tương đồng thì mới có thể phán đoán và tìm hiểu ngọn nguồn bên trong, thế nên người trong nghề mới có câu “dùng gốm sửa gốm, dùng sứ thử sứ”. Chiếc dao sứ này là do tổ tiên ta để lại, cũng thuộc loại bảo bối vô giá nên có lẽ bì được với chiếc đĩa này.
Tôi tò mò đưa tay sờ thử lưỡi dao sứ, cảm thấy vô cùng mát lạnh, trơn mịn; lưỡi dao mỏng tang, nhưng lại không dễ làm đứt tay.
Hứa Liên Tăng nhấc chiếc đĩa lên, dùng chiếc dao sứ cào thật nhẹ nhàng. Những tiếng lạo xạo liên tục phát ra từ lòng đĩa, đế đĩa, cho đến cả viền đĩa cánh hoa. Bỗng nhiên, ông dừng tay rồi khẽ cười, ngón tay út chỉ vào mép giữa hai viền cánh hoa:
- Đây rồi, đây rồi, mắt khí đây rồi!
Thì ra, mặc dù kỹ thuật sứ lồng tinh tế và sắc sảo như thế đi nữa nhưng khi hai lớp sứ ép lại với nhau, rất khó tránh khỏi những bọt khí li ti; cho nên đồ sứ loại này bắt buộc phải có mắt khí, rồi dùng sức lửa dồn hết bọt khí ra ngoài thì hai lớp sứ mới hoàn toàn dính chặt vào nhau tạo thành một sản phẩm hoàn mĩ.
Hứa Liên Tăng dựng đứng chiếc đĩa lên, dùng mũi dao xuyên thẳng vào vị trí mắt khí, một lớp bột sứ mịn không ngừng rơi ra. Sau chừng ba đến năm phút, liền có một tiếng “cách” khe khẽ, mũi dao đã khoét được một lỗ nhỏ bằng hạt vừng đúng tại vị trí mắt khí. Ông già bỗng cười vang, rồi đưa chiếc đĩa sứ cho chúng tôi:
- Việc của ta đến đây là xong, tiếp theo như thế nào là tùy vào mọi người đấy.
Lão Ngũ đưa tay nhận lại chiếc đĩa, nheo mắt nhìn vào bên trong mắt khí một lát, sau đó thì cáu kỉnh chuyển cho tôi:
- Mẹ kiếp, tối thui thế này thì nhìn thấy gì. Lan Lan, mi thử nhìn xem!
Quả thật mắt khí quá nhỏ, hơn nữa lại không trong suốt nên ánh sáng không vào được, ngó nghiêng mãi cũng vẫn là một khoảng tối đen như mực. Tôi dừng lại suy nghĩ một lúc rồi bước tới bên cửa sổ, đeo chiếc kính lúp chuyên dụng vào một bên mắt, sau đó đặt một mảnh bạc trắng ở góc độ hợp lí nhất để lấy ánh sáng phản chiếu vào bên trong mắt khí.
Vừa ghé mắt nhìn vào mắt khí, tôi đã giật mình kêu lên đầy kinh ngạc, hóa ra trong đó không khác gì một chiếc khóa đĩa siêu nhỏ cả.
Ánh sáng khuếch tán với cường độ mạnh đã khiến lòng đĩa sáng bừng lên, giúp tôi nhìn thấy rõ nét từng vòng móc, bánh răng hay ốc vít… nhưng chúng không phải làm bằng kim loại thường thấy, mà hoàn toàn là sứ, ăn khớp với nhau, và được sắp xếp vô cùng tinh vi, giống hệt một mê cung huyền bí. Thật sự không thể ngờ được rằng người ta lại có thể tạo ra được một tầng khóa phức tạp đến thế trong mắt khí của một chiếc đĩa sứ, loại hình sáng tạo này thực sự tôi chưa từng biết đến.
Chị Giai Tuệ trong lúc chờ đợi tôi, liên tục đi qua đi lại phấn khích một cách khác thường, Lão Ngũ còn tỏ ra rối trí hơn, lão cứ vân vê cằm và lẩm bẩm một mình:
- Mở ra, mở ra, mau mở ra… bên trong đó nhất định có bảo bối. Hay, hay đấy!
Tôi cầm chiếc đĩa, loay hoay một lúc mà vẫn chưa tìm ra điểm mấu chốt của chiếc khóa. Ông nội tôi từng dạy rằng, nếu như toàn bộ ổ khóa cùng dùng một chất liệu đồng nhất thì người ta gọi đó là khóa nhất khí. Chiếc đĩa sứ này được nung từ đất nên phải áp dụng nguyên lí ngũ hành tương khắc thì mới mở được. Lúc ở dưới địa cung, tôi đã từng dùng trâm Quý Phi để mở chiếc khóa Bá Vương có cấu tạo tương tự như vậy, nhưng cái khóa này lại nằm gọn trong mắt khí chỉ to bằng hạt vừng còn trâm Quý Phi lại quá to so với nó, tôi biết làm thế nào đây?
Thấy tôi nói vậy, Lão Ngũ bèn đập mạnh vào tay ông bạn già Hứa Liên Tăng, ra lệnh:
- Trùng thối, dùng dao tách hẳn chúng ra cho ta.
Tôi lập tức lắc đầu phản đối, bởi cái khóa siêu bé đó có cấu tạo từ bốn mươi lăm sợi dây sứ mảnh chăng qua những vòng móc, cứ chín sợi lại xâu thành một cụm, tổng cộng cái khóa có năm cụm tất cả, với ý nghĩa “Cửu cung tung hoành, ngũ lôi thiên phạt”. Nếu như cố dùng ngoại lực tác động để phá khóa thì những sợi dây kia sẽ lập tức co rút lại và tự động phá vỡ kết cấu bên trong lõi đĩa.
Đang trong lúc hoang mang, tôi chợt thấy chiếc dao sứ của Hứa Liên Tăng đang đặt trên mặt bàn, một ý nghĩ vụt qua đầu, theo như lời ông già ấy vừa nói, dùng sứ thử sứ, nếu như áp dụng nguyên tắc này thì…
Cát bay! Tôi lập tức nghĩ tới thứ bảo bối nhỏ bé ấy. Cát bay và đất sét cùng thuộc hành Thổ, hơn nữa nó lại rất nhỏ, nên có thể chui qua lỗ khí kia và tự do chuyển động ở bên trong, nếu như kết hợp thêm sợi dây da lừa thì việc mở khóa không phải là không thể làm được.
Tôi kể tóm tắt ý tưởng của mình cho mọi người nghe, rồi lập tức lấy hạt cát bay đang nằm gọn trong lỗ sẹo ở lòng bàn tay ra, nhẹ nhàng nhét nó vào lỗ khí. Tiếp theo đó, tôi lấy ra một sợi dây da lừa ngắn và mảnh, một đầu nhét vào lỗ sẹo, đầu còn lại gắn chặt vào hạt cát bay. Tôi khẽ khàng xòe bàn tay ra, từ từ ấn sợi dây để đẩy hạt cát vào sâu bên trong.
Từ cảm nhận truyền qua khớp xương, tôi phát hiện ra bên trong là một lõi khóa hình tròn, với bốn mươi lăm sợi dây cuốn quanh tạo thành một mạng lưới, nên phải hết sức thận trọng khi thao tác. Tôi lắc nhẹ sợi dây da lừa, khiến hạt cát chuyển động cọ xát lên sợi dây sứ.
Hạt cát không ngừng chuyển động sang phải sang trái rồi tăng tốc vun vút, không rõ nó đã di chuyển được mấy nghìn vòng, chỉ nghe có tiếng lách cách không ngừng phát ra. Bỗng nhiên, tôi cảm thấy đầu ngón tay khẽ rung nhẹ, từ trong lòng đĩa cũng vọng ra một âm thanh khá lớn, có thể là do các bộ phận bên trong đã bắt đầu thay đổi.
Thực tình trong lòng cũng có chút hoang mang nên tôi không dám cầm chiếc đĩa trên tay nữa, mà đặt nó ngay ngắn xuống mặt bàn. Những âm thanh kì lạ vẫn không ngừng phát ra, chiếc đĩa sứ lúc này giống như một vật sống, mặc dù chuyển động không rõ lắm, nhưng vẫn gõ xuống mặt bàn côm cốp.
- Mẹ kiếp, không phải là nó sắp nổ đấy chứ? - Lão Ngũ lẩm bẩm một mình rồi lập tức kéo tôi và chị Giai Tuệ lùi ra sau vài bước. Chúng tôi ai nấy đều rất căng thẳng, mở to mắt nhìn chằm chằm vào chiếc đĩa sứ.
Khoảng vài chục giây sau, chiếc đĩa bỗng dưng dừng lại, rồi ngay sau đó trên bề mặt đĩa lập tức xuất hiện những đường ngang dọc chằng chịt như được phủ bằng lớp mạng nhện. Những đường vân nhanh chóng tách ra, trông chúng hơi giống thủy tinh bị vỡ vụn.
Lão Ngũ bước tới gần, phủi sạch những mảnh vụn, rồi nhấc lên một mảnh sứ tròn ở giữa lòng đĩa lên, bức tranh sơn thủy đúng là được khắc ở lớp bên trong. Lão đưa lên nhìn kĩ hơn, lật qua lật lại một hồi rồi nói:
- Mẹ kiếp, chẳng có gì ở đây cả. Hay đấy, hay đấy!
Mấy người chúng tôi loay hoay một hồi lâu mà vẫn không tìm ra ý nghĩa của nó, đến cả người sành đồ sứ như Hứa Liên Tăng cũng phải lắc đầu chào thua. Vậy bên trong này chứa đựng bí mật gì? Có lẽ phải tìm đến người của Mặc môn mới biết được điều này.
Chị Giai Tuệ quan sát một lúc lâu rồi lên tiếng phán đoán:
- Đế đĩa sứ có khắc chữ “Tạo”, rõ ràng là cố tình phạm húy hoàng đế Nỗ Nhĩ Cáp Xích, nhưng phần lòng đĩa lại khắc tranh sơn thủy, trong động dưới lòng địa cung lại có kênh Thiết Trân, hơn nữa vua Thuận Trị lại bị một sợi dây da lừa xiết cổ, hay là…
Lão Ngũ vỗ mạnh vào đùi, cất giọng sang sảng tiếp lời:
- Không cần nói nữa, ta hiểu rồi! Người phái Đạo môn đào kênh Thiết Trân, người phái Kiện môn xiết cổ nhà vua, Văn thân thì đánh tráo bảo bối trong hộp khóa tuyệt môn lục bát thuật. Xem ra chúng đã tụ thành một bang hòng tạo phản… - Dừng lại một lúc, lão đột ngột đứng phắt dậy, quay về phía chị Giai Tuệ rồi chắp hai tay trước ngực, vừa nói vừa cười khoái chí, - Giai Tuệ à, tam môn phái Đạo môn, Kiện môn và Mặc môn chúng ta đã hợp sức đánh bại tổ tiên của mi, lại còn lấy cắp quốc bảo nữa chứ. Lão già này thay mặt tổ tiên tạ lễ với mi. Ha ha ha… Hay đấy, hay đấy!
Lão Ngũ rõ ràng là đang đùa chị Giai Tuệ nên chị cũng chỉ vui vẻ cười theo, nhưng mắt vẫn nhìn xoáy vào chiếc đĩa sứ, đôi mày hơi chau lại như đang suy nghĩ mông lung điều gì đó.
Chuyến đi đến trấn Cảnh Đức tuy chưa tìm ra bí mật của chiếc đĩa sứ, nhưng dù sao chúng tôi cũng đã nắm trong tay những thông tin cần thiết để tiếp tục lần theo dấu vết. Chúng tôi nghỉ lại nhà “Trùng thối” Hứa Liên Tăng đêm hôm đó, đến sáng sớm hôm sau, lập tức trở về Nam Xương. Chị Giai Tuệ hoàn lại súng và xe cho Sở cảnh sát rồi không muốn mất thêm thời gian, ngay chiều hôm đó chúng tôi đã đáp chuyến bay sớm nhất trở về Thẩm Dương.
Trưởng phòng Tư và mọi người đã đợi sẵn chúng tôi tại phòng, ông hỏi han chúng tôi vài câu rồi kéo chị Giai Tuệ tới nói thầm to nhỏ gì đó. Tôi quan sát thấy chị không ngừng gật gật đầu, sắc mặt hết sức nghiêm trọng. Trong bụng có chút tò mò, nhưng tôi không tiện hỏi giữa lúc đông người. Sau đó Tôn Ngọc Dương đưa tôi và Lão Ngũ trở về căn biệt thự kia, Trưởng phòng Tư và chị Giai Tuệ gấp gáp ra đi.
Chiều hôm sau, chị Giai Tuệ tới tìm chúng tôi, nói rằng theo quyết định của cấp trên, tôi sẽ tới học tại Học viện Cảnh sát Yên Sơn.
Tôi không khỏi ngỡ ngàng, không phải tôi là trường hợp được đặc cách hay sao, vì sao vẫn phải đi học? Tôi ngập ngừng hỏi lại chị:
- Em không học đâu, có phải mọi người không cần em nữa, đúng không?
Lão Ngũ cũng chêm vào:
- Mẹ kiếp, đây có phải là cuộc thi tìm kiến tài năng đâu, việc gì phải phức tạp hóa thế?
Chị Giai Tuệ mỉm cười trấn an tôi và nói rằng, hiện nay theo quy định hiện hành của luật công nhân viên chức thì bắt buộc phải thi tuyển, dù tôi có là trường hợp được đặc cách chăng nữa thì cũng phải tới Học viện Cảnh sát để tham gia huấn luyện, học hỏi những kiến thức và nghiệp vụ mới, như vậy sau này mới trở thành một cảnh sát giỏi được. Hơn nữa, hôm qua Trưởng phòng Tư cũng nói với chị rằng, tại Thiết Lĩnh đang có một vụ trọng án, nên cấp trên cử chị lập tức tới đó tiến hành điều tra. Còn chuyện về Cố Cung, tạm thời dừng lại một thời gian, vì trước mắt cũng phải tìm người của phái Mặc môn thì mới rõ được bí mật giấu trong lòng đĩa sứ.
Tôi không biết nhiều về Thiết Lĩnh, chỉ biết rằng đó là quê hương của Triệu Bổn Sơn[3], và là một thành phố tương đối lớn thuộc tỉnh Liêu Ninh. Khi đó, tôi cũng không hiểu ở đó đã xảy ra vụ án gì, mãi về sau tôi mới biết, ở Thiết Lĩnh đã xảy ra một vụ bê bối rất lớn, rất nhiều người dính líu đến đường dây vụ án, thế nhưng giờ những chuyện đó đã đi vào dĩ vãng.
[3] Tên một đạo diễn kiêm diễn viên hài nổi tiếng của Trung Quốc.
Thanh Nham Thánh cảnh
Trong thời gian chị Giai Tuệ đi Thiết Lĩnh phá án, tôi phải tới Học viện Cảnh sát Yên Sơn học, Lão Ngũ đã được mãn hạn tù, nên lão vẫn ở lại ngôi biệt thự để đợi hai chị em tôi trở về. Nghĩ đến việc phải chia tay hai người ấy, tôi thấy lưu luyến vô cùng, nhưng cũng không thể làm khác được.
Dưới sự thu xếp của Cục Cảnh sát tỉnh Liêu Ninh, tôi được chuyển thẳng tới Học viện Yên Sơn để tham gia lớp đào tạo cảnh sát. Năm 2009, cả hệ thống cảnh sát tỉnh chỉ tuyển có ba trăm hai mươi sáu học viên, và tôi là trường hợp duy nhất được tuyển thẳng không phải thi. Bao nhiêu năm không đi học, giờ quay lại với việc học hành khiến tôi có cảm giác rất mới mẻ, nhưng chỉ trong thời gian đầu thôi chứ nếu kéo dài mãi thì cũng thật ngán ngẩm. Ngày nào cũng thế, không lên lớp thì lại ra thao trường, cứ nhìn thấy mấy quyển sách luật dày cộp là tôi lại thấy mắt díp cả lại, nhưng nghĩ đến lời dặn dò của chị Giai Tuệ tôi lại cắn răng ôn luyện. Có duy nhất một điều khiến tôi thích thú là chiều thứ năm hàng tuần, chúng tôi đều được tập bắn súng. Ước mơ trở thành một nữ cảnh sát oai hùng như chị Giai Tuệ khiến tôi càng có thêm động lực để dồn sức cho bộ môn này, vì vậy tôi thường xuyên đạt điểm cao nhất trong môn bắn súng.
Thời gian ở trong học viện, tôi cũng kết bạn với một vài người, khi biết tôi được đặc cách tuyển thẳng, thậm chí còn có sẵn một vị trí trong Cục Cảnh sát tỉnh, họ đều tỏ ra ngưỡng mộ và ghen tị, thường xuyên thì thầm sau lưng tôi là con ông nọ bà kia chạy vào trường. Thấy vậy, tôi cũng chẳng thèm giải thích, vì dù sao lương tâm tôi trong sạch, lại có cống hiến to lớn cho đất nước.
Tháng Mười một năm đó, tôi tốt nghiệp học viện cảnh sát một cách thuận lợi, rồi được điều về công tác tại phòng cảnh sát điều tra và nhận luôn hàm bậc ba với số hiệu là 664623. Mặc trên người bộ cảnh phục, tôi đưa tay mân mê chiếc huy hiệu sáng lấp lánh, lòng chợt se lại, nếu như ông được nhìn thấy tôi trong bộ cảnh phục này, thì ông sẽ hạnh phúc biết nhường nào. Nhưng giờ này ông đang ở đâu?
Không lâu sau đó, chị Giai Tuệ từ Thiết Lĩnh trở về, người gầy rộc đi trông thấy, nhưng đôi mắt vẫn hừng hực khí thế. Tôi sốt ruột hỏi chị ở đó đã xảy ra vụ án gì, nhưng chị chỉ cười và nói rằng đó là một vụ án vô cùng phức tạp, hiện nay vẫn đang trong quá trình điều tra nước rút, nhưng nhiệm vụ của chị đã hoàn thành nên được về trước. Sau đó chị đưa tôi đi lấy chiếc hộp càn khôn gửi ở ngân hàng một năm về trước.
Tôi ôm chặt chiếc hộp trong lòng, nhớ như in những lời dặn dò của ông nội, sau này tôi có đạt được cấp Thiên giới hay không còn phải dựa vào cơ duyên của tạo hóa. Tôi ngẫm thấy khả năng của mình hiện giờ đã tiến bộ vượt bậc, nên cũng muốn thử một phen xem sao.
Đêm hôm đó, sau khi ăn cơm xong, dưới ánh mắt quan sát của Lão Ngũ và chị Giai Tuệ, tôi hạ quyết tâm mở chiếc hộp gỗ bí ẩn đó ra.
Chiếc hộp gỗ thuộc dạng kết cấu khảm, bên ngoài là lớp gỗ màu đỏ, bên trong lại là lớp kim loại, chúng được gắn kết với nhau bằng những đinh móc bằng đồng tại ba mươi sáu điểm đối xứng. Chiếc đinh tại vị trí chính giữa mặt gỗ phía trên gọi là Định tâm cầu, nối trực tiếp vào ốc vít của chiếc hộp kim loại bên trong, nên bắt buộc phải dựa vào số vòng ren của ốc vít để tiến hành tháo gỡ.
Chương 29:
Nhìn, nghe, bắt mạch. Tôi đã thực hiện xong những bước thăm dò và bước đầu xác định được đúng hướng đi, đầu tiên phải dùng sợi dây da lừa dò đếm số vòng ren của chiếc vít nối với Định tâm cầu, tôi phải tẩn mẩn thao tác nửa tiếng đồng hồ mới tháo được nó ra, phía sau vị trí đó là một mắt khóa nhỏ bằng đầu ngón tay sâu hoắm. Tôi tiếp tục dùng mũi kim móc lùa sợi dây da lừa vào sâu bên trong, dò tìm từng vị trí của hệ thống đinh móc bên trong, rồi dùng chiếc hộp tích lực cắt vài lần.
Tất cả gồm có hai trăm mười sáu chiếc đinh móc cần được cứa đứt từng cái một nên rất mất thời gian. Tôi phải hi sinh tới hơn hai mươi sợi dây lừa và mất trọn một đêm mới mở được chiếc hộp ra. Khi nhìn lên, trời cũng đã rạng sáng, nhưng chúng tôi không một ai cảm thấy mệt mỏi hay buồn ngủ.
Cho tới khi nghe thấy âm thanh quen thuộc của những chiếc vòng xích đang chuyển động, tôi mới chắc chắn rằng chiếc hộp đã được mở ra, trong lòng phấn khích vô cùng, bàn tay tôi run lên vì hồi hộp, không biết trong đó rốt cuộc cất giấu thứ gì.
Lão Ngũ vỗ vỗ vai tôi, mặt mày rạng rỡ, nói:
- Khá lắm, nhóc con, cuối cùng cũng đã chinh phục được chiếc hộp lì lợm này, coi như mi cách Thiên giới không còn xa nữa đâu, hãy để cho lão già này được mở mang tầm mắt nhé. Hay đấy, hay đấy!

Tôi khẽ mỉm cười, thấy lòng nhẹ nhõm đi phần nào, đưa tay sờ lên phần nắp hộp. Cả ba chúng tôi cùng chụm đầu lại nhìn chăm chăm vào mảnh vải nhung đỏ, trong đó có đặt một tấm biển màu đen.
Tấm biển đó to gần bằng thẻ chứng minh nhân dân, dầy chừng một phân, bốn góc được mài nhẵn nhụi, trên bề mặt khắc hoa văn chi chít. Tôi hiếu kì đưa tay nhấc nó lên, cảm thấy khá nặng tay không khác gì một miếng gỗ. Những đường hoa văn được chạm khắc rất tinh xảo với hình sóng nước uốn lượn, chính giữa là ba chữ phồn thể vuông vắn.
Chữ đầu tiên thì tôi nhận ra ngay, chính là chữ “Sở”; chữ thứ hai thì hơi khó một chút, trông nó có vẻ giống chữ “Khinh”, nhưng không dám chắc; còn chữ thứ ba thì tôi hoàn toàn không biết. Lật lại mặt sau thì thấy ở đó có khắc khuôn mặt một cô gái, đường nét khá đơn giản nhưng lại rất có thần, đặc biệt là dải tóc tết phía sau lưng, nhưng sao càng nhìn càng thấy có nét hao hao giống tôi?
Tôi bắt đầu thấy chuyện này thật thú vị, liền quay sang hỏi Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, đây là cái gì, cô gái khắc ở mặt sau sao trông giống…
Chưa nói hết câu, tôi đã im bặt, không hiểu sao Lão Ngũ và chị Giai Tuệ lại nhìn tôi chằm chằm, khuôn mặt biểu lộ thần sắc thật khó hiểu.
Thấy thái độ của hai người rất kì quái, tôi vội vàng hỏi họ có chuyện gì.
Lão Ngũ vân vê mấy sợi râu thưa, chỉ vào tấm biển trong tay tôi, giọng trầm hẳn xuống:
- Nhóc con, ba từ đấy chính là tên của mi đấy!
Tôi lập tức ngẩn người, đầu óc ong ong trống rỗng, mắt như dán vào ba chữ khắc trên đó, điều này… điều này… sao lại có thể như vậy chứ?

Lão Ngũ cầm lấy tấm biển loay hoay nhìn ngắm một hồi, bỗng lão trợn mắt:
- Mẹ kiếp, hay đấy! Ít nhất cái này cũng phải có trên dưới bốn mươi năm, thì ra lão Sở cũng biết đường chuẩn bị trước.
Tôi khó nhọc nuốt nước bọt, một cảm giác ớn lạnh bao phủ lên người, bốn mươi năm trước làm gì đã có tôi, tại sao ông nội lại phải làm trước tấm biển này? Tôi lập tức liên tưởng tới chiếc đĩa sứ mang hình sơn thủy, hình như nó cũng là một vật xuất hiện vào thời điểm rất không nên xuất hiện. Thế nhưng nguyên do xuất hiện của chiếc đĩa sứ kia đã được tìm thấy, đó là bị người khác đánh tráo, vậy còn tấm biển mang tên tôi thì giải thích thế nào đây, chẳng nhẽ cũng bị người ta đánh tráo nốt?
Chị Giai Tuệ hơi chau mày, rồi bỗng nhiên thốt lên:
- Độ nông sâu của chiếc hộp có gì đó là lạ, chắc phải còn một lớp nữa, Lan Lan, em nhìn lại chiếc hộp xem.
Tôi nhìn vào lòng hộp, quả nhiên, chúng tôi mới mở được một phần ba, đây chẳng qua chỉ là lớp đáy giả mà thôi. Tôi lập tức nhấc lớp đáy ra, phía dưới lại là một lớp vải nhung khác, bên trên đặt một mảnh trúc màu vàng xanh, chiều dài vừa đúng một đốt. Hai đầu mảnh trúc được vạt nhẵn, qua màu sắc và thớ trúc, có lẽ nó đã được đặt vào đây từ rất lâu rồi. Ông nội đã từng dặn, bên trong chiếc hộp này đều là bảo bối của Kiện môn, lẽ nào mảnh trúc này cũng là một trong số đó?
Tôi đang lan man suy nghĩ, thì Lão Ngũ đã nhanh tay nhấc lớp đáy thứ hai lên. Phía dưới cùng đặt một cuốn sách nhỏ mỏng tang màu xanh nhạt, mép hơi quăn và sờn rách, xem ra nó đã rất cũ, trên trang bìa có một khoảng trắng ghi Giải kiện tập lục bằng lối chữ Khải vuông vắn. Nhìn dòng tên sách, nếu tôi đoán không nhầm thì đó là cuốn sách bí truyền ghi lại những kinh nghiệm mở khóa vi diệu mà tổ tiên truyền lại.
Tôi đặt tấm biển đen, mảnh trúc cùng cuốn Giải kiện tập lục lên trên mặt bàn, đờ đẫn nhìn chúng hồi lâu, tại sao tấm biển đen lại khắc tên tôi, và mảnh trúc kia tượng trưng cho điều gì?
Lão Ngũ thò tay cầm cuốn Giải kiện tập lục lên, liếc nhìn tôi rồi nói:
- Nhóc con, nhìn đủ chưa, để lão già này đọc trước xem thế nào nhé!
Tôi chưa kịp trả lời thì lão đã cầm cuốn sách lật giở qua loa vài trang. Tôi tiến lại gần lão, trang sách chi chít những chữ phồn thể to bằng hạt đậu tương, không phân hàng lối, nên không rõ nội dung bên trong viết cái gì. Trang cuối cùng của cuốn sách là hình hai bàn tay đang xòe ra, lòng bàn tay và mười đầu ngón tay chằng chịt những vết sẹo. Có những vết kéo dài, có vết hình tròn, hình tam giác, hình móng ngựa, còn một vài đường rãnh to nhỏ khác nhau, đặc biệt chúng được phân bổ theo một trật tự quy củ, nhưng mỗi tay là một hình khác biệt…
Nhìn hình ảnh đó, tim tôi bỗng đập thình thịch, chỉ vào hình ảnh bàn tay trong sách rồi la toáng lên đầy phấn khích:
- Đây chính là sơ đồ sẹo tay, giống y hệt của ông nội cháu, chính mắt cháu đã nhìn thấy rồi mà.
Lão Ngũ liếc đôi mắt dài và nhỏ ti hí sang tôi, gật gù nói:
- Tay chân chi chít sẹo thế này, mẹ kiếp, cũng thảm thật!
Chị Giai Tuệ cầm tấm biển đen lên, chậm rãi phân tích:
- Chiếc hộp càn khôn này là vật gia truyền của nhà họ Sở, bên trong cất giấu cuốn sách bí truyền thì không có gì đáng nói, nhưng còn tấm biển đen và mảnh trúc thì không thể hiểu nổi. Lão Ngũ, lão thấy sao?
- Để ta xem lại đã, không khéo bên trong đó còn giấu bí mật khác. - Lão Ngũ lên tiếng.
Chị Giai Tuệ như muốn tránh những nghi ngờ không đáng có, nên đã tự động đứng dậy đi ra ghế sofa ngồi chờ.
Lão Ngũ lật giở kĩ càng từng trang sách, vẻ mặt cũng rất lạ, lúc thì chau mày, lúc thì lẩm bẩm điều gì đó trong miệng, hai con ngươi liên tục đảo từ trên xuống dưới, như muốn lục tìm lại điều gì đó hết sức quan trọng trong kí ức.
Tôi sốt ruột ngồi đợi bên cạnh, nhưng cũng không dám cắt ngang, đành cố kiềm chế và chăm chú nhìn lão, chờ đợi một câu trả lời.
Mất đúng một tiếng đồng hồ, Lão Ngũ mới giở tới trang cuối cùng rồi gập lại để lên mặt bàn, nét mặt vô cùng hào hứng:
- Mẹ kiếp, này nhóc con, ba chúng ta đúng là một lũ chuột, thỏ ăn hại. Giờ thì phải cất công tới động Lão Mậu một chuyến rồi. Ha ha ha… hay đấy, hay đấy!
Tôi ngỡ ngàng, không hiểu vì sao mà Lão Ngũ tự dưng quay sang mạt sát cả ba người, lại còn nói phải tới động Lão Mậu, động đó nằm ở đâu chứ?
Thấy tôi thắc mắc, Lão Ngũ chỉ cười và mắng tôi một câu:
- Chuột, thỏ, rùa[1] đi cùng đường. Đó là một câu thành ngữ, mi không hiểu được là đúng rồi.
[1] Trong tiếng Trung chữ “quy” (rùa) đồng âm với chữ “đồ ăn hại”.
Chị Giai Tuệ không nhịn được cười khúc khích, đặt nhẹ tay lên vai tôi, giải thích:
- Câu thành ngữ đó là “thù đồ đồng quy”, có nghĩa là tuy đi không cùng đường nhưng lại có chung đích đến. Lão Ngũ không có ý chửi chúng ta đâu.
Lão Ngũ bật cười khanh khách, vỗ vỗ lên vai tôi, trêu ghẹo:
- Đúng, đúng, đúng, “thử thố đồng quy, thử thố đồng quy”. Lão già này da mặt dày, để ta làm kẻ ăn hại cũng không sao. Hai đứa mi tự chia nhau làm chuột và thỏ đi.
Tôi vân vê túm tóc, khẽ gật đầu ra vẻ đã hiểu, nhưng thực ra trong lòng lại nghĩ tới câu chuyện Rùa và Thỏ mà tôi từng nghe lúc nhỏ, nhưng trong đó chỉ nói đến cuộc thi chạy giữa rùa và thỏ chứ có nhắc đến chuột nào đâu.
Tôi hỏi tiếp Lão Ngũ, cuốn Giải kiện tập lục đó rốt cuộc viết về cái gì? Lão nói đó đều là phương pháp tu luyện kĩ thuật của phái Kiện môn, sau đó lão đưa tấm biển màu đen lên ngang miệng, hà hơi rồi vừa lau vào tay áo vừa cho tôi biết đây chính là Kiện bài làm từ loại ngọc Hắc Mộc hiếm có, thường sinh trưởng ở gốc cổ thụ, được nuôi dưỡng bằng linh khí, mang thuộc tính của cả đất và đá nên độ quý hiếm của nó có thể sánh ngang với loại ngọc Lam Điền Bạch Thủy, một miếng bé thế này thôi cũng đủ mua được cả căn nhà…
Thấy lão lại bắt đầu lan man sang chuyện khác, tôi liền ngắt lời, hỏi lại lão Kiến bài là gì? Lão Ngũ cáu kính trả lời:
- Kiến kiến cái con khỉ ấy, là Kiện bài! Trong quyển sách này có nói rằng, mỗi truyền nhân của Bắc phái đều có một miếng Kiện bài do chính tay trưởng môn nhân trao cho, rồi phải đích thân đưa nó tới động Lão Mẫu ở Bắc Trấn để quy tông nhập vi, khi đó mới chính thức được trở thành người mở khóa.
Bây giờ thì tôi đã rõ. Thì ra là động Lão Mẫu, chứ không phải là động lão Mậu! Tôi có cảm giác tên địa danh này quen quen, nhưng hiện giờ không thể nhớ ra nó ở đâu. Ngoài ra, lẽ nào ông nội đã đặt tên cho tôi trước cả khi tôi sinh ra, còn khắc tên lên miếng Kiện bài nữa? Nhưng không đúng! Từ trước đến nay vật này đều truyền cho nam chứ không truyền cho nữ, chẳng phải ngay lúc đầu ông nội cũng không có ý định truyền nghệ cho tôi còn gì.
Tôi vắt óc suy nghĩ mãi nhưng không thể nào đoán ra được. Chị Giai Tuệ cầm miếng Kiện bài lên, hỏi Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, nghe lão nói vậy, chắc là lão cũng định tới động Lão Mẫu ở Bắc Trấn đúng không ạ?
Lão Ngũ gật gật đầu, khệnh khạng qua lại vài bước, vân về chỏm râu, nói:
- Thực ra cũng không định nói cho hai đứa bay biết đâu, nhưng giờ ba chúng ta đã trở thành chuột, thỏ, rùa rồi nên cũng không giấu hai đứa nữa. Mùa xuân năm sau, Lão Ngũ ta phải tới Lư Sơn, Bắc Trấn để Luận Đạo.
Tôi thấy lão nói kì quặc quá liền thắc mắc giờ đều đã là chuột, thỏ, rùa rồi còn tự chui vào lư[2] làm gì, Lão Ngũ phải đi luận cái gì Đạo mới được chứ?
[2] Con lừa âm Hán Việt là “Lư”, gần âm với chữ “Lữ”
Chị Giai Tuệ vội giảng giải cho cái tai lòi của tôi, Bắc Trấn cũng giống như vùng sản sinh ra cát bay Lăng Hải, đều nằm phía dưới thành phố Cẩm Châu thuộc tỉnh Liêu Ninh. Trung Quốc có năm huyện lớn nằm trên núi đó là Đông Trấn Thanh Châu Nghi Sơn, Tây Trấn Ung Châu Ngô Sơn, Trung Trấn Ký Châu Lộ Sơn, Nam Trấn Dương Châu Kim Kê Sơn, Bắc Trấn Y Vu Lư Sơn, gọi tắt là Lư Sơn. Trên Lư Sơn có một ngôi chùa Thanh Nham hoàn toàn bằng đá tự nhiên ở thôn Thường Hưng, thuở ban đầu nó thuộc nước Bắc Ngụy. Bên trong thiền viện có một cái động tự nhiên thời “Lão Mẫu nghiêng đầu” - một trong ba mươi hai phép hóa thân của Quan Thế m Bồ Tát. Số lượng Quan m ở đây nhiều vô kể, cho dù là tượng đứng hay tượng ngồi thì khuôn mặt đều nghiêng về một phía nên gọi là “Lão Mẫu nghiêng đầu”. Nghe nói đến đây cầu tài cầu tự đều rất thiêng, nên hương khói nghi ngút quanh năm. Hai năm trước, Cục Cảnh sát tổ chức nghỉ mát ở đây nên chị đã được hướng dẫn viên du lịch giảng giải rất kĩ càng.
Lão Ngũ nhìn chị Giai Tuệ, gật đầu tỏ vẻ hài lòng.
- Giai Tuệ nói không sai. - Rồi lão quay sang bên tôi, - Nhóc con, mi có biết Lão Mẫu Quan Thế m chính là sư tổ của Đạo môn và Kiện môn chúng ta không?
Tôi đương nhiên là không thể nào tin nổi, làm sao Quan m Bồ Tát lại là sư tổ của Đạo môn và Kiện môn, nên vội vàng hỏi lại lão thực hư nguồn gốc câu chuyện.
Lão Ngũ nheo nheo đôi mắt, tay vỗ nhẹ lên cuốn Giải kiện tập lục, nói:
- Đạo môn của Trung Quốc kể từ triều nhà Đường trở về sau, đã tôn Quan m làm sư tổ, điều này không có nghĩa Quan Thế m cũng là một kẻ trộm cắp mà bà chỉ liên quan đến một truyền thuyết. Vừa xong Giai Tuệ đã nói rồi, Quan m có ba mươi hai phép hóa thân, một trong những phép đó là biến thành Phật bà Quan m nghìn tay nghìn mắt, trên mỗi lòng bàn tay là một con mắt, nghìn mắt tượng trưng cho khả năng phổ quát nhân gian. Nhưng từ nhà Đường trở đi, nghìn con mắt của Quan m không còn nằm trong lòng bàn tay nữa. Nghe các bậc tiền bối kể lại rằng, những năm đầu đời Đường, Bả Thế Gia Hậu Lão Thất trong một lần đi trộm đồ đã vô tình đánh mất báu vật của tổ tiên để lại, nên cho rằng cuộc đời mình coi như từ đây chấm dứt, và nảy sinh ra ý định tự tử, ông trèo lên chùa Thanh Nham trên núi Lư Sơn để tự vẫn. Không ngờ, Phật Bà Quan m bỗng nhiên giáng thế, nói rằng cuộc đời lão chuyên cướp của kẻ giàu chia cho người nghèo, làm việc thiện thì không phải chết, nên bà đã tặng một con mắt trong lòng bàn tay cho Hậu Lão Thất, rồi khuyên ông hãy lấy lại danh dự cho mình.
Hậu Lão Thất đã khóc như mưa và nguyện bái Quan m làm sư tổ, ông còn thề rằng cả đời sẽ không bao giờ làm điều ác. Khỏi phải nói, sau khi có được con mắt của Phật Bà Quan m, Hậu Lão Thất như có sức mạnh phi thường, tung hoành khắp sáu mươi ba tỉnh từ Bắc tới Nam, trở thành Hiệp Đạo Bá vương thời bấy giờ. Đặc biệt là, ông đã nắm trong tay thuật mở khóa, nên đã đưa nó vào Đạo môn, lập thành một chi phái và tự phong mình là Kiện môn khai sơn đại tông sư.
Do lúc bấy giờ Đạo - Kiện đều chung một nhà, nên hai phái cùng tôn Quan m làm sư tổ, đặt trước tượng phật bà một lư hương và sớm tối thành tâm cúng bái. Do nghìn cánh tay thiếu đi một con mắt, nên cánh tay thiếu mắt đó gọi là Diệu thủ. Người ta hay gọi những thuật siêu phàm của Đạo môn là “Diệu thủ không không”, nguyên nhân cũng là từ đây.
Tôi thấy mình như vừa đến được một chân trời mới, thì ra Đạo môn lại có nguồn gốc lịch sử hào hùng như vậy. Tôi cũng từng được nghe ông nội kể về nguồn gốc của Kiện môn, và cũng có nhắc đến Hậu Lão Thất. Hơn nữa, ông nội cũng đặt một bức tượng Quan m bằng vàng trong phòng, ngày nào cũng dâng hương lạy tạ với thái độ hết sức thành kính, vậy câu chuyện này chắc chắn là có thật rồi. Thế nhưng tôi vẫn không khỏi thắc mắc, Lão Ngũ nói phải tới Lư Sơn để Luận Đạo là việc gì?
Thấy tôi thắc mắc, Lão Ngũ khẽ gật đầu và nói tiếp:
- Đạo môn, Kiện môn đều tôn Lão Mẫu làm sư tổ nên chùa Thanh Nham trên núi Lư Sơn theo lẽ tự nhiên cũng phân thành hai thánh địa. Mi có còn nhớ ta đã từng nói, trong Đạo môn ngoài quan hệ sư phụ và đệ tử ra, tất cả mọi người đều dựa vào tài năng để phân cao hạng. Bả Thế càng cao thì tên tuổi càng lớn, cụ thể thế nào thì còn rất nhiều điều thú vị.
Ngày mười chín tháng Hai âm lịch hàng năm được coi là ngày đản sinh của Lão Mẫu, nên tất cả anh em trong Đạo môn đều tới đây dâng hương mừng thọ. Mi nghĩ xem, cao nhân từ khắp nơi đổ về, tuy cùng một phái nhưng có người nọ người kia, không tránh khỏi những khác biệt về cách nghĩ và lối sống thậm chí cả những bất hòa. Nhưng một khi đã tới đây, ai ai cũng cố gắng kiềm chế cùng bái Tổ. Cho tới tận tới Nam Tống, đã xảy ra một sự việc rất hệ trọng. Bả Thế Gia Phùng Lão Thất ở Nam Thất tỉnh và Bả Lão Gia Tống Lão Thất ở Bắc Lục tỉnh chỉ vì việc phân chia vai vế mà đã gây ẩu đả tại động Lão Mẫu, tất cả đệ tử dưới quyền hai người cùng xông trận. Nghe nói, cuộc chiến lúc đó diễn ra hết sức căng thẳng, đã có rất nhiều người phải đổ máu, thậm chí phải đánh đổi cả tính mạng, đỉnh núi Lư Sơn lúc đó như nhuộm trong màu máu tươi, một trong mười tám thuật của Đạo môn là Nhuyễn cốt xuyên sơn cũng bị thất truyền từ đấy.
Nghe tới đây, tôi cũng thấy lòng buồn tê tái, vội hỏi Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, vậy cuối cùng thì ai thắng?
Lão Ngũ thở dài, giọng đầy hận thù:
- Thua với thắng cái mẹ gì… Phe của Tống Lão Thất giành ưu thế, ông ta đã giáng một chưởng khiến Phùng Lão Thất hộc cả máu mồm. Trước khi xuống núi, Phùng Lão Thất đã cắn ngón tay, chỉ lên trời cao mà thề rằng, từ nay về sau Đạo môn Nam phái sẽ không bao giờ bước chân tới động Lão Mẫu trừ khi đánh bại Bắc phái…
Chị Giai Tuệ bỗng nói chen vào một câu:
- Lão Ngũ, vậy sau này Bả Thế Gia Thôi Lão Cửu đã thống nhất Đạo môn như thế nào ạ?
Lão Ngũ dựa lưng vào tường, mắt mơ màng hồi tưởng:
- Lúc ở dưới địa cung, ta chưa kịp nói rõ cho hai đứa nghe. Thực ra Đạo môn tồn tại cho tới ngày hôm nay đã trải qua ba giai đoạn thăng trầm. Giai đoạn thứ nhất là cuộc đổ máu giữa hai phái Bắc Nam tại núi Lư Sơn, dẫn đến việc hai phái hoàn toàn chấm dứt quan hệ đồng môn, không ai thèm để ý đến ai. Cho tới khi Thôi Lão Cửu luyện tới cấp chín, mới thống nhất được hai phái Đạo môn, tạm thời sóng yên biển lặng. Sự việc sau đó thì hai đứa cũng đã biết, đó chính là giai đoạn thứ hai. Còn về giai đoạn thứ ba…
Nói tới đây, Lão Ngũ bỗng dưng im bặt, hàm răng cắn chặt lên môi như đang cố kìm nén một nỗi đau đớn nào đó, nhưng đôi mắt lại toát lên vẻ hận thù sâu sắc. Một lúc sau, lão mới lắc đầu rồi nghiến răng nói một câu khó hiểu:
- Giai đoạn thứ ba thì không cần nhắc đến nữa. Mẹ kiếp, không người thân thích thì đã có nghề, nghề không chín thì vẫn còn tổ sư. Mẹ kiếp… cho vào dĩ vãng…
Thấy thái độ căm thù tột độ của lão, tôi cũng không dám nhắc đến nữa, chỉ cảm thấy rất lạ, giai đoạn thứ ba chắc chắn phải có mối liên quan mật thiết đến cuộc đời của Lão Ngũ.
Lão Ngũ thở hắt ra, im lặng một lúc lâu rồi mới tiếp tục nói:
- Hai đứa phải biết rằng, tu luyện Đạo thuật vô cùng khổ luyện, có khi mất đến hàng chục năm trời mà vẫn không nâng được một cấp, cho nên từ xưa đến nay hội đã đặt ra một quy tắc, cứ đúng mười năm sẽ tổ chức một lần Luận Đạo Bả Thế đại hội tại động Lão Mẫu. Cũng có thể nói rằng, đấy là dịp Bả Thế Gia cao nhất sẽ trực tiếp kiểm tra trình độ và bản lĩnh của môn nhân. Tổng cộng có bốn phần thi, nếu như qua tất cả bốn phần thì được tăng lên một cấp, còn nếu không, thì xin lỗi, mười năm sau hãy quay trở lại.
Lão Ngũ vừa xoa cằm vừa nói với giọng hết sức nghiêm túc:
- Tính ra, Lão Ngũ ta cũng đã tham gia ba lần đại hội, đó là vào năm 1970, năm 1980 và năm 1990. Bản lĩnh của ta quả thực cũng không tồi, ngay lần đầu tiên ứng thí đã đạt đến cấp năm, nghe sư phụ nói, ta có cái gì đó rất giống Thôi Lão Cửu, câu nói này làm ta vô cùng tự hào. Sau này sư phụ không còn nữa, hai lần Luận Đạo sau đó, ta đều là người đứng ra chủ trì. Nhưng trong hai mươi năm liền chỉ nâng cấp cho vài tên Lão Tam, đến một tên Lão Tứ cũng không có. Sau đó, ta lại bị tống vào tù, nên đại hội năm 2000 không tham gia. Đã tròn mười năm trôi qua… ha ha ha… Mẹ kiếp, ta vẫn muốn xem xem bản lĩnh của lũ nhóc con giờ như thế nào. Hay đấy, hay đấy…
Nghe những lời của Lão Ngũ, tôi có cảm giác như mình đang được nghe học giả Thiện Điền Phương bình truyện. Khi Lão Ngũ giảng giải về đại hội Luận Đạo, trong đầu tôi lại nghĩ đến cảnh luận kiếm ở Hoa Sơn, nơi diễn ra các cuộc đấu nảy lửa giữa các cao thủ võ lâm, thật sự không biết là thật hay giả đây. Nếu đúng như những lời lão nói, thì lần này sẽ có rất nhiều vua trộm tụ hội tại Lư Sơn để phân tài cao thấp, chắc chắn sẽ rất náo nhiệt. Cứ nghĩ đến ngày mười chín tháng Hai sắp tới, tôi lại thấy ngứa ngáy tay chân, thực sự rất muốn tới đó một lần để mở mang đầu óc.
Thấy tôi nghe có vẻ say sưa, Lão Ngũ liền vỗ nhẹ lên vai tôi, nói:
- Đây toàn là nội sự của Lão Ngũ ta, mi nghe để biết thôi đấy, giờ là đến tấm Kiện bài của mi.
Tôi sực tỉnh ra, thầm trách bản thân chút xíu nữa thì quên mất việc chính, liền giỏng tai nghe Lão Ngũ nói tiếp.
Lão Ngũ lật từng trang cuốn Giải kiện tập lúc xem qua một lần nữa rồi tiếp tục kể cho chúng tôi nghe, động Lão Mẫu thực ra là một lối đi bí mật vào lòng núi Lư Sơn, nhưng hiện giờ đã bị phong tỏa, muốn vào phải có chìa khóa mới được. Bên trong đó là một tảng đá có tên là Kiện môn Quy vị, theo những gì trong cuốn sách này nói, người kế thừa của Kiện môn phái phải tự mình đặt tấm Kiện bài vào tảng đá Quy vị, như vậy mới chính thức được công nhận là trưởng môn nhân. Sau này, kể cả khi đã già vẫn phải tìm cho ra mảnh ngọc Hắc Mộc khác, khắc tên người kế tục lên đó, coi như là chính thức truyền vị cho thế hệ tiếp theo. Thế nhưng loại ngọc Hắc Mộc này vô cùng hiếm có, tìm được hay không còn phải xem bản lĩnh của người đó…
Những điều Lão Ngũ kể giúp tôi vỡ ra nhiều điều, thế nhưng tấm Kiện bài khắc tên tôi thực sự vẫn là một câu đố bí ẩn. Nếu như ông nội thực sự muốn tôi kế nhiệm tại sao không truyền dạy thuật mở khóa cho tôi từ khi còn nhỏ, và giải thích cặn kẽ về những chuyện liên quan? Tại sao không dạy tôi cách mở chiếc hộp càn khôn? Những nghi vấn đó thực sự khiến tôi day dứt và khó hiểu.
Thấy tôi có vẻ băn khoăn, Lão Ngũ đưa cuốn Giải kiện tập lục cho tôi, rồi nói:
- Mặc kệ Lão Sở nghĩ gì, dù sao mi cũng đã mở được chiếc hộp và tìm ra tấm Kiện bài bằng gỗ Hắc Mộc rồi. Thế này đi, lão già này sẽ cùng mi tới Lư Sơn một chuyến, coi như giúp mi khẳng định danh tính trong môn phái.
Tôi khẽ gật đầu đồng ý, xem ra trước mắt chẳng có cách nào khá hơn thế, vả lại, có Lão Ngũ và chị Giai Tuệ đi cùng, tôi cũng không lo lắng gì lắm, coi như là đi du lịch một chuyến vậy.
Khi chúng tôi bàn bạc ổn thỏa thì cũng đã gần mười giờ trưa, chị Giai Tuệ xin phép ra về, còn tôi và Lão Ngũ thì ai về phòng nấy nghỉ ngơi. Tôi định chợp mắt một chút cho đỡ mệt, nhưng trằn trọc mãi không yên, đầu óc không ngừng nghĩ ngợi về những điều Lão Ngũ vừa kể. Hàng tá câu hỏi lởn vởn trong đầu tôi, tấm Kiện bài quy vị như thế nào đây, đại hội Luận Đạo sắp tới sẽ ra sao, mảnh trúc vàng kia rốt cuộc có ý nghĩa gì, còn cả ông nội nữa, càng ngày tôi càng nhận ra ông đã giấu tôi rất nhiều điều, tất cả là vì cái gì đây, rốt cuộc hiện giờ ông đang ở đâu…
Ba ngày sau, chị Giai Tuệ mới lại đến căn biệt thự, đem theo một tin hết sức bất ngờ: Qua quá trình điều tra nhân khẩu của công an tỉnh và Cục An ninh quốc gia, chị cùng Tôn Ngọc Dương đã tìm kiếm khắp nơi, cuối cùng cũng tìm ra người kế vị của phái Mặc môn, hơn nữa người đó lại đang định cư ngay tại thành phố Thẩm Dương.
Chương 30:
Tôi mừng rỡ hỏi chị người đó là ai. Chị Giai Tuệ mỉm cười, vuốt tóc tôi và tiết lộ:
- Người này cũng khá thú vị đấy, giống Lan Lan của chị, người này cũng là một cô gái, tên là Đường Nhã Kỳ.
Sau đó một ngày, chị Giai Tuệ lái xe đưa chúng tôi tới chợ đồ cổ Lỗ Viên thuộc khu Hòa Bình thành phố Thẩm Dương. Nơi đó có những con phố dài với vô số cửa hiệu sầm uất, người ra người vào hết sức náo nhiệt.
Chị dừng xe trước một cửa hiệu ở đầu phố, bên trên cửa hiệu treo một tấm biển màu nâu đen có viết bốn chữ: Tiệm xăm Tiểu Đường. Hai bên cửa treo đôi câu đối: “Họa long họa hổ nan họa cốt, tri nhân tri diện bất tri tâm”.
Chị Giai Tuệ hạ giọng nói thầm với chúng tôi, cửa hiệu này tuy nhỏ nhưng rất nổi tiếng ở Thẩm Dương, nghe nói tay nghề của Đường Nhã Kỳ vô cùng thần diệu, đến cả những tay anh chị xã hội đen khét tiếng cũng phải lụy nhờ cô xăm hình cho. Chính vì thế nên tuy chỉ là một cô gái nhỏ nhưng không một ai dám bắt nạt cô. Tôi tò mò định hỏi lại thì đã thấy Lão Ngũ mở cửa xe, xăm xăm tiến vào cửa hiệu.

Diện tích cửa hiệu không lớn lắm, nhưng bên trong khá ấm áp, những thứ trang trí trong phòng đều là cổ vật quý giá. Ngồi sau chiếc bàn dài là một cô gái trông khá nhỏ nhắn, mặc chiếc áo len cổ lọ màu hồng nhạt, đang cắm cúi dùng một miếng da lừa lau chùi chiếc kim nhỏ màu bạc sáng loáng, đó chắc chắn là truyền nhân mà chúng tôi đang tìm - Đường Nhã Kỳ.
Nghe thấy có tiếng động, Đường Nhã Kỳ từ từ ngẩng đầu lên. Cô có khuôn mặt trái xoan và nước da trắng hồng, đôi mắt lanh lợi, có vẻ như cũng trạc tuổi tôi. Cô đứng dậy, đi vòng qua chiếc bàn, nhìn chúng tôi một lượt rồi mỉm cười, dịu dàng lên tiếng:
- Xin chào, mọi người đến xăm hình đúng không ạ? - Giọng nói của cô vừa trong trẻo vừa dễ nghe.
Chị Giai Tuệ cũng không vòng vo, sau khi chào hỏi xong, chị liền rút thẻ cảnh sát ra rồi giải thích lí do tới đây ngày hôm nay. Tôi nhìn qua tấm thẻ mới phát hiện ra, tên đầy đủ của chị là: Tang Thượng Kỳ Ngải Giai Tuệ, nghe gần giống với tên người nước ngoài.
Mãi sau này chị Giai Tuệ mới nói cho tôi biết, Tang Thượng Kỳ Ngải là họ đầy đủ của chị, Tang Giai Tuệ chỉ là tên viết tắt. Lúc đó, tôi cũng không để tâm lắm, chỉ biết chị là người dân tộc Mãn. Nhưng về sau, qua những cuộc điều tra tôi mới dần phát hiện ra thân thế của chị Giai Tuệ cũng rất phức tạp.
Đường Nhã Kỳ cầm lấy lõi chiếc đĩa sứ, nhìn qua rồi tấm tắc tán thưởng:
- Tuyệt, tuyệt, đúng là bảo vật hiếm có! - Khi lật ra sau đế, cô bỗng nhướn mày. - Cái này… không tiện nói ra.
Lão Ngũ lim dim mắt nhìn cô rồi đi ra đóng cửa lại, sau đó quay lại cười giòn giã:
- Tiểu Đường, đều là người trong giới giang hồ với nhau, không có gì phải giấu giếm cả. Ta là Hắc Lão Ngũ, là người… - Lão dừng lại, cong hai đầu ngón tay thành một vòng tròn, rồi chỉ sang tôi. - Còn đây là Sở Khinh Lan, người của Bắc phái Kiện môn.
Đường Nhã Kỳ liếc nhìn tôi, rồi khẽ mỉm cười, chắp hai tay trước ngực:

- Ồ! Thì ra là vua trộm vùng Đông Bắc, Hắc Lão Ngũ. - Sau đó cô lại quay sang tôi, nghiêng đầu duyên dáng - Xin chào chị Lan Lan!
Nghe khẩu khí đó tôi đoán cô đã biết rõ lai lịch của chúng tôi. Cũng không hiểu vì sao, ngay từ lúc gặp Đường Nhã Kỳ, tôi luôn thấy thoải mái như người trong nhà. Tôi nhẹ nhàng nắm lấy tay cô, thân thiết như chị em ruột.
Bàn tay Đường Nhã Kỳ vừa mềm vừa mát, đầu ngón tay nhỏ xinh khẽ động đậy khi nắm lấy tay tôi. Chợt ánh mắt cô sáng bừng lên, hân hoan nhìn vào mắt tôi:
- Chị Lan Lan, chị quả là một người mở khóa thiên bẩm. - Tôi chưa biết nói gì cho phải thì Nhã Kỳ đã lật bàn tay tôi lên, khẽ sờ năm đầu ngón tay, rồi lại chuyển sang cầm bàn tay trái của tôi lên. - Chà chà, những mười hoa tay, đúng là hiếm thấy!
Tôi chẳng hiểu gì cả, cái gì mà năm hoa với chẳng mười hoa, việc này thì có liên quan gì tới chuyện mở khóa thiên bẩm chứ? Lão Ngũ và chị Giai Tuệ cùng bước tới, nhìn tay tôi rồi quay sang hoài nghi nhìn Đường Nhã Kỳ.
Nhã Kỳ liền giải thích với chúng tôi rằng, đường vân tròn trên đầu ngón tay gọi là hoa tay, người có mười hoa tay như tôi rất hiếm, vài trăm nghìn người mới có một. Cô còn nói, các bậc tiền bối ngày xưa kể lại rằng, người có mười hoa tay là người biệt tài mở khóa bẩm sinh, thực hư như thế nào thì không rõ lắm.
Tôi ngửa hai lòng bàn tay lên, ngắm nghía một lúc lâu nhưng không thấy có điều gì khác biệt. Đường Nhã Kỳ nhìn tôi cười, khúc khích, nhưng cặp lông mày lại hơi nhíu lại, ánh mắt cô dường như chứa đựng điều gì đó.
Lão Ngũ bỗng oang oang lên tiếng:
- Tiểu Đường, thôi đừng hoa tay hoa chân gì nữa, mau xem giúp bọn ta trong chiếc đĩa này có gì cổ quái không?
Đường Nhã Kỳ khẽ gật đầu, quay người đi vào trong phòng rồi lập tức đi ra với đôi bàn tay ướt sũng. Cô lấy khăn sạch lau tay, sau đó nhẹ nhàng cầm lõi đĩa sứ lên, miệng lẩm bẩm không rõ đang nói gì.
Tiếp đó, cô đặt lõi đĩa lên mặt bàn, với tay sang bên cạnh lấy một thanh gỗ đang cắm chi chít các loại kim bạc. Đầu ngón tay cô rê qua các mũi kim một lượt, rồi nhanh chóng lấy ra một cây kim dài chừng vài centimet, kẹp chặt vào giữa hai ngón tay.
Tôi cứ thế ngẩn người ra nhìn đôi bàn tay trắng nõn với các ngón thuôn dài của Đường Nhã Kỳ. Chúng chuyển động hết sức khéo léo, rõ ràng là không hề nhanh nhưng lại rất thuần thục, đem lại cho người xem một cảm giác say mê khó diễn tả thành lời. Tôi quay sang nhìn Lão Ngũ và chị Giai Tuệ, vẻ mặt của hai người cũng rất khác lạ.
Ngón trỏ trái của Đường Nhã Kỳ nhẹ nhàng lướt qua lõi đĩa, còn hai ngón cái và ngón trỏ phải kẹp chặt lấy cây kim, chọc thẳng lên mặt lõi đĩa rồi kéo mũi kim theo một đường dài, tiếng rin rít phát ra nghe ê cả tai. Dừng một lúc rồi mũi kim lại chuyển động thoăn thoắt, nhưng chỉ có cổ tay chuyển động, còn cả cánh tay của Đường Nhã Kỳ vẫn giữ nguyên vị trí. Một tràng dài tiếng ken két vang lên, đầu mũi kim lóe sáng, thực sự không thể biết được rốt cuộc cô đã phải cào bao nhiêu lượt.
Trên lớp men sứ trắng từ từ nổi lên vài đường xanh nhạt, sắc xanh đậm dần lên và nhích lại gần nhau tạo nên bốn chữ Khải: Thanh Nham thánh cảnh.
Thấy bốn chữ đã hiện lên rõ nét, Đường Nhã Kỳ lập tức dừng lại, cắm cây kim vào lại thanh gỗ, rồi mỉm cười với chúng tôi:
- Xong rồi!
Tôi ngỡ ngàng nhìn cô, cảm thấy vừa kì diệu vừa nghi ngờ, một mũi kim bạc nhỏ xíu như thế tại sao lại có thể cào ra chữ? Tôi cúi xuống nhìn thật kỹ lõi đĩa, dòng chữ từ từ biến mất ngay trước mắt tôi, mọi thứ lại trở về trạng thái ban đầu, hoàn toàn không còn một vết xước.
Đường Nhã Kỳ liền giải đáp thắc mắc của tôi, đỉnh cao của nghệ thuật xăm là xăm chìm vào bên trong, dù là cơ thể người hay là bất cứ đồ vật nào khác, từ bên ngoài không ai có thể nhận thấy một chút dấu vết nào. Bốn chữ này chính là kết quả của kĩ thuật đỉnh cao ấy, vừa xong cô đã phải dùng đến phương pháp Phản châm để ép cho chữ bên trong lộ ra. Chúng tôi ai nấy đều tròn xoe mắt nhìn như không dám tin vào những gì vừa diễn ra, tất cả đều vượt quá sức tưởng tượng của chúng tôi.
Lão Ngũ với lấy cái lõi đĩa, lật qua lật lại một lúc lâu rồi nói với giọng hết sức lạ lẫm:
- Mẹ kiếp, cái này hay đấy, hay đấy, hay đấy…! - Lão cứ thế lẩm bẩm đến bảy tám lần, sau đó mới nói tiếp, - Thanh Nham Thánh cảnh chính là chỉ động Lão Mẫu ở chùa Thanh Nham đấy!
Tôi đi từ bất ngờ này tới bất ngờ khác, phải mất một lúc sau mới định thần lại được, mọi việc thật hết sức kỳ lạ. Dưới lòng Cố Cung có một chiếc đĩa sứ khắc chữ “Thanh Nham Thánh cảnh”, còn trong chiếc hộp càn khôn là tấm Kiện bài có khắc tên tôi, kèm lời chỉ dẫn là phải đích thân đưa Kiện bài quay về động Lão Mẫu. Những sự việc trùng hợp đến kỳ lạ, và trung tâm của sự xâu chuỗi đó lại là tôi. Nghĩ tới đây, tôi chợt linh cảm đây hình như là một kịch bản đã có từ trước để tôi lần theo dấu vết. Thậm chí kết cục cuối cùng ra sao, cũng không thể nào dự đoán trước được.
Vậy là bí mật bên trong đĩa sứ Thanh Hoa đã được mở ra, chúng tôi cảm ơn Đường Nhã Kỳ rồi chuẩn bị ra về. Nhã Kỳ chợt hỏi tôi:
- Chị Lan Lan, nghe nói người trong phái Kiện môn đều phải khắc tay, tại sao chị lại không có?
Tôi ngẩn người, không ngờ đến cả việc này mà cô cũng biết. Mặc dù trong lòng hơi nghi ngại nhưng tôi vẫn trả lời thành thực nguyên do, rồi cho Nhã Kỳ xem lỗ sẹo trong lòng bàn tay của mình. Cuối cùng, tôi lấy ra tập sách Giải kiện tập lục, giở tới trang cuối cùng để cô xem sơ đồ đường sẹo trong lòng bàn tay.
Bây giờ nghĩ lại, tôi cũng không hiểu tại sao lúc đó mình lại không hề đề phòng Đường Nhã Kỳ, mà đem toàn bộ bí mật liên quan nói cho cô biết, cũng có thể là do giữa chúng tôi đã sớm có sợi dây liên hệ vô hình rồi. Nhưng dù thế nào đi nữa tôi cũng không thể đoán ra, chúng tôi như thế là vì cùng liên quan đến một người con gái khác, cũng là một trưởng môn nhân với bản lĩnh hiếm có, khiến nội tình càng trở nên phức tạp và thần diệu hơn. Dĩ nhiên, đấy là chuyện sau này.
Đường Nhã Kỳ nhìn một hồi lâu, chớp chớp đôi mắt xinh đẹp rồi nhẹ nhàng cầm tay tôi lên xem và nói:
- Chị Lan Lan, hay là để em khắc sơ đồ này lên tay chị nhé, như vậy thì chị mãi mãi không bao giờ quên được.
Quả thực lúc đấy tôi có hơi do dự. Thứ nhất là vì sợ đau; thứ hai, nếu khắc toàn bộ sơ đồ thì bàn tay sẽ xấu vô cùng, nhưng quan trọng hơn cả là tôi chưa nghĩ đến việc sau này có tiếp tục rèn luyện đến cấp Thiên giới hay không.
Đường Nhã Kỳ cười khúc khích, rồi ôm lấy vai tôi mà nói:
- Không đau chút nào đâu, em sẽ xăm chìm bên trong, nhìn bề ngoài sẽ không thấy gì cả.
Tôi lưỡng lự hồi lâu, quay lại thấy Lão Ngũ và chị Giai Tuệ đều đồng ý nên cũng gật đầu chấp thuận.
Đường Nhã Kỳ ấn tôi ngồi xuống ghế, rồi với tay lấy một chiếc lọ sứ, đổ ra một chút dung dịch màu xanh nhạt, bôi khắp lòng bàn tay tôi. Tôi hồi hộp và lo lắng vô cùng, tay trái nắm chặt lấy tay chị Giai Tuệ, thấy vậy chị nhẹ nhàng vuốt tóc tôi như để trấn an.
Đường Nhã Kỳ lấy ra một cây kim, nghiêng đầu nhìn sơ đồ bàn tay trong sách, ngón tay miết chặt lên lòng bàn tay tôi như để định vị những chỗ phải khắc, rồi chọc thẳng mũi kim vào vị trí chính giữa ngón cái và ngón trở, cây kim cứ thế lún sâu vào da thịt, dung dịch màu xanh tại vị trí đó cũng lập tức biến mất. Nhã Kỳ ngẩng lên nhìn tôi mỉm cười và dịu dàng hỏi:
- Chị Lan Lan, chị có đau không?
Thấy kỳ lạ, rõ ràng là mũi kim chọc sâu vào lòng bàn tay mà tôi lại không hề cảm thấy đau đớn gì cả, mà chỉ cảm thấy hơi tê mát như có một giọt nước lạnh rỏ vào, hơn nữa cảm giác này từ từ lan rộng ra khắp bàn tay.
Đường Nhã Kỳ nhoẻn cười, tay vẫn không ngừng di chuyển mũi kim với tốc độ rất nhanh. Chỉ khoảng vài phút sau, tại vị trí giữa ngón cái và ngón trỏ đã xuất hiện một vết sẹo hình móng ngựa màu trắng, giống y hệt trong sách.
Vẫn theo phương pháp đó, gần một tiếng đồng hồ sau, Nhã Kỳ đã khắc xong sơ đồ lên bàn tay phải của tôi, rồi dùng một chiếc khăn sạch lau qua, lòng bàn tay vẫn trắng nguyên mà không hề nhìn thấy một vết sẹo hay lỗ kim nào.
Lão Ngũ gật đầu lia lịa nói:
- Hay, hay, phương pháp này thật kì diệu. Ha ha ha… Hay đấy, hay đấy!
Tiếp đó, Đường Nhã Kỳ tiếp tục xăm sang bàn tay bên trái, sau đó cô bôi một loại chất lỏng trong suốt lên hai bàn tay tôi, phủ một lớp nilông bọc rồi cẩn thận dặn dò:
- Chị Lan Lan, trong ba ngày tới chị không được chạm tay vào nước, cũng không được ăn hải sản đâu nhé!
Tôi giơ hai tay lên ngắm nghía, lòng có chút lo lắng, không biết những đường khắc này có hoàn toàn ẩn vào trong như lời Đường Nhã Kỳ nói không?
Trên đường trở về, Lão Ngũ không ngừng lẩm bẩm, Tiểu Đường quả không hề đơn giản, đặc biệt là phương pháp khắc chìm của Đường Nhã Kỳ, càng nhìn càng thấy thú vị. Tôi không đáp lại, chỉ cúi đầu nghĩ ngợi lung tung, tôi luôn có cảm giác Đường Nhã Kỳ có một bí mật gì đó rất kinh khủng, nhưng lại không thể nào giải thích được lí do vì sao có cảm giác đó.
Buổi tối một ngày sau đó, chị Giai Tuệ đột ngột dẫn Đường Nhã Kỳ đến căn biệt thự, và nói có một việc hết sức kì quặc. Sau khi mọi người đã ngồi vào vị trí, Đường Nhã Kỳ bắt đầu kể lại: Buổi sáng ngày hôm nay, có một cô gái trẻ nói giọng Cẩm Châu tới cửa hàng, đem theo một miếng gỗ hồng mộc bên trên khắc hình rồng nhờ cô xem hộ. Lúc đó, vừa liếc qua cô ấy đã nhận ra, hình rồng trên tấm gỗ đó là sản phẩm của thuật khắc hình, hơn nữa cũng rất cũ, sau khi cô gái đó rời khỏi cửa hàng, cô đã gọi điện luôn cho chị Giai Tuệ.
Nghe những lời kể của Đường Nhã Kỳ, tất cả chúng tôi đều cảm thấy hết sức ngạc nhiên, tại sao lại đột nhiên xuất hiện thêm một vật khắc hình nữa chứ? Liệu hai vật này có mối quan hệ gì với nhau không, cô gái đó rốt cuộc là ai? Để tiện cho việc trao đổi và bàn bạc, chị Giai Tuệ đã thuyết phục Đường Nhã Kỳ ở lại với chúng tôi.
Hai ngày sau đó, tôi và Đường Nhã Kỳ ban ngày thì dính nhau như hình với bóng, say sưa kể cho nhau nghe đủ thứ chuyện trên trời dưới biển; tối đến thì ngủ cùng phòng, cảm giác như thân thiết với nhau từ rất lâu rồi. Khi biết chuyện tôi đã từng xuống lòng Cố Cung Thẩm Dương, Nhã Kỳ tỏ ra rất ngưỡng mộ, và nói rằng sau này có cơ hội nhất định sẽ phải tới đó một lần cho biết.
Đến tối ngày thứ ba, Đường Nhã Kỳ đã giúp tôi bóc lớp nilông trên hai bàn tay ra, kiểm tra lại và tự hào tuyên bố mọi thứ rất hoàn hảo. Cô còn nói với tôi, sau này nếu như cần dùng tới nó, chỉ cần miết thật mạnh lên lòng bàn tay, màu mực sẽ dần dần hiện lên, thậm chí còn có thể đục lỗ lên đó, thế nhưng thời tiết đang rất lạnh, trong thời gian đầu tốt nhất là nên đeo bao tay.
Đúng lúc này, chị Giai Tuệ đẩy cửa bước vào, dáng vẻ rất vội vã, thậm chí còn không kịp thay giầy, chị hớt hải thông báo với chúng tôi một tin cực kì sốt dẻo:
- Mau đi với chị, đã tìm thấy cô gái cầm mảnh gỗ rồng đó rồi!
Chị Giai Tuệ lái xe đưa chúng tôi tới nhà chị, rồi vội vàng đi ra ngoài, một lúc sau, chị trở về dẫn theo một cô gái trạc tuổi chị. Chị Giai Tuệ giới thiệu với chúng tôi, đây là người bạn học từ hồi ở Học viện Cảnh sát của chị, tên là Tiêu Vy, hiện chị ấy đang công tác tại phòng cảnh sát điều tra thành phố Cẩm Châu, trước đây không lâu cũng gặp một sự việc hết sức kì lạ.
Lúc đó, tôi hoàn toàn không hình dung được sự việc kì lạ mà Tiêu Vy gặp phải lại có mối liên quan trực tiếp tới tôi, thậm chí cả Đường Nhã Kỳ cũng không tránh khỏi liên lụy, đồng thời nó còn gây ra rất nhiều sự việc kì bí khác nữa.
Chiếc đĩa sứ Thanh Hoa và mảnh gỗ rồng chắc chắn là có liên quan đến nhau và là manh mối duy nhất liên quan đến bí ẩn ở địa cung. Tuy chúng tôi đã cố vắt óc liên kết những sự việc bí ẩn với nhau, nhưng vẫn tuyệt nhiên không thể lần ra sợi dây xuyên suốt để đưa ra lời giải thích hợp lí. Càng tìm hiểu càng thấy rối rắm.
Một lúc sau, chúng tôi quay trở về ngôi biệt thự. Theo chỉ thị của cấp trên, hiện giờ chúng tôi cần suy nghĩ để ghép nối mọi chuyện lại với nhau và kiên nhẫn đợi đến ngày mười chín tháng Hai âm lịch để đến động Lão Mẫu ở Bắc Trấn.
Chị Giai Tuệ có rất nhiều việc phải giải quyết ở Cục Cảnh sát, nên cách ba đến năm ngày mới tới thăm chúng tôi một lần. Lão Ngũ cũng ở bên ngoài cả ngày, không mấy khi chịu ngồi yên ở nhà, tôi thực sự không rõ lão đang bận rộn chuyện gì. Tôi ở nhà cả ngày không biết làm gì, liền lôi bản phôtô của Giải kiện tập lục mà chị Giai Tuệ đã phiên dịch cho tôi, càng đọc tôi càng thấy trong đó có rất nhiều điều kì diệu mà trước đây ông nội vẫn chưa kịp dạy cho tôi.
Thời gian trôi qua thật nhanh, chớp mắt một cái đã tới ngày mười bốn tháng Hai âm lịch. Tối ngày hôm đó, Trưởng phòng Tư, Trần Đường và Tôn Ngọc Dương cùng tới thăm chúng tôi. Sau khi ăn cơm xong, Trưởng phòng Tư mới thông báo, hai ngày nữa chúng tôi sẽ lên đường tới Bắc Trấn, để bảo đảm an toàn, cấp trên đã quyết định để chúng tôi đi bằng tàu hỏa, tới nơi sẽ có cảnh sát Bắc Trấn phối hợp bảo vệ.
Nghĩ đến việc sắp quy vị được tấm Kiện bài để trở thành người mở khóa thực thụ, tôi thấy vô cùng phấn khích, chỉ tiếc không mọc được cánh để bay tới đó ngay bây giờ.
Khi mọi người đã về hết, Lão Ngũ kéo tôi và chị Giai Tuệ vào phòng. Lão lôi từ dưới gầm giường ra một bọc vải, bên trong lại là chuỗi vòng Ô Kim, gương Dạ Minh, lưỡi gươm mỏng và một vài thứ cổ quái khác mà tôi không biết tên.
Tôi trợn tròn mắt ngạc nhiên vô cùng, những vật này không phải đã bị mất ở dưới lòng địa cung rồi hay sao, tại sao chúng lại nằm trong tay Lão Ngũ?
Tôi sực nghĩ rằng, có thể Lão Ngũ đã giấu chúng tôi để tới địa cung một lần nữa.
Thấy chúng tôi vẫn ngơ ngác chưa hiểu gì, Lão Ngũ ngửa cổ cười ha hả, rồi nói rằng gương Dạ Minh gồm có hai chiếc, ngày xưa sư phụ trao lại cho lão và em trai lão là Hắc Lão Tam. Mấy ngày trước lão đã đến mượn em trai, lần đến động Lão Mẫu này nhất định sẽ phải dùng đến.
Tôi khẽ gật đầu, trong lòng tự nhủ, Lão Tam chắc chắn cũng là một nhân vật khá lợi hại, nhưng vẫn thấy khó hiểu, tại sao Lão Ngũ lại rất ít khi nhắc đến ông ấy.
Ánh trăng đêm Luận Đạo
Bốn giờ rưỡi chiều ngày hôm sau, Trưởng phòng Tư và mọi người đếu tiễn chúng tôi lên chuyến tàu nhanh số hiệu 1171 xuất phát từ Cáp Nhĩ Tân, trước khi đi ông còn dặn dò chúng tôi kĩ càng, phải hết sức cẩn thận, nhất định không được để xảy ra sai sót không đáng có.
Tàu vừa chuyển bánh không lâu, ngoài trời cũng tắt nắng và bắt đầu tối dần, mọi người trên tàu lũ lượt kéo nhau đi ăn cơm tối, tôi cũng có cảm giác hơi đói, nên quyết định đứng dậy đeo balô đi mua đồ ăn. Đúng lúc đó, từ đầu đằng kia có một người đàn ông khoảng hơn năm mươi tuổi, mặc một chiếc áo khoác lông vũ màu xám đang tiến tới phía chúng tôi, trên tay cầm một bát mì tôm đang bốc khói nghi ngút.
Người đàn ông trọc đầu bước tới trước mặt chúng tôi, liền dừng bước, gương đôi mắt nhìn chằm chằm vào Lão Ngũ, miệng hơi run run, thái độ rõ ràng là đang rất hốt hoảng. Dừng lại một lúc, ông ta đặt vội bát mì lên bàn, đưa bàn tay trái ra trước mặt, rồi chụm ba ngón tay trỏ, ngón tay giữa và ngón áp út của bàn tay phải lại, sau đó gõ vào lòng bàn tay trái ba cái, tiếp tục úp lòng tay trái xuống rồi làm tương tự như vừa xong.
Tôi hết sức ngạc nhiên quan sát người đàn ông này, không hiểu nó có nghĩa là gì. Lão Ngũ ngồi phịch xuống ghế, nở nụ cười khoái chí, đồng thời lão cũng làm những động tác giống như vậy, chỉ có điều là năm ngón tay phải gõ vào lòng và mu bàn tay trái năm cái.
Tôi ngẩn người thắc mắc không hiểu hai người này đang làm cái trò gì. Nhưng chắc chắn một điều là họ có quen biết nhau. Tôi đang định lên tiếng hỏi thì chị Giai Tuệ đã dùng ánh mắt ra hiệu không được lên tiếng.
Người đàn ông trọc đầu hơi khom người tiến về phía trước, khẽ cất tiếng:
- Cách giới tử song sỗ nhỉ lãnh tương, phí nhẫm khởi gia tử tái liêu.
Nghe thấy ông ta nói vậy, tôi cũng đã kịp thời phản ứng lại. Ngày trước ông nội cũng đã dạy tôi ngôn ngữ của dân xã hội đen trong giới giang hồ, đại ý người đàn ông đó nói rằng: “Hai đứa con gái đứng cạnh là người lạ, tìm một chỗ khác để nói chuyện”. Từ sỗ nhi là cách gọi rất coi thường dành cho phái nữ, còn phái nam gọi là ngưu nhi.
Lão Ngũ lắc lắc đầu nói:
- Đồng trường nhất thế, bả thủ bối cân miêu tử. - Có nghĩa là, chúng tôi đi cùng nhau, toàn là đệ tử ruột.
Người đàn ông ngớ ra một lúc, rồi mới chắp tay trước ngực chào tôi và chị Giai Tuệ, quay sang hạ giọng nói với Lão Ngũ:
- Lục Tam diện kiến Lão Ngũ, lão… lão đã ra từ khi nào ạ?
Lão Ngũ e hèm một tiếng, rồi nói thầm thì vào tai người đàn ông điều gì đó. Người kia gật gật đầu, rồi cũng tiến sát tới thì thầm to nhỏ vào tai Lão Ngũ.
Lão Ngũ chăm chú lắng nghe, hai con ngươi cũng đảo liên tục, như đang suy tính điều gì, sau đó lão mới khẽ gật đầu.
Tôi ngó nghiêng sang hai bên, ngồi ở phía đối diện là một người đàn ông to béo, chừng hơn ba mươi tuổi, tôi để ý từ lúc chúng tôi bước lên tàu, anh ta gục mặt lên bàn ngủ say sưa, trên cổ đeo một chiếc dây chuyền vàng nặng trịch. Ngồi bên cạnh là một thanh niên trẻ tuổi, đang cúi đầu say mê đọc một cuốn sách tên là Cố sự hội.
Lục Lão Tam khẽ gật đầu, rồi từ từ đứng thẳng lên, nhẹ nhàng cởi chiếc áo khoác bên ngoài ra, vòng qua đầu tên béo đang ngủ. Sau đó, ông ta dùng chiếc áo khoác che phía bên ngoài, vừa nhìn về phía Lão Ngũ vừa đưa cánh tay ra, thoáng chốc bàn tay đã cầm gọn chiếc dây chuyền vàng. Tôi quay sang nhìn lại tên béo vẫn đang ngủ ngon lành, nhưng trên cổ đã trống trơn.
Lão Ngũ khẽ mỉm cười, gật gật đầu và nói:
- Tay nghề khá lắm, hay đấy, hay đấy! - Nói rồi, lão chỉ bát mì tôm trên mặt bàn.
Người đàn ông trọc đầu liếc sang, tay chân vặn vẹo vài cái rồi mặc lại chiếc áo lên người. Lần này các động tác của ông lại rất chậm, chiếc áo vòng qua mặt bàn, dừng lại năm sáu giây rồi mới từ từ khoác lên người.
Tôi như bị thôi miên nhìn theo những động tác của người đàn ông này, bỗng nghe chị Giai Tuệ hắng giọng ho khẽ vài tiếng, rồi nhìn thẳng vào bát mì trên bàn. Tôi hoảng hốt phát hiện ra, lớp giấy bọc trên miệng bát mì đã biến mất, sợi mì và nước mì cũng không cánh mà bay, chỉ còn bốc lên làn khói mỏng. Tôi há hốc miệng, cảm thấy mọi việc đang diễn ra một cách hết sức thần kì, mà mắt thường không thể nhìn thấy, bát mì đang bốc khói nghi ngút như thế, tại sao lại có thể biến mất dễ dàng như vậy? Thế nhưng tôi cũng dần dần nhận ra, nhìn điệu bộ của hai người, xem ra Lão Ngũ đang thử bản lĩnh của người đàn ông kia.
Lão Ngũ vừa vuốt chỏm râu vừa lẩm bẩm, “hay đấy, hay đấy”. Rồi lão nắm lấy bàn tay phải của người đàn ông kia, dùng bốn đầu ngón tay của mình gõ lên lòng và mu bàn tay người đó bốn lần, sau đó vẫy vẫy tay, nói:
- Đi đi!
Người đàn ông có vẻ rất cảm động, ôm chặt lấy Lão Ngũ, giọng run run:
- Cảm… cảm ơn Ngũ gia, Lục Tam tôi… Lục Tứ tôi sẽ chờ Ngũ gia tại động Lão Mẫu. - Nói rồi, ông quay sang nhìn tôi và chị Giai Tuệ, khẽ gật đầu chào, rồi mới cầm bát mì trống không đi qua.
Chương 31:
Thấy người đàn ông đầu trọc đã đi xa, tôi lập tức hỏi Lão Ngũ, vừa xong chuyện gì vừa xảy ra, người đó là ai? Lão Ngũ nói nhỏ với tôi, Lục Lão Tam chính là trưởng môn Đạo phái tại Hắc Long Giang. Lục Lão Tam đã đạt tới trình độ cao và cũng tới Lư sơn Luận Đạo. Những người trong phái Đạo môn khi gặp nhau thường sẽ chào nhau bằng một nghi thức gọi là Chỉ khấu, đưa số ngón tay đúng với cấp bậc đang có, rồi gõ lên lòng và mu bàn tay để thay cho lời chào. Đã hai mươi năm không gặp mà bản lĩnh của tên đệ này đã tiến bộ vượt bậc, nên tự ta đã tăng cho hắn một bậc.
Nghe thấy vậy, tôi vội vàng hỏi:
- Lão Ngũ, vậy là ông ta chỉ thấp hơn lão một bậc?
Lão Ngũ phì một tiếng, xoa xoa chiếc cằm rồi bĩu môi nói:
- Mẹ kiếp, một bậc này cũng đủ cho hắn luyện đến khi chết.

Chúng tôi vẫn đang thì thầm to nhỏ với nhau, thì gã béo đối diện bỗng nhiên la toáng rồi nhảy cẫng lên, lộn chiếc mũ áo ra trước để đổ đống mì đang nóng hôi hổi xuống đấy, chửi ầm ĩ:
- Mẹ kiếp, thằng nào mất dạy thế… - Khiến tất cả mọi người trên khoang tài đều cười khoái chí.
Tôi và chị Giai Tuệ trao nhau một ánh mắt đầy ngụ ý, tự cảm thấy Lục Lão Tứ quả là một người lợi hại, bát mì nóng như thế lại có thể đổ vào mũ áo của gã béo kia mà không ai hay biết, đây có lẽ chính là thuật Thiết lưu mà Lão Ngũ đã từng biểu diễn cho chúng tôi xem.
Tàu chạy được hơn hai tiếng, khoảng sáu giờ năm mươi phút chúng tôi đã tới huyện Câu Bang Tử thuộc thành phố Bắc Trấn, ngoài trời đã tối om.
Vừa bước ra khỏi nhà ga, cả một đám người ùn ùn kéo tới mời chào đi taxi và cho thuê nhà nghỉ. Một mụ đàn bà khoảng tầm trung niên mắt xanh mỏ đỏ trông như yêu tinh vội lao tới kéo mạnh tay áo Lão Ngũ và uốn éo mời chào:
- Sư phụ, sư phụ, nghỉ nhà em nhé, nhà em có bảo kiếm.
Lão Ngũ liền trừng mắt vỗ lên thắt lưng, mặt lạnh tanh đáp:
- Mẹ kiếp, bảo kiếm ta cũng có, nhà cô có bảo đao không?
Thấy thái độ dữ tợn của Lão Ngũ, bà ta liền phụng phịu, ngúng nguẩy bỏ đi, rồi tiến tới mời chào người đàn ông khác.
Tôi ngơ ngác hỏi chị Giai Tuệ:

- Ở đây bán bảo kiếm á, hay chúng ta mua một cái về làm kỉ niệm?
Chị Giai Tuệ cười khúc khích, ghé sát vào tai tôi nói nhỏ vài câu. Mặt tôi bỗng đỏ bừng bừng, thì ra đó là bảo kiện[1]! Mặc dù tôi không hiểu lắm, nhưng chắc chắn nó mang một ý nghĩa không hay ho cho lắm.
[1] Dịch vụ gái gọi.
Chúng tôi tìm một nhà nghỉ để nghỉ tạm một đêm. Sau khi ăn cơm tối xong, mọi người tập trung tại một phòng để nói chuyện. Lão Ngũ khoanh chân trên giường, xoa xoa cằm rồi không ngừng lắc đầu thở dài. Tôi thấy thắc mắc liền hỏi lão có chuyện gì.
Lão thở dài thườn thượt, nói về chặng đường tu luyện để đạt được cấp năm, giờ muốn tiến thêm một bậc nữa, nhưng sẽ rất mất sức, hai mươi năm trời khổ luyện mà cũng không tăng được bậc nào, lại còn mất thêm mười mấy năm ngồi trong tù.
Tôi thấy có chút tò mò, liền hỏi lão:
- Lão Ngũ, lão ngồi tù không phải là để tu luyện đấy chứ?
Lão Ngũ liếc sang tôi, cười khoái chí và chỉ khẽ gật đầu mà không nói gì. Tôi và chị Giai Tuệ quay sang nhìn nhau, không hiểu vì sao Lão Ngũ lại phải làm như thế.
Một lúc sau, Lão Ngũ mới thao thao bất tuyệt kể cho chúng tôi:
- Tên Lục Tứ gặp lúc chiều trên tàu, cũng được coi là một tên có chí, nhưng vẫn chẳng là gì… mẹ kiếp, ý chí của ta còn hừng hực hơn thế…
Nói đến đây, đôi mắt lão trở nên sáng quắc, rồi nhảy tót từ trên giường xuống đất, buông hai chân trần đứng dưới sàn nhà rồi nói với tôi:
- Nhóc con, lúc còn ở dưới lòng Cố Cung ta đã nghĩ rằng, ta không thể để Đạo môn thất truyền ngay dưới tay ta được, hay là… Lão Ngũ này nhận mi làm đệ tử. Mi thấy sao?
Thấy ánh mắt ngập tràn niềm hi vọng của lão, lúc đó thực sự tôi cũng thấy xiêu lòng và phấn khích vô cùng, nên đã lập tức đồng ý trả lời:
- Vâng ạ! - Nói rồi, tôi liền cúi gập người bái Lão Ngũ làm sư phụ.
Lão Ngũ đỡ tôi đứng dậy, rồi cười tít, hai mắt như nhắm tịt cả lại, lão xoa đầu tôi, nói:
- Tốt lắm, mi yên tâm, ta nhất định sẽ truyền lại cho mi tất cả những kinh nghiệm và khả năng của mình. Trước tiên là dạy cho mi ba chiêu.
Thì ra trước khi được nhận làm đồ đệ của Đạo môn, sư phụ sẽ đưa ra ba thử thách, và cũng là ba loại Bả Thế, để kiểm tra khả năng của đồ đệ, nếu vượt qua được thì người đó mới được nhận vào. Tôi vội hỏi lão đó là ba chiêu gì, Lão Ngũ cười ha hả rồi chỉ ra bệ cửa.
Tôi quay đầu nhìn sang, trên cửa sổ bày một chậu hoa thủy tiên, đang nở hơn chục bông hoa. Lão Ngũ xỏ dép rồi tiến tới ngắt một bông, sau đó quay người lại, ánh mắt như ngầm nói rằng hãy quan sát thật kỹ.
Tay trái lão cầm cuống hoa, bên tay phải bốn ngón duỗi thẳng, nhẹ nhàng vuốt qua các cánh hoa, rồi quay trở lại, một cánh hoa lập tức biến mất. Lão tiếp tục thực hiện thêm sáu lần, thì sáu cánh hoa cũng lần lượt không cánh mà bay, chỉ còn sót lại phần nhụy hoa.
Lão Ngũ ngửa tay lên, trên đầu ngón tay dính sáu cánh hoa, lại còn xếp thành một hình tròn trịa.
Tôi và chị Giai Tuệ cùng đồng thanh thốt lên:
- Bả Thế của Lão Ngũ thật tuyệt vời.
Lão Ngũ cười khoái chí hỏi tôi:
- Nhóc con, mi đoán xem đây là Bả Thế gì?
Tôi nghĩ một lúc, vội lên tiếng:
- Là hái hoa?
Câu trả lời của tôi khiến chị Giai Tuệ cười nắc nẻ, Lão Ngũ thì tỏ vẻ tức tối, sầm mặt xuống.
- Con nhóc chết tiệt này, làm mất mặt Lão Ngũ này quá, từng này tuổi rồi còn hoa hoét gì… - Dừng lại một lúc, lão mới nói. - Đây là chiêu Niêm hoa, mục đích là thử khả năng của các đầu ngón tay. Mẹ kiếp, đạo vật không đạo hương… tạm thời thế, giờ cho các ngươi xem chiêu thứ hai.
Lão Ngũ nhờ chị Giai Tuệ rút từ chiếc ga giường ra hơn chục sợi vải có màu sắc khác nhau, rồi buộc thành một túm. Tay trái kẹp một đầu túm sợi vải, chỉ để lộ ra một đoạn rất ngắn, tay phải đập mạnh xuống, sau đó lại nhanh chóng nhấc lên, một sợi vải màu xanh cũng bị rút theo, giống như dính liền với lòng bàn tay.
Bàn tay phải của lão thoăn thoắt, vỗ xuống liên hồi… bộp bộp bộp… mỗi lần dừng lại là một sợi vải theo đó bị rút ra, chỉ một thoáng sau, tất cả chỗ sợi vải đều lần lượt bị rút ra khỏi lòng bàn tay trái.
Lão ngửa bàn tay phải lên, tôi vươn cổ ngó tới, thì ra hơn chục sợi vải đó kẹp ở giữa lòng bàn tay, trong một đường rãnh hình vòng cung đều tăm tắp, đang bay phấp phơ, mà không một sợi rơi xuống. Lão nói với chúng tôi, đây chính là chiêu thứ hai, gọi là Đề tơ dùng để thử khả năng của lòng bàn tay.
Tôi tò mò sờ vào lòng bàn tay lão, cảm giác các đường chỉ tay sâu hơn của người bình thường, giống như bị dao cứa tạo thành đường vậy, hơn nữa chúng còn được phân thành nhiều tầng nhánh nông sâu chi chít, giống như một màng nhện thu nhỏ vậy.
Lão Ngũ nắm chặt bàn tay lại rồi nói:
- Hai chiêu vừa rồi mới chỉ là cơ bản, đến chiêu thứ ba khó hơn một chút. - Lão bảo tôi tháo chiếc nhẫn trên ngón tay ra, ngắm nghía kỹ càng, rồi cầm một tờ báo đang đặt trên bàn uống nước lên, xé thành nhiều mảnh, sau đó đặt chiếc nhẫn vào bên trong, vo thành một nắm ném vào trong chiếc gạt tàn, rồi đốt thành tro.
Trong lúc tôi vẫn chưa hiểu Lão Ngũ định làm trò gì, thì lão từ từ đưa bàn tay phải ra, úp lòng bàn tay lên chiếc gạt tàn rồi khẽ lắc nhẹ vài cái, sau đó mới từ từ kéo tay lại. Chiếc gạt tàn khẽ rung lên rồi xuất hiện vài vết nứt nhỏ, nhưng không tách ra.
Tôi đang định hỏi lại, thì Lão Ngũ đã cười hề hề, rồi lật tay lên, chiếc nhẫn đã nằm gọn trong lòng bàn tay lão. Lòng bàn tay và cả chiếc nhẫn đều không bị dính tàn tro, mà vẫn sạch sẽ như chưa hề động vào đó.
Tôi ngỡ ngàng đến mức phải thốt lên tán thưởng, vội vàng lao tới cầm lấy chiếc nhẫn, cảm thấy vẫn còn hơi nóng tay, chắc chắn là vừa được lôi từ trong lửa ra.
Lão Ngũ tỏ vẻ đắc ý, xoa cằm và nói:
- Hai nhóc, đã nhìn thấy chưa, đây chính là chiêu thứ ba gọi là Xuyên khôi.
Tính cách Lão Ngũ đã nói là phải làm luôn, nên sau khi thực hiện xong ba chiêu, lão lập tức dạy và giải thích cho tôi thật tỉ mỉ về ba chiêu vừa xong. Tôi loay hoay mãi mà vẫn không làm được cảm thấy mình thật chậm chạp và vô tích sự. Nhưng lão lại tỏ ra hứng chí và thích thú, nói rằng bây giờ không thực hiện được là điều bình thường, chỉ cần nắm được vấn đề cơ bản và thực hiện đúng cách thôi đã là tốt rồi, sau này từ từ tập luyện chắc chắn sẽ lợi hại không kém.
Cả đêm đó không ai nói với ai câu nào, sáng sớm ngày hôm sau, chúng tôi dậy từ rất sớm, thuê một chiếc xe vào trong trung tâm Bắc Trấn. Đây là một thị trấn bé xíu nghèo nàn chẳng có gì đáng xem, chị Giai Tuệ hỏi đường tới phòng cảnh sát Bắc Trấn, rồi dẫn chúng tôi tới gặp trưởng phòng ở đấy.
Vị trưởng phòng đó họ Lưu, do đã nhận được chỉ thị của cấp trên, hơn nữa tôi và chị Giai Tuệ dù sao cũng là cảnh sát hình sự trên tỉnh, cũng coi như là cấp trên, nên thái độ của anh ta rất nhiệt tình, lập tức điều quân thu xếp cho chúng tôi ở một khách sạn tốt nhất và hỏi chúng tôi về những kế hoạch trong những ngày tới.
Vừa biết chúng tôi sẽ tới động Lão Mẫu, anh ta không có ý kiến gì, mà chỉ với chúng tôi, hàng năm trước và sau ngày mười chín tháng Hai âm lịch, có rất nhiều du khách tới đây dâng hương và bái đức Thánh mẫu, trung bình khoảng mười nghìn lượt khách mỗi năm. Hôm nay đã là ngày mười tám, cả phòng cảnh sát đã tập trung lực lượng, để đảm bảo ngày hội diễn ra trong trật tự và an toàn. Đây cũng được coi là một thắng cảnh thu hút đông người đến đây, nên chúng tôi phải thay đồ cảnh sát, để tránh sự nghi ngờ của những người tham dự lễ hội.
Sau khi bàn bạc ổn thỏa thì đã đến giữa trưa, mọi người cùng nhau đi ăn cơm, Trưởng phòng Lưu mời chúng tôi tới khách sạn dùng bữa, còn có thêm một vị phó phòng đi cùng.
Sau đó, chúng tôi về khách sạn nghỉ ngơi, ngủ trưa xong ngoài trời đã tối, ăn tối xong xuôi, chúng tôi đều mang theo vật dụng cần thiết theo mình, rồi nhờ vị phó phòng lái xe đưa chúng tôi tới miếu Bắc Trấn nằm ở phía tây. Để người đó đứng đợi ở ngoài, cả ba chúng tôi cùng nhau đi vào miếu.
Miếu Bắc Trấn là một ngôi miếu thờ thần linh khá linh thiêng, phía sau miếu dựa sát vào núi, miếu có diện tích rất rộng lớn, trước mặt là những bậc thang bằng đá chạy từ hướng Nam cao dần tới hướng Bắc, khí trời đang rất trong lành thoáng đãng, giờ lại bắt đầu có tuyết rơi, ánh trăng cũng đang lạnh lùng chiếu sáng khắp mọi nơi, trừ những bông tuyết rơi ra khung cảnh tĩnh mịch một cách bất thường, khiến cho tôi bất chợt có cảm giác thê lương vô cùng.
Mặt trước của ngôi miếu là một khoảng không rất rộng, ở giữa là cổng đá sáu cột màu trắng, phía sau là tượng bốn con vật bằng đá với hình hài rất kỳ lạ, dưới ánh trăng chúng im lìm in bóng xuống mặt đất. Bốn con vật bằng đá rất lớn, đang há miệng giương móng vuốt, bề mặt đá đã điểm nhiều vết rong rêu và nứt nẻ, mỗi con mang một trạng thái khác nhau, nhưng đều rất hung dữ. Tôi thấy chúng có vẻ giống sư tử nhưng nhìn kỹ lại trông giống những con chó khổng lồ.
Lão Ngũ nhón chân bước tới, ngó nghiêng nhìn ra bốn phía xem xét tình hình, khi đã chắc chắn xung quanh không có người, lão mới chỉ tay vào bốn bức tượng đá và khẽ nói:
- Hai đứa biết không, bốn con vật này vốn tượng trưng cho Hỉ Nộ Ai Lạc, chúng là bốn con sư tử đá. Dựa vào những điều ghi trong cuốn Giải kiện tập lục thì chúng ta phải tìm cho ra chiếc chìa khóa mở động Lão Mẫu giấu bên trong miệng các con sư tử này.
Tôi khẽ gật đầu, rồi lập tức tiến tới trước một bức tượng để quan sát kỹ hơn. Tôi phát hiện thấy dưới chân con sư tử là một phiến đá hình chữ nhật, một mặt được nối liền một khối với con sư tử, mặt dưới lại liền với mặt đất, có thể là từ lúc xây dựng, người ta đã cố tình để lại bốn tảng đá lớn, rồi mới từ từ khắc chúng. Thế nhưng công trình này có vẻ cũng rất đồ sộ và công phu khi dành hẳn một khoảng rộng lớn như vậy chỉ để bày bốn con sư tử đá.
Sau khi xem xét phía ngoài không có gì đáng ngờ, chị Giai Tuệ mới ngồi xuống để tôi trèo lên vai, bước lên bục đá, tay bám chặt vào đầu sư tử. Áp sát người vào bức tượng, tôi từ từ thò vào bên trong miệng con sư tử để cố gắng tìm ra chiếc chìa khóa. Tôi thấy phía bên trong miệng không hề gồ ghề như tôi nghĩ, mà hết sức nhẵn nhụi, chắc chắn là nó đã được mài rất kĩ.
Cho tới khi cả cánh tay đã thọc sâu vào bên trong, đầu ngón tay vừa chạm tới vị trí cuống họng, thì tôi chợt phát hiện ra phía trong cuống họng có một vòng khuyên to bằng miệng bát, qua đánh giá ban đầu, tôi nghĩ nó làm bằng kim loại. Thử kéo vòng tròn đó về phía mình, nhưng không có phản ứng gì. Tôi nhảy xuống, tiếp tục đi tới ba con sư tử còn lại để kiểm tra lại, thì ra bên trong họng của chúng đều có cấu tạo giống y hệt nhau, hơn nữa đây có thể chính là bí mật.
Tôi nói lại tình hình cho Lão Ngũ và chị Giai Tuệ, Lão Ngũ liền vỗ vai tôi nói rằng:
- Vậy thì không mau giải quyết nó đi, còn lề mề gì nữa. Luận Đạo cũng sắp diễn ra rồi, không nhanh tay lên thì không còn lúc nào nữa đâu.
Tôi không dám chần chừ thêm một phút giây nào nữa, lập tức chọn một con sư tử đá, lấy ra một chiếc kim móc từ trong túi, cẩn thận cào vào trong miệng nó. Thế nhưng cho dù tôi có dùng cách nào đi chăng nữa, thì trong miệng sư tử đá cũng không có một chút động tĩnh gì, chiếc vòng sắt kia như được gắn cố định vào trong họng. Tôi bắt đầu cuống lên, chuyển sang ba con còn lại thử xem sao, kết quả vẫn không có gì thay đổi.
Thời gian cứ thế mải miết trôi đi, chẳng mấy chốc đã hết một tiếng đồng hồ loay hoay với bốn tượng sư tử, mà tôi vẫn không tìm ra manh mối nào. Lão Ngũ cũng thật là phiền phức, liên tục quay sang chị Giai Tuệ hỏi giờ, rồi quay lại giục tôi, khiến tôi càng thêm rối trí, mồ hôi vã ra đầm đìa.
Thấy bốn bức tượng sư tử vẫn đứng yên bất động, tôi cố gắng nghĩ lại thật tỉ mỉ những thao tác vừa xong, xem rốt cuộc mình đã thực hiện sai ở bước nào? Những bông tuyết rơi mỗi lúc một dày hơn, chúng bay cả vào trong cổ áo tôi, lập tức tan thành nước lạnh toát, tôi cố gượng để không rét run lên cầm cập. Lập tức dựng cổ áo lên, rồi vô thức ngẩng cổ nhìn lên.
Bầu trời vẫn một màu xám xịt, dưới ánh trăng sáng những bông tuyết rơi dày như những đường kẻ sọc từ trên trời xuống, cảnh tượng rất đẹp và nên thơ. Bỗng nhiên, tôi sực nhớ ra, liền cúi xuống nhìn về với bốn bức tượng sư tử đá. Tôi thấy chúng đều đang ngẩng mặt lên trời, hai hàm há rộng tạo thành một góc chéo, hướng thẳng lên đỉnh cổng đá.
Tôi bước tới đứng dưới cổng đá, hơi kiễng chân nhìn lên, đó là một phiến đá hình chữ nhật, ở giữa khảm một vật hình cầu tròn, ánh trăng giống như rọi qua một lớp lưới, rõ ràng đó là một khối rỗng.
Tôi liền gọi Lão Ngũ tới, lão cũng ngẩng đầu quan sát kỹ lưỡng, sau đó tự gõ lên đầu mình một cái rồi nói:
- Cổ ngữ nói Long thốn cầu, sư thưởng cầu. Bên trong quả cầu đó chắc chắn cất giữ điều gì đó, hay đấy, hay đấy!
Nói rồi, Lão Ngũ lùi ra sau vài bước, rồi lao lên phía trước, một chân đạp thật mạnh lên cột đá lấy đà rồi lập tức búng người nhảy lên cao, lão bám vào giữa lưng chừng cột đá rồi leo dần lên trên giống như một con khỉ đang leo cây.
Lão Ngũ đu lên xà ngang, đưa một tay ra sờ lên quả cầu tròn, rồi lập tức hét toáng lên:
- Lan Lan, đến đây xem xem, có cái này rất hay! - Vừa nói hết câu, lão đã quắp hai chân vào xà ngang, đu người và dốc ngược hai tay xuống, chị Giai Tuệ đứng dưới để làm điểm tì cho tôi trèo lên, rồi Lão Ngũ cầm lấy hai tay tôi, nhấc bổng cả người tôi lên.
Lão Ngũ ôm thật chặt thắt lưng tôi từ đằng sau, để tôi có thể giữ yên vị trí. Tôi rướn cổ lên cao, mở thật to đôi mắt để nhìn cho rõ hơn. Tôi phát hiện ra quả cầu rỗng đó làm bằng đá, những đường hoa văn bọc bên ngoài hết sức tinh tế, tổng thể to gần bằng quả bóng chuyền, bên trong còn lồng thêm hai quả cầu tròn nhỏ hơn. Tôi lưỡng lự một lúc, rồi từ từ chọc đầu ngón tay qua khe hở, khoắng một vòng, hai quả cầu nhỏ bên trong liên tục chuyển động va vào nhau, phát ra những tiếng lách cách. Ánh trăng từ bên ngoài chiếu vào, sáng long lanh như hai viên ngọc.
Trong đầu tôi liên tưởng tới hình ảnh cả bốn con sư tử cùng hướng lên trên, hơn nữa ba quả cầu bên trên lồng vào nhau tạo thành một tổ hợp cầu mẫu tử, vậy là muốn biểu thị ý nghĩa gì, lẽ nào…
Tôi vẫn đang miên man trong dòng suy nghĩ, thì bỗng nhiên nghe giọng chị Giai Tuệ từ phía dưới vọng lên:
- Lan Lan, sao rồi?
Tôi vội vàng cúi xuống, đang định trả lời chị thì lập tức lặng người, phát hiện ra phía trước ngực chiếc áo da của chị Giai Tuệ có in một hình tròn màu bạc với nhiều họa tiết rất lạ mắt.
Tôi vội thốt lên:
- Chị Giai Tuệ, trên… trên… áo chị… có cái gì ý.
Chị Giai Tuệ lập tức tiến lên trước vài bước, nói:
- Cái gì? - Đúng lúc ấy, hình ảnh trên áo chị bỗng dưng biến mất.
Lão Ngũ và chị Giai Tuệ cùng hỏi lại tôi đã nhìn thấy cái gì. Bình tĩnh suy xét, tôi bỗng nhớ lại hình quả cầu to bọc hai quả cầu nhỏ phía trên đầu, liền bảo chị Giai Tuệ lùi vài bước ra sau, quay lại vị trí ban nãy.
Chị vừa đặt chân vào vị trí vừa xong, hình tròn màu bạc lại lập tức hiện ra, tôi quan sát kỹ hơn, thì ra ánh trăng xuyên qua quả cầu lớn sẽ bị cắt thành hình hai đầu sư tử nhỏ in xuống dưới.
Tôi nhìn chằm chằm, trong đầu bỗng dưng nhớ lại lời ông nội đã nói, đây là loại khóa Truy quang thấu ảnh vẫn được nhắc đến trong truyền thuyết. Loại khóa này thường được thiết kế ở những vùng hoang dã với không gian rộng lớn, mượn ánh sáng phản quang trong tự nhiên, để tạo thành một đường dẫn duy nhất, phía trước mặt là lớp tuyết trắng dày, nhưng nếu như chị Giai Tuệ không vô tình đứng đúng vào vị trí đó, cũng như không mặc chiếc áo da màu đen dễ bắt sáng thì tôi cũng không thể phát hiện ra điều đó.
Khi nghe tôi nói xong, Lão Ngũ và chị Giai Tuệ đều hào hứng vô cùng, bắt tôi phải giải thích lại tỉ mỉ hơn. Tôi nói với hai người rằng, quả cầu mẫu tử bên trên tạo thành một tổ hợp ba quả cầu lồng vào nhau, mỗi một quả cầu đều có thể xoay chuyển một trăm tám mươi độ, dựa vào bí quyết khóa vòng, thì đây chính là chiếc khóa Nguyệt ba vòng, thêm bốn chiếc vòng khác nằm bên trong miệng bốn con sư tử, gọi là khóa Phồn tinh bốn vòng, tập hợp của ba và bốn, vừa khớp với thuật Thất hoàn sao sơn xuyên. Chẳng trách trong cuốn Giải kiện tập lục có ghi chú rằng, người mở khóa nhất định phải tới miếu Bắc Trấn vào buổi tối có trăng, tìm chìa khóa ở miệng bốn tượng con sư tử đặt trước cổng.
Chị Giai Tuệ đã hiểu ra vấn đề, gật đầu lia lịa và lập tức cởi chiếc áo khoác đang mặc trên người, rồi phủi thật sạch lớp tuyết phủ trên mặt đất, để lộ ra một mặt đá đen ướt nhẹp, quả nhiên bóng hai con sư tử màu trắng bạc đang vờn nhau lập tức in hình xuống mặt đá.
Vội bảo Lão Ngũ đưa mình xuống, tôi nhanh chân bước tới trước bóng hai con sư tử, trong khi đó vẫn ra hiệu cho Lão Ngũ khẽ chuyển động hai quả cầu nhỏ phía trên. Ánh trăng chiếu qua những góc độ khác nhau, khiến cho bóng hai con sư tử bên dưới cũng liên tục nhảy nhót, lắc lư, các chân không ngừng thay đổi tư thế, rất giống hai con sư tử thật đang nhảy múa. Miệng hai con sư tử đối nhau, tạo nên một hình tròn gần bằng hai đầu ngón tay, mặc dù mặt đá đều ướt như nhau, nhưng rõ ràng tại điểm tròn đó màu sắc lúc nào cũng đậm hơn những chỗ xung quanh.
Tôi vui sướng, lập tức ngồi thụp xuống nhìn thật kỹ, thì phát hiện ra tại điểm giữa của hình tròn đó là một lỗ nhỏ, bao xung quanh đó là một đường viền rất mảnh, được bịt kín bằng đất sét. Tôi liền lấy một cây kim móc ra, khẽ chọc đầu kim sâu xuống miệng lỗ, rồi nhẹ nhàng xoáy ngược lại. Trong màn đêm tĩnh lặng, những tiếng xoẹt xoẹt của đinh ốc vang lên đều đặn, rồi tôi từ từ rút ra một thanh đá hình trụ dài gần bằng chiếc bút chì, với những bước ren xoắn đều xung quanh thân.
Lão Ngũ từ trên xà ngang nhảy phốc xuống, cầm lấy thanh đá ngắm nghía qua rồi nói:
- Mẹ kiếp, trông y như thanh củi, liệu có phải là chìa khóa không? - Lão bỗng nhiên thốt lên một tiếng “á…”, đầu thanh đá đột nhiên thòi ra một vật màu đen, hơi thuôn dài, rơi đánh cạch xuống sàn đá. Thì ra thanh đá rỗng lõi này cất giấu một vật bên trong.
Tôi vội vàng kiểm tra lại, đó thực ra là một mẩu kim loại, dài khoảng ba bốn phân, to gần bằng đầu ngón tay, ở phần đuôi có một lỗ nhỏ, tôi nhận ra nó giống y hệt với thanh kim loại mà ông nội đặt ở dưới viên gạch trong phòng ngủ. Tôi lập tức lôi nó từ balô ra để so sánh, rõ ràng là từ chất liệu cho tới hình dạng và màu sắc của hai mẩu kim loại đều không khác nhau tới một li.
Tôi cầm hai mẩu kim loại trong tay, mà vẫn cảm thấy thật khó hiểu, nếu như mẩu kim loại mà ông nội đang giữ là một chiếc chìa khóa rồi, thì tại sao ở miếu Bắc Trấn lại xuất hiện cái thứ hai, lẽ nào để mở được động Lão Mẫu thì bắt buộc phải cần có hai chiếc chìa khóa? Thế nhưng trong cuốn Giải kiện tập lục lại không hề nhắc đến vấn đề này.
Lão Ngũ ngó nghiêng suy ngẫm mãi mà cũng không tìm ra nguyên nhân, chỉ nói rằng chúng được đúc bằng gang đen, rồi giục tôi mau chóng tới chùa Thanh Nham, hội Luận Đạo sẽ diễn ra vào đúng lúc mười hai giờ đêm. Tôi lập tức nhét thanh đá về vị trí cũ, rồi cả ba người cùng chạy ra xe để tới chùa Thanh Nham.
Trên đường lúc này đã có hàng đoàn xe nối đuôi nhau, lũ lượt kéo về phía động Thanh Nham, hầu hết đều mang biển ngoại tỉnh, xem ra số lượng người đến đây dự lễ không hề ít. Đợi cho đến khi tới được cửa động tôi mới nhìn thấy dòng chữ to màu đỏ, nét chữ rồng bay phượng múa khắc ở phía trên: “Thanh Nham Thánh cảnh”.
Chúng tôi không khác gì đang chen chân tại một hội chợ, đâu đâu cũng là người và xe, tiếng la ó, tiếng còi xe rú lên inh ỏi, hai bên đường là những dãy hàng rong bán hoa cẩm bào sặc sỡ màu sắc. Thế nhưng tôi thấy rằng phong cảnh Lư Sơn về đêm vẫn hết sức hùng vĩ, các ngọn núi trập trùng nối tiếp nhau trông mới nguy nga và tráng lệ làm sao, cảnh tưởng không khác với bức tranh in trên chiếc đĩa sứ là bao. Vô số ánh đèn nhấp nháy giữa khói hương nghi ngút, tạo cho người ta cảm giác như đang lạc vào chốn tiên cảnh.
Khi vào tới một cái điện nhỏ nằm dưới chân chùa Thanh Nham, Trưởng phòng Lưu đã đợi chúng tôi ở đó. Sau khi thay đồng phục mùa đông mà họ đã chuẩn bị cho chúng tôi, chị Giai Tuệ còn yêu cầu thêm ba bộ dụng cụ chuyên dụng của cảnh sát, vì cho rằng tình hình ở trong động Lão Mẫu vẫn chưa nắm rõ, nên cứ chuẩn bị kĩ lưỡng nhỡ đâu có lúc cần dùng đến.
Chương 32:
Bộ dụng cụ chuyên dụng của cảnh sát bao gồm bảy vật dụng chính. Trên một dây lưng to bản bằng da có móc bảy chiếc túi nhỏ, lần lượt để đựng gậy, đèn pin, còng số tám, súng, hộp xịt cay, bộ đàm và một con dao. Giờ nghĩ lại, lúc đó chị Giai Tuệ suy nghĩ thật chu toàn, tưởng rằng những vật dụng này không phải dùng đến, thế mà trong quá trình ở động Lão Mẫu, chúng đã giúp chúng tôi không ít việc.
Sau khi mọi việc đã giải quyết xong, Trưởng phòng Lưu đưa chúng tôi men theo lối mòn để trèo lên đỉnh núi. Đỉnh núi Lư Sơn thẳng tắp và nhọn hoắt, các bậc đá đều hơi thuôn thuôn, hơn nữa còn rất hẹp, cộng thêm lượng du khách đến đây cũng rất đông, nên chúng tôi phải di chuyển hết sức chậm. Tôi thấy rất nhiều du khách thành tâm, cứ ba bước lại cúi dập đầu xuống bậc đá, năm bước lại quỳ lạy, mặc cho trán và đầu gối đã lấm lem và ướt nhẹp, trong ánh mắt họ vẫn toát lên vẻ sùng bái và cung kính. Tại mỗi một địa điểm lại có một cảnh sát bảo vệ, họ thấy chúng tôi đi cùng Trưởng phòng Lưu liền đứng nghiêm giơ tay chào, chắc là họ nghĩ rằng chúng tôi cũng là lãnh đạo như ông.
Khi tới một điểm gọi là Chuyển Vận dài, do đã được thu xếp từ trước, nên họ đã dành một lối riêng cho chúng tôi và Trưởng phòng Lưu để đi thông ra phía sau núi. Khung cảnh đằng sau núi lại hoàn toàn trái ngược với nơi chúng tôi vừa đi qua, mọi vật vô cùng hoang vắng và yên bình, chỉ đi thêm khoảng hơn một trăm mét nữa tiếng người phía đằng sau nhỏ dần rồi mất hẳn, chỉ còn tiếng chân chúng tôi bước trên lớp tuyết dày lạo xạo.
Lão Ngũ im lặng không nói một câu, chỉ cúi đầu tiến thật nhanh về phía trước như rất quen thuộc nơi đây. Đi thêm một đoạn nữa, chúng tôi đã tới được phía sau động Lão Mẫu, ở đây bày la liệt những bức tượng đá, bức cao bức thấp, bức đứng bức ngồi, dưới ánh trăng bàng bạc, lớp tuyết phủ dày cộp, những cơn gió vi vút thổi qua, khiến lớp tuyết tỏa ra những làn khói mỏng, mang lại cho ta một cảm giác ảm đạm đến não nề.
Tôi bỗng thấy lạnh sống lưng, liền lao tới bám sát Lão Ngũ, sau khi đi xuyên qua một phiến đá, chúng tôi tới trước một vách đá dựng đứng. Trên bề mặt phủ kín rong rêu và những cây họ dương xỉ, lá rụng hết, chỉ còn trơ lại những cành khẳng khiu, cứ mỗi đợt gió thổi qua, chúng lại phất phơ trông như những con rắn nước dưới ánh trăng.

Tôi ngẩng đầu nhìn lên, cảm thấy trong lòng có chút bất an, liền cất tiếng hỏi Lão Ngũ:
- Lão Ngũ, vách đá này cao quá, chúng ta treo lên thế nào đây? - Lão Ngũ chưa kịp lên tiếng trả lời, thì từ phía sau tảng đá lớn bên cạnh bỗng dưng xuất hiện một bóng đen, bước lạo xạo trên lớp tuyết dày, rồi lao thật nhanh tới chỗ chúng tôi. Tôi giật thót tim, hét ầm lên rồi bám chặt lấy tay Lão Ngũ.
Chị Giai Tuệ phản xạ rất nhanh, rút súng chĩa vào người kia quát lớn:
- Ai?
Bóng đen kia tiếp tục tiến thêm vài bước rồi nói:
- Là ta.
Tôi nhìn lại, thì ra chính là người đàn ông chúng tôi gặp trên tàu, giờ đã được gọi là Lục Lão Tứ. Ông ta vác một chiếc balô màu đen trên vai, nhoẻn miệng cười vẫy tay về phía chúng tôi, rồi nói với Lão Ngũ:
- Hắc Lão Ngũ, tôi đang đứng đợi mọi người đây. Vẫn chưa đến giờ, chúng ta chắc là nhóm đầu tiên.
Lão Ngũ nhìn ông ta, gật gật đầu rồi nói:
- Mẹ kiếp, cũng coi như mi có lòng. - Lục Lão Tứ từ từ bước tới trước vách đá, nhón chân vén thảm rêu phủ trên bề mặt lên, lúc ấy tôi mới phát hiện ra, ẩn đằng sau lớp rêu và cây cỏ này là một khe hở xuyên thẳng qua vách đá, miệng khe rộng chừng một mét, bên trong tối thui nên tôi không biết nó sâu bao nhiêu.

Lão Ngũ ngó đầu vào bên trong xem xét, thở dài và nói:
- Mẹ kiếp, là Du Long đạo, lâu lắm không leo, giờ sức đã kém, tay chân thì yếu, không biết còn leo lên được không? - Nói rồi lão bước vào trong lòng khe, rồi quay người lại, hai tay tì mạnh lên hai bên vách, người nhảy lên, hai chân cũng đạp sang hai bên, hai chân hai tay lão phối hợp nhịp nhàng, chỉ một lúc sau đã leo cao chừng năm sáu mét, Lục Lão Tứ cũng thoăn thoắt theo sau.
Tôi thấy hơi lo lắng, liền quay lại hỏi chị Giai Tuệ phải làm sao? Chị Giai Tuệ gật đầu trấn an tôi, rồi lôi từ trong balô ra một sợi dây leo núi, kế vòng qua thắt lưng của tôi rồi buộc vào bụng chị, sau đó như Lão Ngũ, hai chị em tôi cùng leo lên.
Trong lòng vách núi, gió lùa qua rin rít, những hạt tuyết lọt qua khe núi rơi xuống đầu xuống cổ chúng tôi lạnh buốt, ngẩng lên nhìn thì thấy đường khe núi phía trên đầu chúng tôi là một đường zíc zắc chạy ngang bầu trời, ở giữa là những vì sao lấp lánh, ước chừng cao gần một trăm mét. Càng leo lên cao, tôi càng thấy cảm giác sợ hãi cũng tăng lên không ngừng, vì lo sẽ bị trượt chân rơi xuống, nên cũng không dám cúi mặt nhìn xuống dưới, đành cắn răng chịu đựng cái rét tê buốt đang chạy khắp cơ thể, cố gắng leo lên trên.
Để lên được tới nơi thật không dễ dàng chút nào, người đã mệt đến đứt hơi, cảm giác không thể nhấc nổi tay chân lên, tôi ngồi phịch xuống đất thở hổn hển. Trước mắt tôi giờ là một khoảng không rộng chừng hơn hai trăm mét vuông, nhìn ra xung quanh thì ngoài một vài tảng đá thưa thớt ra thì hầu như đều là mặt phẳng, dưới ánh trăng sáng, khắp nơi đều phủ một màu trắng xóa của tuyết. Ở ngay giữa khoảng không là một cây thông lớn, cao chừng năm sáu mét, thân cây khá to phải hai người ôm mới hết, mỗi khi có cơn gió thổi qua, một lớp tuyết lại rơi xuống khiến cành lá bên dưới cũng rung động theo.
Lão Ngũ thấy chúng tôi đã leo lên tới nơi, liền rảo bước tới trước gốc thông, đưa tay vỗ mạnh lên thân cây, khiến một lớp tuyết lạo xạo rụng xuống. Lão nói với chúng tôi, đây chính là cây thông Đạo Vương, nghe nói là do chính tay Thất gia trồng, đã có hơn một nghìn năm tuổi rồi. Luận Đạo năm 1970, sư phụ của lão đã thử bản lĩnh của lão tại chính dưới gốc cây này, và đã đồng ý cho lão trở thành “Lão Ngũ”. Tính ra, cây thông này cũng là sư tổ chứng kiến bao sự thay đổi của Đạo môn. Nói rồi, lão vòng tay ôm chặt lấy thân cây, mặt áp sát vào lớp vỏ xù xì, lim dim đôi mắt.
Tôi đứng lặng thầm nhìn lên thân cây thông, lớp vỏ cây xù xì nứt nẻ, qua vết nứt sâu lộ lớp gỗ thịt màu vàng sậm bên trong, xem ra tuổi của nó cũng đã rất cao rồi.
Mấy người chúng tôi đứng dưới gốc thông, vừa chuyện trò vừa đợi đến giờ. Mười một giờ hơn, mới bắt đầu có vài người kéo nhau lên đỉnh. Họ thấy chúng tôi mặc đồ cảnh sát, nên có vẻ không được tự nhiên cho lắm. Lục Lão Tứ vội tiến tới trước giải thích cho họ. Sau khi nghe nói đây là vua trộm vùng Đông Bắc, những người này tỏ ra rất phấn khích, lập tức kính cẩn chào Lão Ngũ, giống như người hâm mộ nhìn thấy thần tượng của mình vậy. Lão Ngũ xua xua tay không dám nhận sự ngưỡng mộ của mọi người.
Không lâu sau, một đám đông khác cùng nhau lũ lượt kéo đến, có khoảng bảy tám chục người già trẻ lẫn lộn, nhưng tất cả đều là đàn ông, không thấy bóng dáng của một người phụ nữ nào. Họ không ai nói với ai câu nào và cũng không dám cử động mà chỉ đứng nghiêm một chỗ, chỉ nghe thấy tiếng tuyết rơi xuống áo lộp bộp.
Tôi ngó ra xung quanh, cho rằng những người này chính là những cao thủ phái Đạo môn vùng Đông Bắc. Thế nhưng trông phong cách của họ, người thì khoác áo lông vũ, người thì mặc áo da, tôi vẫn có cảm giác kì lạ, nếu như họ đều thay bộ đồ cổ trang, trên tay cầm thêm thanh kiếm thì sẽ rất giống hình ảnh thường thấy trong các bộ phim kiếm hiệp.
Lão Ngũ xoa cằm, đưa mắt nhìn khắp một lượt, rồi bỗng nhiên lão thở dài, nói nhỏ với chúng tôi:
- Đạo môn đúng là vứt đi, chỉ được lèo tèo vài tên. Trước đây, mỗi lần Luận Đạo phải có hàng hai ba trăm người đến tham gia, mọi người cùng nhau tranh đấu, thi tài, vậy mới có ý nghĩa.
Tôi và chị Giai Tuệ chỉ khẽ gật đầu, Lục Lão Tứ nói chen vào:
- Lão Ngũ, thế này coi như là tiến bộ lắm rồi, Luận Đạo lần trước chỉ đến được hơn ba mươi người.
Đợi khoảng nửa tiếng sau là đúng mười hai giờ đêm, không thấy thêm một bóng người nữa, tuyết cũng đã ngừng rơi, gió rít mỗi lúc một mạnh. Lục Lão Tứ chỉnh đốn lại trang phục, bước đến trước đám đông, giơ hai tay lên ra hiệu cho mọi người im lặng, hắng giọng vài cái rồi nói lớn:
- Đạo môn Trung Hoa, nguyên viễn lưu trường, Lão Mẫu từ bi, phù hộ độ trì, thập niên Luận Đạo, tinh chọn Bả Thế…
Lục Lão Tứ cứ thao thao bất tuyệt trong hơn nửa tiếng đồng hồ, giọng nói trầm vang nhưng nội dung lại hết sức kỳ quặc, tôi thấy rất buồn cười nhưng vì mọi người ai ai cũng đều nghiêm trang, nên tôi cũng không dám ho he.
Cuối cùng, Lục Lão Tứ nhấn mạnh:
- Luận Đạo Bả Thế lần này chính thức được bắt đầu, xin mời Đạo vương Đông Bắc Hắc Lão Ngũ. - Nói rồi ông ta quay người lại chắp hai tay kính cẩn mời Lão Ngũ. - Lão Ngũ gia, mời ngài lên nói lời khai mạc.
Lão Ngũ “ừ” một tiếng, rồi thản nhiên tiến lên vài bước, lắc lư cái đầu.
- Mẹ kiếp, còn chần chừ gì nữa mà không tiến hành đi thôi, Luận Đạo coi như chính thức bắt đầu!
Tôi không nhịn được cười, cố bịt miệng để không phát ra tiếng. Xem ra Lão Ngũ vẫn là người làm gì cũng chỉ thích nhanh gọn.
Lão Ngũ bước lên lớp tuyết, tiến tới dưới gốc cây thông, thoắt một cái đã trèo lên cây, đưa tay ngắt một nắm lá thông vẫn bám đầy tuyết trắng. Nắm chặt nắm lá trong tay, lão từ từ bước tới mép vách đá, nheo mắt ngẩng lên nhìn ánh trăng, cánh tay phải vung mạnh, những chiếc lá thông nhọn hoắt như chiếc kim bay thẳng lên trời, tạo thành những đường sọc đen in hình xuống nền đất, rồi nhanh chóng bị cơn gió cuốn đi. Cùng lúc, đám người đứng bên dưới kia mới bắt đầu động đậy, ai ai cũng vươn dài cổ, mắt mở to, nhìn chằm chằm vào đám lá thông, luôn miệng lẩm bẩm gì đó.
Lão Ngũ quay người lại, bước về vị trí, từ từ duỗi bàn tay phải, miệng hô lớn:
- Đếm đi.
Đám đông như nhận được mệnh lệnh, liền tự động xếp thành hàng dài, từng người từng người một tiến tới viết điều gì đó vào lòng bàn tay Lão Ngũ. Đợi cho tất cả bọn họ đều viết xong, Lão Ngũ mới gật gật đầu, nói:
- Vớ vớ vẩn vẩn. Mi, mi, mi… còn cả mi nữa… - Lão chỉ liền một lúc hơn bốn chục người. - Những người được chỉ bước tới đây, số còn lại biến hết cho ta.
Những người được Lão Ngũ chỉ tay ai nấy đều tỏ rõ sự phấn khích, mặt mũi tươi tỉnh hẳn, còn những người khác thì ủ dột buồn bã, chắp tay kính lễ chào Lão Ngũ, rồi cùng quay đầu ra về.
Thấy tôi và chị Giai Tuệ đều thắc mắc chưa hiểu vì sao, Lão Ngũ quay lại nói nhỏ, chiêu vừa xong chủ yếu là kiểm tra thị lực, là phần thi bắt buộc đầu tiên, gọi là Xạ nguyệt thức kim. Do Luận Đạo được tiến hành vào ban đêm, nên cần phải có ánh trăng, trong một khoảng thời gian ngắn, bắt buộc phải đếm được số lá thông. Vừa xong lão không hái nhiều, nên chỉ ném lên không trung đúng hai mươi mốt cọng, một vài tên bá láp tự xưng là cao thủ đó lại nói là một trăm hai mươi cọng.
Tôi thắc mắc không biết vì sao lão có thể đếm được có bao nhiêu lá thông. Lão cười ha hả, xoa xoa cằm rồi nói lão chưa đếm qua, nhưng trong khoảng hai ba trăm thì chắc chắn đúng. Tôi trố mắt nhìn lão, thật quá lợi hại, nếu là tôi chắc bốn mươi cọng cũng khó.
Đúng lúc đó, Lục Lão Tứ bước tới nói nhỏ vào tai Lão Ngũ:
- Lão Ngũ gia, đã bắt đầu đoán chữ được chưa?
Lão Ngũ ngẫm nghĩ một lúc, quay sang nói với tôi:
- Lan Lan, giúp ta một việc, viết cho ta hai chữ.
Tôi ngớ người, không biết vì sao lão lại bảo tôi viết chữ, hơn nữa ở đây lại chẳng có cái bút nào. Lão Ngũ kéo tay tôi tới bên gốc cây thông. Lão bảo tôi lấy ra một chiếc kim móc, thích viết chữ gì thì viết lên thân cây, rồi vẫy tay gọi một người đàn ông trung niên tới, nói:
- Mi trước.
Người đàn ông đó liền bước sang một bên, nghiêng đầu, áp sát tai lên thân cây để nghe ngóng. Lão Ngũ đẩy nhẹ lên vai tôi:
- Đừng có đứng đực ra đấy nữa, mau viết đi. - Rồi lão quay lưng đi, ngẩng mặt lên ngắm trăng.
Tôi lập tức phản xạ, thấy đây giống như môn thi nghe, suy nghĩ một lúc liền đưa mũi kim khắc nhẹ chữ “Vương” lên gốc cây. Vừa viết xong, đã thấy Lão Ngũ quát lên:
- Không được, không được! Mẹ kiếp, viết chữ nào khó hơn đi.
Tôi ngẩng mặt lên nhìn Lão Ngũ, rõ ràng là lão đang không nhìn tôi, hơn nữa lại đứng ở đằng xa kia, vậy mà lại đoán ra tôi viết chữ gì. Khi chọc mũi kim lên thân cây xù xì, tôi phải lựa theo nhiều chiều khác nhau, càng khó để nghe cho chính xác, xem ra thính lực của Lão Ngũ thật khiến người ta phải hốt hoảng.
Tôi suy nghĩ một lúc, khắc thêm chữ “Hắc” vào đằng trước. Người đàn ông từ từ đứng dậy đi tới cạnh Lão Ngũ, nói khẽ:
- Lão Ngũ, đây là chữ “Hắc Vương”.
Lão Ngũ khịt mũi.
- Mẹ kiếp, coi như mi qua. Người khác.
Người tiếp theo bước đến, nhưng giờ tôi biết viết gì đây? Đành phải vắt óc cố nặn ra vài chữ, thấy người này tuổi cũng khá cao, nên tôi viết những chữ đại loại như: “Nhương, Tàng, Tị…”. Còn với những người trẻ hơn tôi viết những chữ kiểu như: “Cương, Lượng, Tôn…”. Vì tôi cho rằng, những người tuổi cao hơn thì kinh nghiệm và bản lĩnh cũng lớn hơn những người trẻ tuổi hơn.
Cuối cùng phần thi đoán chữ cũng xong, lại có thêm hơn hai mươi người bị loại. Lão Ngũ tỏ ra rất không hài lòng, nói với Lục Lão Tứ:
- Mẹ kiếp, chẳng biết chúng tập luyện kiểu gì, mà mới qua hai cửa ải đã rụng hơn một nửa.
Lục Lão Tứ liền cười hềnh hệch, nói:
- Lão Ngũ, lão cũng đừng phiền lòng làm gì, Đạo môn hiện nay đều như thế cả, không giống như thời của lão ngày xưa.
Lão Ngũ chửi thề một câu rồi cau có mặt mày nói:
- Được rồi, bắt đầu phần Giải nút.
Lục Lão Tứ khẽ gật đầu, thả chiếc túi đeo trên vai xuống, rồi lấy ra một đoạn dây thừng, cuốn sợi dây thừng chặt quanh một tảng đá rồi thắt nút lại.
Lão Ngũ bước tới cầm lấy nút thắt, quát một tiếng:
- Mẹ kiếp, buộc thế này thì đánh rắm cũng tháo được ra, buộc thêm vài nút nữa.
Lục Lão Tứ lập tức thắt thêm ba nút nữa, bấy giờ Lão Ngũ mới tỏ ra hài lòng phần nào, lão vỗ vai người thanh niên đứng gần mình rồi nói:
- Nhóc con, mi ra tay trước đi.
Người thanh niên đó liền bước lên trước, rồi giơ hai ngón tay giữa ra, nhanh chóng cởi từng nút thắt một. Chỉ mất khoảng vài chục giây, người này đã tháo được bốn nút thắt, sợi dây từ từ tuột xuống đất, những người xung quanh đều trầm trồ thán phục. Mặc dù tôi cảm thấy hết sức bất ngờ, nhưng khi nghĩ lại so với lần Lão Ngũ biểu diễn thuật Xuyên khôi gần đây, thì đây vẫn chưa thấm vào đâu.
Lục Lão Tứ nói nhỏ với tôi, đây là thuật Phọc thạch giải khấu, dùng để thử thách khả năng của đầu ngón tay, ngày trước ông đã được tận mắt chứng kiến Lão Ngũ biểu diễn, chỉ trong thời gian cháy nửa que hương mà Lão Ngũ mở được một trăm linh năm nút, như vậy mới gọi là đỉnh cao.
Có thể đây là thử thách quá khó khăn, nên cuối cùng chỉ chọn ra được sáu người, hơn nữa hầu như đều là những người tuổi đã khá cao. Lão Ngũ lại tiếp tục bảo Lục Lão Tứ buộc sợi dây thành chín nút, lúc này tất cả những người còn lại đều không có ai mở được.
Lão Ngũ tức tối quát ầm lên:
- Toàn một lũ ngu như bò, trông thì cũng sáng sủa đấy, thế mà trong đầu chẳng có gì. Đạo môn sau này chỉ biết trông vào mấy người, vậy mà nhìn lại xem… mẹ kiếp, mẹ kiếp…- Nghe Lão Ngũ, mọi người chỉ biết cúi đầu, im thin thít đến thở cũng không dám.
Quát tháo một lúc, Lão Ngũ mới có phần hạ hỏa, quay sang Lục Lão Tứ hầm hầm nói:
- Vi Viên.
Lục Lão Tứ liền rút từ trong túi ra một tấm vải màu đen, bên trong cất những túi bột màu trắng. Sau đó lão rắc lớp bột trắng lên tuyết, cố tình tạo thành một hình tròn, màu tuyết trắng hòa vào màu bột, nên hầu như không thể phân biệt đâu là bột đâu là tuyết. Nhưng sau khi dùng bật lửa đốt, thì lập tức cháy thành một vòng lửa màu xanh nhạt, ngọn lửa bùng lên cao khoảng một gang tay, mỗi khi có cơn gió thổi qua, ngọn lửa lại lan ra xung quanh khiến lớp tuyết dần tan chảy, tiếng xì xèo phát ra, ánh lửa phản chiếu xuống vũng nước càng làm cho ngọn lửa thêm bừng sáng.
Tôi ngẩn người nhìn theo ngọn lửa, thấy thật thần kỳ, liền quay sang hỏi Lão Ngũ.
Lão nói với tôi, đây là bột Lưu tung, được làm bằng bột ngọc trai trộn với phốt pho, là thứ mà người phái Đạo môn dùng để tìm đường vào ban đêm, không sợ nước và gió. Thử thách tiếp theo là Vi viên thủ Đạo. Người xưa thường nói, Vật trộm được không tự mất, mới gọi là lợi hại, cứ xem xong cái này, khắc sẽ hiểu.
Chương 33:
Lão Ngũ chọn ra hai người, móc ra hai viên Phi Hoàng thạch đưa cho họ. Hai người đó cầm lấy viên đá, lau lau vào người, thoáng chốc hai tay đã trống trơn, kế cùng bước vào vòng lửa, hai người đứng ở hai góc đối diện nhau.
Hai người từ từ ngồi xuống, không hề chớp mắt, nhìn thẳng vào đối phương, gườm gườm như hai con thú đang chuẩn bị tấn công nhau. Vài giây sau, họ bất ngờ xông vào nhau, kéo theo vài vạt tuyết hất lên tung tóe, hai tay ra sức ghìm chặt đối phương, nhưng cũng tách ra rất nhanh chóng, rồi quay lại vị trí ban đầu.
Sau sáu bảy lần vật lộn như thế, một trong hai người đàn ông đó bỗng hét lên:
- Được rồi! - Rồi nhảy phốc ra khỏi vòng lửa, chạy tới trước mặt Lão Ngũ, xòe ra hai viên đá, vẻ mặt vô cùng hớn hở. Người đàn ông còn lại lắc đầu thở dài vẻ ngao ngán, rồi từ từ lùi bước ra sau.
Theo dõi từ đầu đến cuối, tôi mới hiểu vì sao lúc nãy Lão Ngũ lại nói là “Vật trộm được không tự mất”, thì ra mục đích của Vi viên thủ Đạo là giữ chặt vật thuộc về mình, do đó đây mới là thử thách cuối cùng.

Bốn người còn lại tiếp tục đua tài, mỗi trận đều phân định ra kẻ thắng bại, cuối cùng Lão Ngũ cũng nâng bậc và trao danh hiệu cho họ. Tổng cộng có hai người đạt cấp Lão Tứ và bốn người đạt Lão Tam. Lão Ngũ vẫn lùng bùng trong miệng, tỏ vẻ không chút hài lòng, rồi hầm hầm kéo tôi và chị Giai Tuệ xuống núi.
Vừa đúng lúc này, tôi bỗng nghe thấy giọng một người con gái vọng lại từ đằng sau:
- Đợi đã, vẫn còn ta.
Tôi lập tức quay đầu lại, vừa kịp nhìn thấy một bóng đen đang lồm cồm leo từ dưới khe Du Long đạo lên, chạy vài bước tới trước chúng tôi, vừa thở hổn hển vừa nói:
- Lão Ngũ, cháu cũng muốn tham gia Luận Đạo.
Cô gái trẻ này trông có vẻ bằng tuổi tôi, mặc một chiếc áo khoác lông vũ màu đỏ, khuôn mặt trắng nõn, khi cười đôi mắt cong lại như hai vầng trăng lưỡi liềm. Cô gái kính cẩn chắp tay chào Lão Ngũ, tôi phát hiện ra, người này dùng năm đầu ngón tay gõ năm lần, điều này chứng tỏ cô đã đạt tới cấp Ngũ giới, tức là ngang hàng với Lão Ngũ.
Tất cả những người có mặt ở đó lúc bấy giờ đều ngạc nhiên trợn tròn mắt, Lục Lão Tứ cùng những người vừa mới được phong danh càng hốt hoảng hơn. Từ đâu xuất hiện một cô gái trẻ, lại còn tự xưng ngang hàng với Hắc Đạo Vương, không biết là bị điên hay bị ngốc đây.
Lão Ngũ cũng hơi bất ngờ, lịch sự đáp lễ, rồi nheo đôi mắt lạnh lùng hỏi:
- Cô gái, cô là ai?
Cô gái đó rất tự tin, không một chút sợ hãi, điềm tĩnh trả lời:

- Đinh Ngũ muội đến từ Hưng Thành Triều Dương, xin chào Lão Ngũ.
Triều Dương là một thành phố nằm cạnh Cẩm Châu, còn Hưng Thành là một huyện nhỏ thuộc Triều Dương, từ hồi còn ở Học viện cảnh sát, tôi có chung phòng kí túc với một bạn cũng đến từ nơi này. Tôi nhìn cô gái trẻ từ đầu đến chân, cô gái có vẻ còn rất nhỏ tuổi, vậy mà ăn đĩnh đạc, lại còn tự tin xưng mình là Đinh Ngũ muội, tôi thấy thật nực cười, không thể tin là cô lại ngang tầm với Lão Ngũ.
Lão Ngũ chậm rãi xoa cằm, chớp chớp mắt, rồi nói với giọng rất lạ:
- Đinh Ngũ, ha ha… ha ha… mi nói mi đã là Lão Ngũ? Hay đấy, hay đấy! - Lão bước lên trước vài bước, rồi hạ giọng nói. - Nhóc con, trong Đạo môn dựa vào Bả Thế để phân cấp bậc, nếu như mi cũng là Lão Ngũ thì không thể gọi ta là Lão Ngũ được mà phải gọi ta là Ngũ ca.
Lão Ngũ nói với giọng hơi châm biếm, vậy mà không ngờ cô gái đó lập tức lên tiếng trả lời rất nghiêm túc:
- Vậy cũng đúng, Hắc Ngũ ca, ở nhà ba cháu cũng nói với cháu như vậy. Thế nhưng, do tuổi của Ngũ ca cũng đã cao, gọi là Lão Ngũ chắc cũng không sao.
Những lời của cô gái khiến mọi người đều không dám tin vào tai mình. Bụng thầm nghĩ chắc cô ta có chút vấn đề về thần kinh.
Lão Ngũ không tỏ thái độ gì, chỉ ngẩng đầu cười lớn:
- Tốt, tốt, tốt lắm! Vậy mi nói xem, mi dùng thuật gì, để ta xem xem Bả Thế của mi cao tới mức nào rồi?
Đinh Ngũ muội liền cười khúc khích, trả lời một câu mà ai cũng ngã ngửa:
- Cháu không biết thuật gì cả, cháu đến đây là để Lão Ngũ dạy cho cháu thôi.
Nói rồi, cô gái bước thêm vài bước tới trước mặt Lão Ngũ, xòe bàn tay ra, trong lòng bàn tay nắm một vật gì đó, rồi ngay lập tức nhét vào trong áo. Lúc đó, cô gái quay lưng về phía chúng tôi, nên nhìn không rõ cô đang cầm vật gì. Tôi chỉ nhận thấy gương mặt của Lão Ngũ bỗng thay đổi đột ngột, ngẩng lên nhìn chằm chằm vào Đinh Ngũ muội, ánh mắt có vẻ như đang rất xúc động.
Lão run run cầm lấy tay cô gái, rồi lắp bắp hỏi:
- Đây… đây… đây là gia đình của mi?
Đinh Ngũ muội mỉm cười rồi gật đầu lia lịa:
- Vâng, đây chính là gia đình cháu. Ba cháu nói rằng, chỉ cần nhìn thấy vật này thôi, nhất định lão sẽ nhận dạy Đạo thuật cho cháu.
Lão Ngũ hít một hơi thật sâu, như vẫn chưa hết xúc động, một lúc lâu sau mới lên tiếng:
- Tốt lắm, Đinh Ngũ muội, tốt lắm! - Tay lão vẫn nắm chặt tay của Đinh Ngũ muội. - Muội muội, ba muội đã coi trọng ta như thế, còn đích thân nhờ ta dạy dỗ, cũng coi như ta đây may mắn. Hắc Lão Ngũ này có chết cũng sẽ cố gắng truyền dạy cho muội. Đạo môn có phúc, Đạo môn có phúc… - Nói rồi, mắt lão rơm rớm nước, như nghẹn ngào không nói lên lời.
Thấy vậy, tất cả chúng tôi đều ngẩn người ra, thật hiếm khi Lão Ngũ lại tỏ ra xúc động đến như vậy, thật không biết chuyện gì xảy ra. Bình thường một người luôn cất giọng the thé chửi rủa, lúc nào cũng dương dương tự đắc như lão, vậy tại sao khi đối diện với cô gái này lại hạ giọng xưng là Hắc Lão Ngũ, thậm chí còn rơi nước mắt? Không biết lão đã nhìn thấy cái gì mà có thể thay đổi hoàn toàn thái độ như vậy?
Đinh Ngũ muội không nói gì, chỉ nhìn Lão Ngũ cười híp mắt, trong khi những người khác không ai dám lên tiếng. Lão Ngũ từ từ lau hai hàng nước mắt, bỗng nhiên lão quay lại phía tôi vẫy vẫy tay, nói:
- Lan Lan, xin lỗi nhé, ta không thể nhận mi làm đệ tử được nữa. Nếu như vẫn muốn học Đạo thuật thì sau này đến bái Ngũ bà vậy.
Tôi thực sự bất ngờ, nhưng vẫn kịp gật đầu, rồi quay lại nhìn Đinh Ngũ muội. Với tôi học hay không học Đạo thuật cũng không quan trọng, nhưng tôi hết sức tò mò muốn biết cô gái này rốt cuộc là ai?
Đến lúc đó, vẻ trầm tư ủ rũ của Lão Ngũ bỗng dưng biến mất, lão cười vui vẻ vỗ vai Lục Lão Tứ và những người còn lại với vẻ hết sức thoải mái:
- Mấy đứa mi giờ biến được rồi, mười năm nữa đến đây, lúc đó Ngũ bà sẽ Luận Đạo cho mấy đứa.
Lục Lão Tứ cùng những người kia đều hết sức ngỡ ngàng trước câu nói của Lão Ngũ, nhưng Lão Ngũ đã nói vậy rồi, họ đành kính cẩn chào Đinh Ngũ muội và quay sang cáo biệt chúng tôi, kế từ từ tụt xuống khe Du Long đạo.
Thấy mọi người đã đi hết, Lão Ngũ mới giới thiệu Đinh Ngũ muội với tôi và chị Giai Tuệ, rồi bắt chúng tôi gọi cô là Ngũ bà. Tôi cảm thấy ngượng mồm, đang lưỡng lự không biết nên hay không nên gọi, thì Đinh Ngũ muội vội phẩy tay nói rằng xưng hô như vậy không cần thiết với người ngoại đạo, hơn nữa tôi lại là trưởng môn của phái Kiện môn, mọi người cứ gọi chị em cho thân mật. Lão Ngũ cũng gật gù, tán thưởng:
- Cũng phải, mỗi người đều theo phái riêng, nếu không thì lão già này đã có thêm hai muội muội rồi, thế thì lãi quá. Ha ha ha ha, hay đấy, hay đấy!
Sau đó, Lão Ngũ kể qua cho Đinh Ngũ muội về việc của tôi, để cô ấy xuống núi đợi trước, sau khi giúp tôi quy vị xong Kiện bài sẽ xuống tìm sau. Chị Giai Tuệ liền nói để chị liên lạc với Trưởng phòng Lưu để ông ấy sắp xếp phòng ở khách sạn cho cô nghỉ tạm.
Nhưng không ngờ Đinh Ngũ muội lại lắc đầu nhất định không chịu, một mực nói rằng ba cô ấy đã dặn phải theo sát Lão Ngũ không được rời nửa bước. Lão Ngũ nghe xong liền đồng ý, và nói rằng thêm người cũng tốt, đến lúc nguy nan có thể giúp đỡ nhau.
Lúc đó, tôi vẫn không hiểu tại sao Đinh Ngũ muội lại quả quyết đi theo chúng tôi không chịu rời bước, cho tới sau này khi đã hiểu được thân thế của cô ấy, tôi mới biết được lí do đó là gì.
Chúng tôi cùng tụt xuống khe Du Long đạo, rồi nhanh chóng quay lại trước núi, gặp Trưởng phòng Lưu hỏi mượn thêm một bộ trang phục cảnh sát và một bộ vật dụng chuyên dụng. Sau khi Đinh Ngũ muội thay quần áo xong, Lão Ngũ nhìn sang ba đứa con gái chúng tôi, cười khoái chí:
- Ba cô gái, ai ai cũng xinh đẹp cả. Lại còn thêm cả Đường Nhã Kỳ và Tiêu Vy nữa chứ. Mẹ kiếp, lão già này sắp sang thế giới bên kia rồi vẫn còn đào hoa.
Nhờ Trưởng phòng Lưu dẫn đường, chúng tôi đi thẳng một mạch tới bên ngoài động Lão Mẫu, phía trên cửa động có khắc bốn chữ “Hư Vô Chân Cảnh”. Nhìn vào phía trong là một hang động tự nhiên, rộng chừng bảy tám mét vuông, tượng Lão Mẫu mạ vàng đang ngồi trên một bục đá, đầu hơi nghiêng sang bên trái, ánh mắt nhìn thẳng, tay cầm bình ngọc, xung quanh là các bức tượng tiên đồng và ngọc nữ. Hai bên bục đá là mười tám bức tượng La hán. Mặt phía sau treo một bức mành màu vàng, cả bốn cạnh đều là những đường tua rua màu xanh, ở giữa tấm mành thêu hình tượng Phật.
Lúc này, tôi có cảm giác bên trong động giống như một nồi nước đang sôi, khói bốc lên nghi ngút, khiến ta không thể thở nổi. Người thì chen chúc nhau, quỳ rạp xuống đất, thỉnh thoảng lại cúi gập người khấn vái, người thì la hét còn vung tay nhảy múa, đôi mắt đỏ ngầu, giống như đang lên cơn dại. Hai vị hòa thượng đầu trọc nhẵn thín, mặt mũi nhễ nhại mồ hôi, đứng ở phía trên, lần lượt nhận những bông hoa cẩm bào từ phía dưới chuyển lên, rồi cài lên khắp bức tượng Lão Mẫu.
Chị Giai Tuệ chau mày, tiến gần lại Trưởng phòng Lưu, nói nhỏ:
- Chú Lưu, cánh cửa bí mật nằm ở phía dưới động, chú nghĩ cách cho chúng cháu đi qua, sau đó phải đảm bảo không có ai vào quấy rầy.
Trưởng phòng Lưu khẽ gật đầu, điều hai cảnh sát tới rẽ đám đông rồi đưa chúng tôi chen qua. Bên cạnh bức mành tôi thấy sâu vào trong khoảng hơn một mét, bức vách động có màu nâu đất, đó là một khe nứt bên trên bám đầy rong rêu.
Vén bức mành ra, Trưởng phòng Lưu nói với chúng tôi, ông sẽ ở bên ngoài canh chừng, để chúng tôi tiếp tục đi sâu vào trong, sau đó chúng tôi sẽ dùng bộ đàm liên lạc, cứ cách một tiếng đồng hồ sẽ gọi một lần, nếu như quá ba tiếng không nhận được thông tin phản hồi thì ông sẽ lập tức tập hợp quân vào tìm kiếm.
Chị Giai Tuệ nghĩ một lúc, rồi nói nội tình bên trong động chưa rõ thế nào, tốt nhất là khoảng sáu tiếng đồng hồ gọi lại một lần. Trưởng phòng Lưu gật đầu đồng ý, rồi còn khảng khái nói thêm, ông đã đến Bắc Trấn nhậm chức được năm năm rồi, năm nào cũng lên đây vào dịp này, giờ sắp chuyển sang tỉnh khác, trước khi chuyển đi mà lại có thể góp sức tìm ra bí mật lớn thế này, coi như là cũng được góp chút công sức. Nói rồi, ông tới bắt tay từng người một trong đoàn, cười và nói:
- Các đồng chí, chúc các đồng chí mọi việc đều thuận lợi, trở về tôi sẽ thết đãi mọi người một bữa linh đình.
Đợi cho Trưởng phòng Lưu bước ra, Lão Ngũ mới tiến tới sờ tay lên bức vách đá, rồi quay đầu lại nói thật khẽ:
- Lan Lan, mau chóng tìm mắt khóa đi.
Tôi lập tức bước tới, quan sát một hồi, mới phát hiện ra, quả nhiên phía dưới cùng có một lỗ tròn, gần như đã bị rêu phủ kín, sau khi đã dọn sạch, liền cắm chìa khóa vào, vừa khít với lỗ. Tôi liền lấy ra một chiếc kim móc, xỏ qua phần lỗ ở đuôi khóa, rồi giống như vặn khóa két sắt, từ từ xoay sang phải.
Mỗi một vòng quay, chiếc chìa khóa lại cắm sâu thêm được một chút, tôi phải xoay chừng ba mươi sáu vòng, khi chiếc chìa khóa chỉ còn thò ra bên ngoài một chút xíu. Bỗng dưng, từ trong động phát ra một âm thanh khe khẽ, chiếc chìa khóa rung lên, rồi từ từ bị đẩy lại ra ngoài, lớp rêu phong trên tường cũng bị tách ra rồi rơi lả tả xuống đất. Tiếng người vẫn không ngừng hò hét bên ngoài, nên những tiếng động này dường như không nhằm nhò gì. Ngay lập tức, một phiến đá rộng chừng mặt bàn, dày gần bằng nắm đấm cửa từ từ thụt vào trong, cho tới khi để lộ ra một khe hở vừa đủ một người chui lọt vào. Bên trong tối thui như mực, nhưng lại thốc ra một luồng khí trong lành và mát mẻ.
Trong lòng tôi bỗng dưng hồi hộp vô cùng, trống ngực đánh liên hồi. Bây giờ nếu bất ngờ có người nhìn thấy chúng tôi đang mở cánh cửa bí mật này, thì không biết sẽ có chuyện gì xảy ra. Chúng tôi không còn nhiều thời gian, nên từng người từng người một vội xếp hàng chui qua khẽ hở. Đến khi lách người bước vào bên trong, tôi cũng không kịp nhìn kĩ vội rút sợi dây da lừa và chiếc chìa khóa ra. Cánh cửa đá lập tức chuyển động và từ từ trở lại vị trí cũ, nguồn ánh sáng duy nhất cũng bị vụt tắt, khiến không gian xung quanh tôi bỗng trở nên tối đen, đến cả những tiếng xì xầm bên ngoài cũng trở nên im bặt.
Chúng tôi nắm chặt tay nhau, ngồi thụp xuống trong vài giây, rồi lôi chiếc đèn pin ra rọi chiếu xung quanh. Sau khi đã nhìn kĩ mọi vật, tôi ngạc nhiên đờ cả người, mọi người cũng há hốc miệng ngơ ngác không thốt nên lời, lúc đó tôi có một cảm giác huyễn hoặc và mơ hồ vô cùng, không dám tin những cảnh tượng trước mắt là có thật.
Liền nghe tiếng nuốt nước bọt và đặng hắng, ngay sau đó là giọng nói run rẩy của Lão Ngũ:
- Mẹ kiếp, Thanh Nham Thánh cảnh, hay đấy… hay đấy...
Hết

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét