var popunder = true; shopmetho: TRÂM II: KẺ YỂU MỆNH FULL - Quyển 2 - C15 - 19

Thứ Ba, 28 tháng 6, 2016

TRÂM II: KẺ YỂU MỆNH FULL - Quyển 2 - C15 - 19


Q.2 – Chương 15: Hồi 13: Một Trời Một Vực
Người ta thường nói ráng chiều lan ngàn dặm. Tà dương xán lạn hôm trước khiến trời hôm sau quang đãng không một gợn mây, mặt trời vừa lên, cả thành Trường An đã nóng hầm hập.
Hoàng Tử Hà mặc áo mỏng, bên ngoài khoác chiếc áo đỏ hoạn quan, người đầm đìa mồ hôi, ngồi yên thì không sao, hễ cử động là mô hôi túa ra.
Xong vụ án phủ công chúa còn chưa kết thúc, cô vẫn phải ra ngoài tra xét.
Vừa ra đến cổng đã thấy Chu Tử Tần dắt con Tiểu Hà đợi sẵn, tay còn cầm bốn cái bánh hấp nóng hổi.
Thấy cô, gã bèn đứng phắt dậy, chìa bốn cái bánh bọc trong lá sen ra: “Này Sùng Cổ, mỗi người hai chiếc.”
“Tôi vừa ăn rồi.” Nhưng sáng ra tất bật, chỉ kịp ăn mỗi miếng bánh ngọt, nên cô vẫn nhận một chiếc bánh, vừa cưỡi ngựa vừa ăn cùng Chu Tử Tần.
“Ta biết hôm qua công công chỉ hứa cho qua chuyện thế thôi, nếu hôm nay ta không chặn cửa, nhất định công công sẽ đi điều tra một mình.” Chu Tử Tần bĩu môi trách.
Hoàng Tử Hà vội an ủi gã: “Đâu có, thực ra tôi đang định đi tìm công tử mà.”
“Thực ư?” Chu Tử Tần tin ngay, “Đúng là huynh đệ tốt, có nghĩa khí lắm! Công công nói xem, hôm nay chuẩn bị đi đâu đây? Liệu có thi thể cho ta trổ tài không?”
“Tốt nhất đừng có thì hơn.” Hoàng Tử Hà lườm gã, “Chúng ta phải tới nhà Trương nhị ca.”
“Hả?” Chu Tử Tần suýt thì ngã ngựa, “Sao lại đến nhà Trương nhị ca?”
“Hôm qua công tử không tới Đại Lý Tự à? Bức tranh ở nhà họ Trương biến mất rồi.”
“Tranh nào? Công công nói bức tranh vẽ ba cảnh chết ấy ư?” Chu Tử Tần kích động đến nỗi suýt đánh rơi cái bánh hấp, “Lẽ nào bức tranh đó có liên quan tới những chuyện này thực ư? Liên quan thế nào? Rốt cuộc vì sao các hình vẽ trong tranh lại giống các vụ án đến thế? Trương nhị ca gặp phiền phức rồi ư? Tả Kim Ngô Vệ định xử lý thế nào? Nếu Trương nhị ca xảy ra chuyện thì Tích Thúy làm sao đây?”
“Công tử cứ ăn bánh đi đã.” Hoàng Tử Hà chặn đứng tràng cật vấn của gã, giơ tay vỗ Na Phất Sa một cái, thúc nó chạy nhanh hơn.
Đi từ Đông sang Tây, băng qua nửa thành Trường An, cuối cùng họ cũng đến nhà Trương Hàng Anh.
Giờ vẫn còn sớm, các bà các chị trong phường đang đi xách nước, vừa xách vừa bàn tán: “Này, mấy người hôm qua hình như là người của quan phủ hay sao ấy? Sao tự dưng kéo đến đông thế nhỉ?”
“Nghe nói con thứ nhà họ Trương lại gây ra chuyện rồi.”
“Nhẽ đâu thế, thằng bé đó trông thật thà lắm mà, sao dạo này cứ xảy ra chuyện thế nhỉ, hết bị phủ Quỳ vương đuổi, lại bị Tả Kim Ngô Vệ trục xuất, giờ cả quan phủ cũng sờ đến rồi, đúng là… Trước đây thực không nhìn ra nó lại là người như thế đâu!”
Chu Tử Tần không dám tin vào tai mình, nhảy ngay xuống ngựa túm lấy người kia hỏi: “Gì cơ? Ai bảo Trương nhị ca bị Tả Kim Ngô Vệ trục xuất? Sao lại thế được?”
Người phụ nữ trung niên nọ thấy gã nhảy phắt xuống ngựa túm lấy mình thì phát hoảng: “Còn chẳng thế ư? Người của quan phủ kéo đến nhà nó lục soát, hôm nay nó cũng không ra ngoài, chẳng phải là bị đuổi rồi à?”
Hoàng Tử Hà nhíu mày: “Tử Tần, đôi co với người lạ làm gì?”
Chu Tử Tần nghe vậy đành hậm hực dắt Tiểu Hà đi về phía nhà Trương Hàng Anh. Hoàng Tử Hà cũng xuống ngựa, hai người vừa đến cổng nhà họ Trương, chưa kịp gõ đã thấy một cô gái từ bên trong xông ra, suýt nữa va vào họ.
Đằng sau vang lên tiếng Trương Hàng Anh gọi thất thanh: “A Địch! Muội đi đâu thế?”
Hoàng Tử Hà tức thì giơ tay tóm lấy cánh tay cô gái vừa lao ra, giữ cô ta lại.
Chỉ thấy cô gái kia mặt mày tái ngắt, búi tóc cài cây trâm gỗ, vận một chiếc áo xanh tay hẹp, chân xỏ đôi hài xanh thêu hoa râm bụt, chính là Tích Thúy.
Nàng bị Hoàng Tử Hà tóm chặt, không sao giằng ra được, chỉ run rẩy gọi “Dương công công”, nước mắt lã chã.
Hoàng Tử Hà vội hỏi: “Cô nương sao thế? Cãi nhau với Trương nhị ca ư?”
Tích Thúy lắc đầu quầy quậy, nhưng không nói năng gì.
Trương Hàng Anh đã chạy ra đến nơi, buồn bã nói: “A Địch, muội đừng làm liều, chuyện này… có liên quan gì đến muội đâu.”
Hoàng Tử Hà đưa mắt ra ý bảo Chu Tử Tần “bình tĩnh”, rồi dẫn Tích Thúy vào, nhỏ nhẹ dỗ dành: “Rốt cuộc xảy ra chuyện gì, cô nương kể cho chúng tôi nghe được không? Nếu giúp gì được cô, chúng tôi sẽ dốc hết sức. Đừng thế này nữa, tốt xấu gì cũng có thêm người nghĩ cách giúp các vị, phải không nào?”
Xong Tích Thúy cứ ôm mặt khóc rưng rức, chẳng nói chẳng rằng.
Trương Hàng Anh rầu rĩ kể: “A Địch… chẳng hiểu sao cả đêm qua cứ đứng ngoài sân, sáng nay tôi ngủ dậy trông thấy, gặng hỏi duyên do, cô ấy nói nhăng nói cuội cái gì mà tôi vốn tiền đồ như gấm, đều là bị cô ấy… cô ấy làm hại, còn bảo không thể làm liên lụy đến tôi nữa, đòi… đòi bỏ đi!”
Hoàng Tử Hà chưa kịp nói gì thì Tích Thúy đã nghẹn ngào tiếp lời: “Trương nhị ca, muội… là người xui xẻo, huynh ở bên muội… sẽ bị vạ lây đấy! Cha muội đã nói mà, muội chính là sao chổi, vừa ra đời đã hại chết mẹ ruột mình, về sau lại… lại rơi vào tình cảnh thế này, đáng lẽ không nên sống trên đời nữa…”
“Không được nói bậy!” Trương Hàng Anh cất lời, đoạn dáo dác nhìn quanh, thấy không có ai, vội tóm lấy tay kéo nàng vào sân, đóng cổng lại.
“Muội… muội nói thật đấy!” Tích Thúy khóc lạc cả giọng, gào lên với bọn Hoàng Tử Hà: “Các người có biết tôi là ai không? Là Lữ Tích Thúy! Chính là người bị cả thành Trường An chê cười bàn tán đấy! Cả thiên hạ đều biết tôi bị Tôn ghẻ làm nhục, đáng lẽ phải bỏ xác ngoài đồng hoang rồi! Tôi không nên sống ở đây, càng không nên làm liên lụy Trương nhị ca!”
“A Địch!” Trương Hàng Anh lao đến ôm chặt lấy nàng, bịt miệng nàng lại không cho nói tiếp nữa.
Tuy bị Trương Hàng Anh ôm ghì lấy, bịt chặt miệng lại, xong nước mắt Tích Thúy vẫn lăn dài trên má, ánh mắt đầy tuyệt vọng, khiến người ta thấy mà xót xa.
Hoàng Tử Hà liền đứng dậy bước đến cạnh nàng, nhỏ nhẹ an ủi: “A Địch cô nương, tôi biết việc chúng tôi đến điều tra làm cô lo lắng, nhưng thực ra chúng tôi không có ác ý đâu, xin cô chớ sợ. Trương nhị ca là bạn chúng tôi, trước đây cũng giúp đỡ tôi rất nhiều, tôi biết bản tính huynh ấy thật thà ngay thẳng, bị cuốn vào vụ này chẳng qua vì trong trăm ngàn manh mối có mấy việc liên quan đến huynh ấy nên chúng tôi tới hỏi chuyện theo lệ đấy thôi, cô đừng lo, hỏi xong chúng tôi sẽ đi ngay.”
Tích Thúy vẫn nhìn cô chằm chằm, chẳng có vẻ gì là đã nghe hiểu.
Hoàng Tử Hà thở dài nói: “Trương nhị ca, huynh buông A Địch cô nương ra đi, chúng tôi hỏi vài câu rồi đi thôi.”
Trương Hàng Anh bèn dìu Tích Thúy ngồi xuống bên chiếc bàn đá, dỗ dành: “Muội đợi một lát, lát nữa là ổn thôi.”
Hoàng Tử Hà ra ý bảo Trương Hàng Anh ngồi xuống rồi hỏi: “Hôm qua người Đại Lý Tự bảo sao? Bên Tả Kim Ngô Vệ nói thế nào?”
Trương Hàng Anh lo lắng xoa tay đáp: “Chiều qua tôi đang ở Tả Kim Ngô Vệ thì người Đại Lý Tự đến tìm, nói muốn mượn bức tranh nghe đồn là thủ bút của tiên hoàng. Bấy giờ tôi còn thắc mắc, nhà tôi xưa nay cất giữ bức tranh ấy rất kỹ, cũng chẳng bao giờ kể với ai, sao người Đại Lý Tự lại biết. Nhưng họ đã nói thế, tôi cũng đành dẫn họ về nhà, bảo họ đợi bên dưới còn mình lên gác mở tủ lấy tranh… Nào ngờ lấy chìa khóa mở tủ ra, thì không thấy tranh đâu nữa!”
“Không thấy ư?” Chu Tử Tần ngạc nhiên hỏi.
“Đúng thế, bức tranh vẫn cất trong tủ mười mấy năm nay, bỗng dưng không cánh mà bay! Tôi phát hoảng, vội chạy đi hỏi cha, cha tôi cũng cuống lên, chúng tôi và A Địch lật tung căn gác lên mà không thấy. Tôi chẳng còn cách nào, đành bảo với người của Đại Lý Tự rằng tranh đã không còn, nhưng họ không tin, nói rằng bức tranh đó rất quan trọng, bề trên đã yêu cầu đích danh, nếu tôi không giao ra thì chẳng ai gánh nổi trách nhiệm đâu. Tôi biết Đại Lý Tự phải ăn nói với bề trên, nhưng quả thật bức tranh đã mất, tôi làm thế nào được? Kết quả người của Đại Lý Tự nói với Tả Kim Ngô Vệ rằng tôi có liên quan tới hai vụ án mạng, kèm cả vụ phò mã trọng thương, huynh bảo còn không đủ to chuyện ư? Tả Kim Ngô Vệ bảo tôi hẵng xử lý cho xong vụ này đã, chưa xong thì không cần tới điểm danh nữa.”
Chu Tử Tần kinh ngạc quay sang hỏi Hoàng Tử Hà: “Công công đoán xem… là tên khốn nào bắt Đại Lý Tự đi lấy bức tranh vậy? Có phải là Đồng Xương công chúa không?”
Hoàng Tử Hà chống trán, cô đương nhiên biết “tên khốn” ấy là Lý Thư Bạch, có lẽ y chỉ tiện miệng bảo Đại Lý Tự một câu, kết quả Đại Lý Tự lại làm rùm beng, thành ra to chuyện thế này.
Nhưng nghe Chu Tử Tần hỏi vậy, cô đành đáp: “Tôi nghĩ… cũng không hẳn, Đồng Xương công chúa làm sao biết nhà Trương nhị ca có bức tranh ấy?”
“Huống hồ, dù có thì liên quan gì? Tranh là tiên hoàng vẽ chứ có phải Trương nhị ca đâu, phải không nào?” Chu Tử Tần hùng hổ đập bàn đứng phắt dậy, “Không được! Ta phải đi nói lý lẽ với Vương Uẩn!”
Hoàng Tử Hà cơ hồ muốn sụp lạy tư duy nhảy cóc của Chu Tử Tần: “Liên quan gì đến Vương đô úy?”
“Vương Uẩn cai quản Tả Kim Ngô Vệ chứ sao! Đại Lý Tự làm khó người dưới của hắn, sao hắn không ra mặt che chở? Chẳng phải chỉ mất một bức tranh thôi ư? Lại là tranh của nhà huynh ấy, không phải của Đại Lý Tự, Đại Lý Tự dựa vào điều luật nào mà bắt Trương nhị ca giao ra? Tả Kim Ngô Vệ thì dựa vào quy định gì bắt huynh ấy ở nhà tìm cho được mới được đến?”
Hoàng Tử Hà ngán ngẩm lườm gã: “Quan phủ tra án, bất luận là vương công đại thần hay thường dân trăm họ đều phải phối hợp. Có lẽ bức tranh của Trương nhị ca quả có liên quan tới vụ án, dù Đại Lý Tự bắt huynh ấy phải lập tức đi tìm, cũng không trách được.”
Chu Tử Tần tức thì tiu nghỉu, nằm bò ra bàn: “Thực ra ta cũng biết mà… Chẳng qua là bất bình thay cho Trương nhị ca thôi! Khó khăn lắm huynh ấy mới vào được Tả Kim Ngô Vệ, chúng ta còn chưa kịp quay về Đoan Thụy Đường cho lão già phơi thuốc vênh váo kia bẽ mặt, thì lại gặp phải chuyện này! Ta bảo, Trương nhị ca, dạo này có lẽ huynh nên đến chùa miếu nào đó thắp hương đi, sao cứ gặp xui xẻo mãi vậy…”
Chưa nói hết câu, bắt gặp cái nhìn trừng trừng của Hoàng Tử Hà, trông thấy Tích Thúy đã hơi nguôi nguôi giờ lại lã chã nước mắt, Chu Tử Tần vội giơ tay vả vào miệng, không nói thêm nữa.
Hoàng Tử Hà đứng dậy đề nghị: “Vào xem ngăn tủ đựng tranh của nhà huynh đã nhé.”
Trương Hàng Anh vội đáp: “Được thôi.”
Mấy người đứng dậy đi vào trong, theo cầu thang lên tầng hai.
Tủ đựng tranh ngay ở đầu cầu thang, cửa tủ móc một ổ khóa gỉ sét, Trương Hàng Anh mở một tủ khác kế bên cạnh ra, chỉ thấy bên trong ngổn ngang đủ thứ, nào hộp gỗ, lồng dế, gạt tàn…
Gã dốc ngược gạt tàn, moi ra một cái chìa khóa, mở tủ đựng tranh cho họ xem.
Bên trong đó cũng chứa rất nhiều đồ, mấy súc vải, hơn nửa quan tiền, phía dưới xếp vài loại thuốc. Ngăn trên cùng đặt một chiếc hộp gỗ dài dùng đựng cuốn trục, nhưng bên trong trống rỗng.
Trương Hàng Anh trỏ chiếc hộp nói: “Lúc người Đại Lý Tự đến, tôi mở tủ ra thì đã thế này rồi.”
Nhìn những đồ vật xếp ngay ngắn bên trong, Hoàng Tử Hà lại hỏi: “Bức tranh mất lúc nào thế? Ngoài ra còn mất gì không?”
“Không biết nữa, hôm ấy cho các vị xem xong tôi đã cất đi rồi, sau đó cũng chẳng mở tủ ra nữa. Mọi thứ trong tủ vẫn y nguyên, thậm chí hộp vẫn đậy kín, chỉ mất mỗi tranh thôi.”
Hoàng Tử Hà cau mày thở dài, ra ý bảo gã đóng tủ lại rồi nói: “Trương nhị ca, tôi biết rồi.”
Trương Hàng Anh tròn xoe mắt: “Gì cơ? Huynh đã biết nó đi đâu rồi ư?”
“Tôi nghĩ, có lẽ đến trưa, hoặc ngày mai, nó sẽ quay lại.” Đoạn cô đưa mắt nhìn Tích Thúy, thấy nàng ta đờ đẫn né tránh ánh mắt mình, bèn nói thêm: “Hơn nữa, người tốt như Trương nhị ca, ngay một cô gái mắc nạn ngất xỉu trong núi còn đưa về nhà cứu chữa; lại thêm bản tính đôn hậu, không so đo quá khứ của người khác; đối đãi ai cũng hết lòng hết dạ, hẳn người bên cạnh huynh cũng cảm động, trời cao ắt cũng thành toàn cho huynh, để bức tranh ấy mau quay trở về. Bằng không, kẻ cắp tranh cũng sẽ đánh mất thứ quý giá nhất của mình, đồng thời phải chịu sự giày vò của lương tâm.”
Trương Hàng Anh ngỡ ngàng hỏi: “Ý huynh là không cần tìm, bức tranh sẽ tự quay về ư?”
“Ừm, tôi nghĩ thế.”
Nói đoạn Hoàng Tử Hà quay mình bước xuống gác: “Trước mắt chuyện bức tranh cứ thế đã, tôi còn phải hỏi huynh mấy việc nữa đây.”
Chu Tử Tần sốt ruột nhắc: “Sùng Cổ, vậy rắc rối của Trương nhị ca thì sao? Ăn nói thế nào với Đại Lý Tự đây? Cả bên Tả Kim Ngô Vệ nữa, công công đi nói vài lời hay là ta đi? Lẽ nào công công định trơ mắt nhìn Trương nhị ca bị vận rủi quấn thân, lại phải quay về Đoan Thụy Đường cho người ta chèn ép bóc lột hay sao?”
Hoàng Tử Hà chẳng buồn nhìn gã: “Tử Tần, bức tranh chỉ là một trong các lý do chúng ta đến đây thôi, tôi còn việc quan trọng hơn phải hỏi Trương nhị ca đây, công tử cầm sổ ra ghi chép lại cho tôi.”
“Được…” Chu Tử Tần ngoan ngoãn lấy bút mực từ chiếc túi đeo trên mình ngựa ra.
“Trương nhị ca, hiện giờ trong tay tôi có cả thảy ba vụ án, đều liên quan tới phủ công chúa.”
Hoàng Tử Hà ngồi xuống đối diện Trương Hàng Anh rồi đi ngay vào đề, phớt lờ vẻ thấp thỏm bất an của gã: “Vụ thứ nhất là Ngụy Hỷ Mẫn, hoạn quan phủ công chúa bị chết cháy tại chùa Tiến Phúc, bấy giờ Trương nhị ca đang ở trong chùa, hơn nữa khi ngọn nến phát nổ, lửa bén vào Ngụy Hỷ Mẫn thì huynh đang ở ngay cạnh y.”
Quai hàm Trương Hàng Anh bạnh ra, gã miễn cưỡng gật đầu.
“Vụ thứ hai, là tại sân kích cúc của Tả Kim Ngô Vệ, trong buổi tỉ thí hôm trước, phò mã Vi Bảo Hoành ngã ngựa bị thương, huynh cũng có mặt tại hiện trường, đang so tài với phò mã.”
Trương Hàng Anh lại gật đầu không đáp.
“Vụ thứ ba, là cái chết của Tôn ghẻ. Thời gian tử vong của hắn ước chừng vào khoảng giờ Ngọ, mà lúc ấy huynh lại ở phường Đại Ninh, bị mấy bà thím ngồi hóng mát trong góc khuất bắt gặp.”
Chu Tử Tần đang múa bút tốc ký cũng dừng phắt lại, ngỡ ngàng nhìn Trương Hàng Anh.
Trương Hàng Anh mấp máy môi, cuối cùng lên tiếng phân trần: “Tôi… tôi cũng chẳng hiểu sao lại trùng hợp như vậy nữa… Thực ra hôm ấy tôi đến phường Đại Ninh, nhưng… nhưng chẳng làm gì cả, thật đấy! Tôi nghe người trong kinh đồn rằng Tôn ghẻ đang nhốt mình trong lồng sắt, nên đến xem thử…”
“Giữa trưa hè nắng chang chang mà huynh đội nắng đi cả nửa thành Trường An, từ Tây sang Đông, chỉ để chứng thực câu chuyện cười về Tôn ghẻ ư?” Hoàng Tử Hà lạnh lùng vặt lại.
Trước thái độ lạnh nhạt của cô, Trương Hàng Anh lúng túng, không ngờ cô lại đột ngột hỏi vặn lại như thế. Ngập ngừng hồi lâu, gã mới nghiến răng đáp: “Tôi bấy giờ… có mang theo dao.”
Chu Tử Tần bối rối cầm chặt cây bút thừ người ra, bắt gặp cái lườm của Hoàng Tử Hà, mới cắm cúi chép lại những lời Trương Hàng Anh kể ra giấy.
“Tôi định đến giết Tôn ghẻ, nhưng khi đến mới phát hiện nhà hắn kiên cố vô cùng, không một khe hở, chẳng khác nào một cái lồng sắt, không sao lẻn vào được… Vì thế, tôi đành quay về.”
“Sao lại muốn tìm Tôn ghẻ?”
“Vì trong trận hỗn loạn ở chùa Tiến Phúc hôm ấy… Lúc Tích Thúy bị rơi mũ, tôi che cho cô ấy, rồi bị đám đông đẩy đến sát tường. Bấy giờ tôi giơ tay chống vào tường, chắn cho cô ấy, cả hai đứng đó không thể nhúc nhích… Đúng lúc ấy, Tôn ghẻ cũng có mặt ở chùa, hơn nữa, lại bị dòng người đẩy đến cạnh chúng tôi…” Trương Hàng Anh kể rất khẽ, trong mắt bùng lên một ngọn lửa dữ dội chưa từng thấy, khoảnh khắc ấy, nam nhân chất phác ôn hòa này đã bộc lộ niềm căm hận chôn sâu tận đáy lòng, khiến những người nghe hiểu ra rằng, dù là người thật thà ngay thẳng đến đâu cũng có lúc muốn bất chấp tất cả để giết chết kẻ thù.
Tích Thúy siết chặt nắm tay lại đặt lên ngực, thở dốc. Vì khóc lóc quá nhiều, mắt nàng đã sưng húp cả lên, giờ chỉ có thể nhắm nghiền mắt lại, gồng hết sức nén tiếng nức nở.
“Tôn ghẻ… trông thấy A Địch, trông thấy tôi đang che chắn cho cô ấy…” Lồng ngực Trương Hàng Anh phập phồng dữ dội, giọng nghẹn lại vì căm hận: “Ánh mắt hắn nhìn A Địch, cứ như rắn độc vậy… Rồi hắn bỗng bật cười hô hố, dương dương tự đắc nói… nói rằng…”
Trương Hàng Anh không kể tiếp được nữa, chỉ cúi đầu, nghiến chặt hai hàm răng, nét mặt hung ác.
“Hắn nói, cái giày ông Tôn mày đi nát rồi, vẫn có thằng nhặt về đi à.”
Giọng Tích Thúy rất khẽ, nghẹn ngào khản đặc.
Đôi mắt đỏ ngầu của nàng trợn trừng, như thể Tôn ghẻ đang đứng ngay trước mặt, còn nàng phải xông tới lóc từng miếng xương miếng thịt hắn ra mới cam lòng.
Hoàng Tử Hà cũng cảm thấy một ngọn lửa hừng hực bốc lên đầu, giữa trời nóng hầm hập, cả người cô như bốc hỏa, chỉ hận hôm ấy ở chùa Tiến Phúc mình không tóm lấy Tôn ghẻ, ném hắn xuống bùn.
Chu Tử Tần bên cạnh đã quăng bút lên bàn rủa: “Đồ khốn! Để ta băm xác hắn thành trăm mảnh!”
Hoàng Tử Hà hít sâu một hơi, gắng nén cơn giận trong lòng xuống, nhắc gã: “Tử Tần lo ghi lại đi, đừng phân tâm!”
Chu Tử Tần hậm hực nhặt bút lên: “Ta phục Sùng Cổ thật đấy, thế mà cũng nhịn được ư.”
“Lúc tra án, kỵ nhất là để tình cảm chen vào, phải luôn đặt bản thân ra ngoài, thì mới quan sát rõ được cục thế.” Nói rồi, cô lại quay sang bảo Trương Hàng Anh và Tích Thúy: “Hai vị bình tĩnh lại đi… Tôn ghẻ đúng là loại cầm thú, không biết lúc ấy Trương nhị ca phản ứng thế nào?”
Trương Hàng Anh nghiến răng đáp: “Bấy giờ tôi chỉ muốn xông tới đánh hắn chết tươi! Tiếc rằng trong chùa rất hỗn loạn, chen chúc đông nghẹt, tôi không sao lách tới chỗ hắn được, đành trơ mắt nhìn hắn nhơn nhơn bỏ đi!”
Hoàng Tử Hà lại hỏi Tích Thúy: “Thấy Trương nhị ca phẫn nộ như thế, cô nương nghĩ gì?”
Tích Thúy chầm chậm lắc đầu, giơ tay lên day huyệt Thái dương đang giần giật, khó nhọc đáp: “Bấy giờ tôi… chỉ thấy mình đã chết rồi, không nhìn không nghe được gì nữa cả, Trương nhị ca làm gì… tôi cũng không có cảm giác. Sau đó Trương nhị ca dìu tôi về… Tôi cũng chẳng biết mình về nhà thế nào nữa…”
“Trương nhị ca, lúc đó huynh đã biết thân phận thực của A Địch cùng những việc cô ấy gặp phải, cũng biết rõ bi kịch của cô ấy không chỉ do Tôn ghẻ gây ra, mà còn có bàn tay Ngụy Hỷ Mẫn, đúng không?”
Trước câu hỏi của Hoàng Tử Hà, Trương Hàng Anh sững ra, không biết trả lời thế nào.
Chu Tử Tần liền xen vào: “Lần trước Trương nhị ca kể với ta rằng, trước đó huynh ấy không biết chuyện của Tích Thúy, cũng không biết nội tình lại liên quan tới phủ công chúa.”
“Trương nhị ca nói dối, đúng không?” Hoàng Tử Hà đứng dậy, đi đến cạnh Na Phất Sa, lấy tập tài liệu của Đại Lý Tự từ chiếc hòm trên lưng nó, rút ra một tờ cho mọi người xem.
“Trương nhị ca kể với Tử Tần rằng, khi Ngụy Hỷ Mẫn chết cháy, huynh không biết y là Ngụy Hỷ Mẫn, cũng không trông thấy Ngụy Hỷ Mẫn bắt lửa thế nào, phải không?”
Trương Hàng Anh lặng lẽ gật đầu.
“Nhưng người Đại Lý Tự lại điều tra được một chuyện vụn vặt trong phủ công chúa: mấy hôm trước khi xảy ra chuyện ở chùa Tiến Phúc, thuốc công chúa thường uống sắp hết, mà Thái Y Viện lại thiếu một vị thuốc nên chưa chế được. Thế là Ngụy Hỷ Mẫn, kẻ tháo vát nhất bên cạnh công chúa bèn đi khắp mấy tiệm thuốc lớn trong kinh tìm mua. Sau khi về phủ, y còn nói với người khác rằng, hiện giờ trong các tiệm thuốc ở kinh thành, Đoan Thụy Đường có thể xếp hàng đầu, sân phơi thuốc thì rộng mênh mông, tên giúp việc chuyên xóc thuốc ở đó trông cũng khôi ngô đĩnh đạc, hơn hẳn các nhà.”
Trương Hàng Anh ngồi bất động, ánh mắt nhìn dán vào mặt bàn đá, không chớp.
“Đại hoạn quan phủ Đồng Xương công chúa đích thân đến tận sân phơi tìm mua thuốc, còn quan sát huynh xóc thuốc, lẽ nào huynh lại quên ư? Dù huynh không biết nghe ngóng, chẳng lẽ không ai nói với huynh người đó là ai?”
Chu Tử Tần ngạc nhiên nhìn Trương Hàng Anh, mặt nhăn như bị: “Trương nhị ca thành thực như vậy mà… cũng gạt ta ư?”
“Đâu chỉ có thế.” Hoàng Tử Hà nhìn chằm chằm Trương Hàng Anh, “Trương nhị ca, huynh cũng đã biết Ngụy Hỷ Mẫn là một trong những kẻ đầu sỏ hại Tích Thúy thành ra như thế, đúng không?”
“Phải… Là tôi gạt các vị.” Trương Hàng Anh cuối cùng cũng lên tiếng, giọng khản đặc, chậm rãi mà khó nhọc trả lời: “Tôi đã biết thân phận thực của A Địch từ lâu rồi. Bởi thế tôi từng đến tiệm nhang đèn nhà họ Lữ xem có nên báo với cha cô ấy rằng cô ấy chưa chết, đang ở nhà tôi hay không…”
Nào ngờ khi đến, gã lại phát hiện mấy người, trong đó có cả Ngụy Hỷ Mẫn, hoạn quan phủ công chúa mà gã từng gặp, đang khiêng một bao tải khá nặng đi vào.
Người phủ công chúa cứ ở mãi trong nhà không ra, gã loáng thoáng nghe thấy mấy tiếng “Tích Thúy”, bèn lẻn đến dưới song cửa, áp tai vào tường nghe lén.
Đầu tiên là giọng Ngụy Hỷ Mẫn hống hách: “Lão Lữ à, Tích Thúy mạo phạm công chúa nên ta mới sai người đánh cho một trận. Nào ngờ cô ta không chịu được đòn roi, mới đánh mấy cái đã ngất xỉu. Phủ công chúa không thể giữ người lại dưỡng thương, đương nhiên phải đưa ra ngoài. Về sau gặp phải chuyện đó thì liên quan gì tới chúng ta? Hôm nay ta nói thẳng, xảy ra chuyện như vậy là do con gái lão xui xẻo, chẳng liên quan gì tới phủ công chúa cả! Giờ chẳng qua công chúa và phò mã thương hại các ngươi nên mới ban cho những thứ này, để các ngươi khỏi nói lung tung ra ngoài, bôi nhọ thanh danh phủ công chúa đấy thôi, lão có hiểu không hả?”
Bên trong vang lên tiếng Lữ Chí Nguyên xóc xóc mấy đĩnh bạc, rồi chậm rãi nói: “Các công công cứ yên tâm, tôi đã cho con gái một sợi dây thừng, để nó tự đi tìm lấy bình yên rồi, sau này sẽ không bao giờ xuất hiện trước mặt các vị nữa đâu.”
“Lão biết thế là tốt.” Ngụy Hỷ Mẫn ném lại một câu rồi quay lưng dẫn mấy hoạn quan kia đi thẳng.
Trương Hàng Anh nấp dưới cửa sổ, nghe chúng vừa đi vừa chửi rủa: “Lão già khốn kiếp này, sống chẳng được mấy lâu mà nhận tiền nhanh thế, cũng chẳng tự nhìn lại xem mình có số hưởng hay không?”
“Đúng thế, lão không con không cái, sau này chết đi để tiền cho ai!”
“Xời, ngươi còn sợ lão không tiêu hết mấy đồng tiền cỏn con ấy sao!”
Trương Hàng Anh thuật lại chuyện hôm đó rồi thừ người ra, ánh mắt dừng ở Tích Thúy, dịu giọng: “A Địch, giờ không sao nữa rồi, những kẻ gây ra bi kịch của muội đều đã chết cả… Sau này muội nhất định sẽ hạnh phúc.”
Tích Thúy mở to đôi mắt sưng húp nhìn gã, không nói một lời.
Trái lại, Chu Tử Tần ngỡ ngàng run run hỏi: “Trương nhị ca, lẽ nào… hung thủ là huynh thật ư?”
Trương Hàng Anh lắc đầu phân bua: “Không phải tôi, đúng là tôi muốn giết chúng, nhưng không có cơ hội.”
Hoàng Tử Hà nhìn hai người trước mặt, một bên là nam tử khôi ngô ngay thẳng, một bên là thiếu nữ thanh tú tháo vát, vốn là một cặp đẹp đôi, nhưng ai mà ngờ được, giữa họ lại có bấy nhiêu mưa sầu gió thảm, long đong trắc trở nhường ấy?
Nghĩ vậy, cô chỉ biết thở dài, ra ý bảo Chu Tử Tần gấp giấy bút lại rồi nói: “Trương nhị ca, hy vọng lần này huynh không nói dối chúng tôi. Cũng mong rằng chúng tôi sẽ không tìm thấy thêm chứng cứ phạm tội của huynh nữa.”
Trương Hàng Anh đứng dậy cúi đầu không nói. Thân hình cao lớn của gã lúc này chợt còng xuống, tựa hồ cái gánh trên vai đã quá nặng, khiến gã không thể tự chủ, cũng chẳng lấy lại được lòng hăng hái như xưa nữa.
Ánh mắt Hoàng Tử Hà lại dừng ở Tích Thúy, cô nói như than thở: “Hy vọng bức tranh kia mau quay trở về. Sớm giao được cho Đại Lý Tự, coi như cũng xong một việc.”
Ra khỏi nhà họ Trương, Hoàng Tử Hà một mực lặng thinh. Ngay cả Chu Tử Tần hằng ngày vẫn bô lô ba la, giờ cũng im như thóc.
Gã cưỡi Tiểu Hà theo sau Na Phất Sa, cùng cô đi về phía Đông. Vòng qua phường Lễ Tuyền vào chợ Tây, gã mới hỏi: “Ta đi đâu đây?”
Hoàng Tử Hà đáp: “Tới tìm ông chủ tiệm ngựa Tiền Ký, Tiền Quan Sách.”
Mặt tiền tiệm ngựa Tiền Ký chiếm một khoảnh rất rộng ở chợ Tây, vừa vào đã thấy. Nhưng mấy tàu ngựa trong khoảnh sân mênh mông phía sau còn lớn hơn. Ông chủ Tiền Quan Sách đang hả hê đi lại giữa những dãy chuồng, quan sát con này, vỗ về con kia, hài lòng ra mặt.
“Chào ông chủ Tiền.” Hoàng Tử Hà lên tiếng.
Vẻ thỏa mãn tắt lịm, nét mặt Tiền Quan Sách chuyển sang bối rối cùng niềm nở đầy khách sáo: “Ai da, Dương công công! Không kịp tiếp đón công công từ xa, tại hạ thật là thất lễ!”
“Đâu có, là ta không muốn kinh động ông chủ Tiền, nên không đợi được thông báo đã đi thẳng vào xem ngựa.” Nói rồi cô giao cương ngựa cho tay giữ ngựa cạnh đó.
Vừa trông thấy Na Phất Sa, Tiền Quan Sách đã sáng mắt lên, sán đến sờ nắn vuốt ve nó một lượt rồi tấm tắc: “Ngựa tốt, đúng là ngựa tốt mà… Trong số các thớt ngựa đã qua tay tôi bao năm nay, chẳng con nào bì được con này cả. Công công tìm đâu ra nó vậy?”
“Ừm… Chủ cũ chê nó quá hiền hòa nên giao cho ta cưỡi tạm.” Đoạn Hoàng Tử Hà vào đề ngay, “Ông chủ Tiền, gác chuyện ngựa qua một bên đi, hôm nay ta đến là có việc muốn thỉnh giáo ông.”
“Ôi, không dám không dám, công công có gì cứ hỏi đi, tôi nhất định biết đến đâu khai đến đấy, biết hết khai hết!” Tiền Quan Sách nói mà mắt không rời Na Phất Sa, đầy vẻ thèm muốn.
Chu Tử Tần rầu rĩ dắt con Tiểu Hà của mình vào buộc cạnh Na Phất Sa để hai con cùng ăn cỏ. Vừa trông thấy gã, Tiền Quan Sách vội chắp tay chào: “Chu công tử! Ngưỡng mộ đã lâu, lần này được công tử hạ cố đến thăm, thật là vinh dự cho tôi quá!”
“Ông biết ta ư?”
“Công tử khéo đùa, trong thành Trường An này có ai không biết công tử?”
Hoàng Tử Hà nghe nói liền quay sang xem xét bộ đồ hôm nay Chu Tử Tần mặc. Áo lụa màu xanh cánh trả, thắt lưng vàng cam, đi giày đỏ, đeo đủ thứ dây nhợ trang sức lùng nhùng, hèn chi người trong kinh thành chỉ cần trông thấy một lần, nhất định sẽ có ấn tượng sâu sắc, không thể nào quên.
Chu Tử Tần cũng chắp tay chào Tiền Quan Sách: “Ông chủ Tiền, ta cũng nghe danh ông đã lâu, nghe nói ông là người làm ăn giỏi nhất kinh thành, trong vòng mười năm mà phát đạt đến thế này, quả là truyền kỳ, truyền kỳ!”
“Đâu có, đều nhờ phúc mọi người cả thôi.” Tiền Quan Sách cười khà dẫn họ vào trong, ngồi xuống một tấm thảm Ba Tư dày dặn, lại sai người hầu pha trà, rồi hỏi: “Chẳng biết hai vị đến có việc gì? Không rõ phủ Quỳ vương có việc sai bảo, hay là nha môn bộ Hình có gì căn dặn?”
“Thực không dám giấu, giờ hai chúng ta đều bị Đại Lý Tự phái đi điều tra mấy vụ án liên quan tới phủ công chúa.” Hoàng Tử Hà vào đề ngay.
Cơ thịt trên gương mặt nung núc của Tiền Quan Sách giần giật, hắn lo lắng phân trần: “Dương công công, lần trước tiểu nhân đã trình bày với ngài rồi đấy thôi, tôi và phò mã quả thật chỉ gặp nhau có đúng ba lần, thật mà! Còn công chúa thì, tôi xin thề rằng mình vô duyên vô phúc, xưa nay chưa từng được gặp!”
“Lần này ta đến không phải hỏi về việc phò mã.” Hoàng Tử Hà bưng ly trà nóng hổi vừa pha, quan sát hắn qua màn khói: “Ta chỉ muốn hỏi ông chủ Tiền, về việc… con gái ông mười năm trước.”
Cơ mặt Tiền Quan Sách đang giần giật bỗng cứng đờ, hắn ngây người thật lâu mới thở hắt ra, cả người sụp xuống, như một đống thịt chảy nhão ra trên thảm: “Dương công công, con gái tôi… ôi, bỗng dưng công công hỏi đến chuyện mười năm trước làm gì?”
“Ta nghe nói năm xưa ông chủ Tiền dắt díu cả nhà từ quê lên đây lánh nạn, đến nơi thì nhẵn túi, phải lang thang ngoài đường kiếm ăn, suýt thì chết đói. Số vốn đầu tiên để khởi nghiệp, là lấy từ…”
“Là từ tiền bán con gái.” Tiền Quan Sách cắt lời cô, giọng mệt mỏi, “Ài, tuy tôi chẳng còn mặt mũi nào mà nói ra, nhưng công công đã biết thì tôi đành kể vậy. Mười năm trước, Hoàng Hà đổi dòng khiến quê tôi bị lụt, nhà cửa ruộng vườn ngập úng cả. Tôi thấy không còn đường sống, đành dắt díu vợ, con gái, cùng hai đứa con trai lên kinh. Kết quả trên đường đi vợ tôi lâm bệnh qua đời, đành đào hố chôn ngay bên đường. Về sau tôi phát đạt, quay lại tìm kiếm mấy lần mà không sao tìm thấy chỗ chôn bà ấy nữa…”
Chu Tử Tần rút giấy bút ra, bắt đầu miệt mài ghi chép rất chuyên nghiệp.
Thấy gã ghi lại, Tiền Quan Sách hơi chần chừ, xong vẫn kể tiếp: “Sau khi dẫn ba đứa nhỏ đến Trường An, tôi quá túng quẫn. Buôn bán thì không có vốn, làm việc nặng thì dọc đường lặn lội đến đây, tôi đã đói đến bải hoải cả người rồi. Thế là tôi đành dắt theo ba đứa con lê lết xin cơm ngoài phố, được ngày nào hay ngày nấy, xong cứ thế mãi thì một người lớn và ba trẻ nhỏ đều phải chết đói. Cho tới một hôm, cha con tôi đang xin cơm thì trông thấy một hoạn quan đi tìm mua cung nữ hoạn quan, một đứa trẻ là năm quan tiền. Tôi bèn nhìn lại ba đứa con, tính rằng nếu bán đi một đứa, kiếm ít tiền vốn làm ăn, không chừng hai đứa kia còn có con đường sống. Thế là, tôi bèn bảo Hạnh nhi, con gái mình: ‘Hạnh nhi, hai em con còn ít tuổi, hơn nữa sau này con trai lớn lên phải nối dõi tông đường, đúng không nào? Chi bằng con đi theo vị công công kia đi.’ Bấy giờ Hạnh nhi khóc lóc thảm thiết, cứ ôm ghì lấy chân tôi không buông. Nhưng tôi cũng chẳng có cách nào, đành ngồi xuống ôm lấy nó mà nước mắt ròng ròng, dỗ dành, ‘Hạnh nhi, lần này con vào cung làm cung nữ, sẽ được ăn ngon mặc đẹp, nhưng nếu hai em vào cung làm hoạn quan thì sẽ phải cắt bỏ bộ phận bên dưới. Con nói xem, con đành lòng để em mình chịu đau đớn như thế ư? Người làm chị như con, sao lại không hiểu chuyện thế?’”
Kể đến đây Tiền Quan Sách cũng rơi nước mắt. Một người đàn ông ngoại tứ tuần mà còn khóc nức nở, nước mắt lăn dài trên gương mặt phì nộn, ngoằn ngoèo chảy xuống, nhìn hết sức tức cười, nhưng Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần chẳng ai cười nổi, chỉ thấy xót xa.
“Ôi, đúng là cái khó ló cái khôn… Giờ nghĩ lại hành động bán con gái năm ấy, chẳng phải rất khốn nạn ư? Trong cung cấm mỗi năm có bao nhiêu cung nữ âm thầm chết đi, bị quẳng ra bãi tha ma, ném xuống hố rồi vùi đất lên, thế là xong một kiếp người. Nhưng lúc đó không còn đường sống nữa, chỉ trông vào một mình Hạnh nhi, nên tôi đành…” Tiền Quan Sách cúi gằm mặt, rầu rĩ kể, “Tôi dùng tiền bán Hạnh nhi làm vốn bắt đầu buôn cỏ khô, trong khi buôn bán lại gặp được quý nhân mách tôi ra quan ngoại mua ngựa. Tôi gặp may, từ hai ba thớt ngựa ban đầu, mua đi bán lại thành mười mấy thớt, về sau có chút tiếng tăm, một lần triều đình đặt mua mấy nghìn thớt ngựa, thế là phất lên. Lại cưới một vợ một thiếp, muốn sinh thêm đứa con gái, nào ngờ bấy nhiêu năm nay, tiểu thiếp cũng chỉ sinh được một con trai. Tôi nghĩ có lẽ ông trời trừng phạt, đời này tôi sẽ không có con gái nữa…”
Hoàng Tử Hà dịu giọng an ủi: “Ông chủ Tiền, cũng còn may, trời xanh đã thương xót để ông tìm thấy con gái tại phủ công chúa rồi còn gì.”
“Đúng thế, nhưng Hạnh nhi không chịu tha thứ cho tôi…” Tiền Quan Sách than thở, “Tôi lén đến phủ công chúa thăm nó mà nó không cho thấy mặt, chỉ đứng sau bức bình phong, chìa cho tôi xem vết bớt hồi nhỏ. Tôi đưa đồ ăn thức mặc đến cho nó, nó bao giờ cũng biếu quà đáp lễ… Nhưng nó không chịu gặp tôi, nói rằng từ khi bị bán đi đã lập lời thề, không bao giờ nhìn mặt tôi nữa.” Hắn buồn rầu khòm hẳn lưng xuống, lắc đầu, “Kiếp này, biết được con gái vẫn còn sống, nói được với nó mấy câu, tôi thấy cũng đủ lắm rồi.”
Lần này, Chu Tử Tần cũng buột miệng hỏi: “Sao ông biết được… người đứng cách bình phong ấy là con gái mình?”
“Đương nhiên là nó rồi. Vết bớt trên tay người đó giống hệt con gái tôi, màu hồng hồng ngả xanh cũng giống hệt! Không phải nó thì còn ai?” Tiền Quan Sách quả quyết lắc đầu, ra sức bảo vệ sự thực đã tìm được con gái, “Huống hồ giả làm con gái tôi thì có lợi lộc gì đâu? Chẳng qua tôi chỉ cho nó mấy thứ đồ ăn, nào có gì đáng tiền. Chỉ độc một lần, nó bảo, chợ ngoài phố có bán loại đồ chơi hồi bé nó thích chơi nhưng bị người ta vứt đi? Tôi liền đi tìm mua ngay, lần sau lại thăm đưa cho nó, nó biếu lại tôi một chiếc hộp. Tôi cũng không để ý, nào ngờ vừa mở ra xem… Ôi, đúng là giật nảy cả mình.”
Tiền Quan Sách dường như không hề tức giận việc họ hoài nghi con gái mình, vừa nói vừa đứng dậy đi vào trong, lách cách mở khóa đóng khóa hồi lâu, mới bưng một chiếc hộp ra đặt trước mặt họ, vẻ tự hào: “Các vị xem này, là con gái biếu tôi đấy.”
Chiếc hộp làm từ gỗ tử đàn, trên khắc hoa văn tinh tế, thoạt nhìn đã biết chẳng phải tầm thường. Vừa mở hộp, Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần cũng ngây ra.
Bên trong là một con cóc chừng nửa bàn tay, bằng vàng ròng, ngồi trên một phiến lá sen bằng ngọc phỉ thúy. Những nốt mụn trên mình nó làm bằng đá quý đủ màu, ngay hạt sương trên lá cũng là một viên pha lê được mài tròn, lăn đi lăn lại trên phiến lá xanh biếc, nhìn đẹp vô cùng.
Tiền Quan Sách tự đắc khoe: “Bấy giờ tôi cũng giật thót mình, lập tức đưa trả lại, bảo nó: ‘Hạnh nhi, thứ quý giá thế này, sao con có thể tiện tay biếu cha được?’ Các vị đoán xem nó nói sao? Nó nói trong phủ công chúa đầy những thứ như thế, cái này là công chúa không thích mới ban cho nó, bảo tôi cứ việc nhận, không sao cả. Thị nữ đi theo nó cũng nói, ‘Đúng thế, đây là vật công chúa ban tặng, ông cứ cầm đi, không việc gì đâu.’”
Đoạn Tiền Quan Sách đóng nắp hộp lại, ôm vào lòng, tấm tắc, “Biết được bây giờ Hạnh nhi phú quý như thế, công chúa lại đối tốt với nó, tôi cũng yên tâm rồi. Chỉ mong một lúc nào đó nó chịu nhìn mặt, gọi tôi một tiếng cha, ấy là tôi thỏa nguyện.”
Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần nhìn nhau, cô nói: “Đúng vậy, thế này là mừng rồi.”
Tiền Quan Sách cứ ôm khư khư cái hộp, vẻ mặt vừa xót xa lại vừa tự hào.
Hoàng Tử Hà hỏi tiếp: “Còn chút việc nữa phải thỉnh giáo ông chủ Tiền?”
“Xin Dương công công cứ nói.”
“Ta nghe nói, ông đã tặng cho Xương Bồ, người cai quản nhà bếp của công chúa, một ít linh lăng hương?”
“À, đúng là có chuyện này.” Tiền Quan Sách gật đầu, “Xương Bồ giúp tôi tìm được Hạnh nhi, tôi phải cảm tạ cô ấy chứ?”
Hoàng Tử Hà cười: “Ông chủ Tiền quả là cao nhã, người bình thường chỉ biết biếu tiền, ai mà nghĩ đến việc tặng linh lăng hương?”
“Ôi chao, vì Xương Bồ bảo lén lút nhận tiền của người ngoài phủ là tội to. Sau đó lúc rời phủ công chúa, tôi lại gặp Lữ Chí Nguyên. Biết tôi đã tìm được con gái, lão cũng mừng cho tôi.”
Hoàng Tử Hà rùng mình: “Ông cũng biết Lữ Chí Nguyên ư?”
“Tôi có biết. Bắt đầu từ năm ngoái, tôi đã thuê một nhóm thợ nề, chuyên nhận xây nhà đảo ngói. Rất nhiều người nhân lúc xây nhà muốn đục luôn hốc tường để đặt nến, hoặc gắn giá nến lên tường, nên tôi hợp tác với lão ta. Lúc con gái lão gặp chuyện, tôi còn kể chuyện con gái tôi cho lão nghe, khuyên lão thương lấy con bé, đừng rủa xả khinh khi nó nữa, tiếc rằng lão già cố chấp đó không nghe…”
“Vậy Lữ Chí Nguyên bảo gì ông?”
“Lão ta ấy hả, lão biết tôi cần tìm thứ gì đó để cảm ơn Xương Bồ, bèn gợi ý với tôi rằng, nữ nhân thường thích những thứ như hoa đẹp hay hương thơm, vừa hay tiệm nhang đèn nhà lão mới nhập một lô linh lăng hương thượng hảo để chuẩn bị cho pháp hội ở chùa Tiến Phúc, nếu tôi muốn, lão sẽ san cho tôi một ít. Nghe lão nói cũng có lý nên tôi tán thành. Hôm sau, tôi tới tiệm nhà lão lấy sáu lạng linh lăng hương đem biếu Xương Bồ, còn làm theo lời Lữ Chí Nguyên, chỉ cho cô ấy mỗi ngày trước khi đi ngủ đốt chừng một hai que, sẽ giúp ngủ ngon, an thần.”
“Sau đó, người ở phủ công chúa có ai tới tìm ông đòi thêm không?”
“Sao công công lại biết?” Tiền Quan Sách kinh ngạc hỏi, “Sau đó sáu bảy hôm, Ngụy Hỷ Mẫn công công ở phủ công chúa tự dưng đến tìm, nói tôi tư thông với Xương Bồ, nếu không cho y thêm hương liệu, y sẽ làm toáng lên. Tôi nhức đầu quá, đành dẫn y tới chỗ Lữ Chí Nguyên, định mua thêm thí cho y. Nào ngờ Ngụy Hỷ Mẫn vừa trông thấy lão Lữ đã tái mét mặt, luôn miệng giục lão lấy linh lăng hương cho mình, bảo rằng có việc gấp phải đi, xong lão cứ lục đục mãi bên trong không chịu ra. Tôi thấy tên Ngụy Hỷ Mẫn đó thực khó dây, bèn kiếm cớ chuồn thẳng.”
Hoàng Tử Hà hỏi: “Đó là hôm nào?”
“Để tôi nhớ xem nào… Có lẽ là…” Tiền Quan Sách gãi đầu nghĩ ngợi hồi lâu rồi đáp, “Một ngày trước pháp hội ở chùa Tiến Phúc. Đúng, chính là một ngày trước khi phủ công chúa có người bị chết cháy trong pháp hội.”
“Tên hoạn quan bị thiêu chết đó chính là Ngụy Hỷ Mẫn, ông chủ Tiền có biết không?”
“Ôi chao… Đúng là…” Tiền Quan Sách kinh ngạc thốt lên, đôi vai vốn đã thẳng dậy, giờ lại khòm xuống, “Hai quý nhân ơi, tôi nói thực đấy! Chuyện này không liên quan gì đến tôi đâu! Thật mà! Tôi chỉ dẫn y đến chỗ Lữ Chí Nguyên rồi đi thôi! Các vị xem, cửa hàng của lão cách tiệm tôi không xa, tôi và Ngụy công công chỉ gặp nhau chừng một khắc thôi… Nếu, nếu chuyện này có vấn đề gì, thì nhất định là ở Lữ Chí Nguyên!”
“Vậy lúc Tôn ghẻ chết ở phường Đại Ninh, ông cũng có mặt ở hiện trường thì sao?”
Tiền Quan Sách buồn rười rượi, gật đầu: “Đại Lý Tự cũng truyền gọi tiểu nhân về việc này rồi. Nhưng lúc tôi bước vào, quả thực Tôn ghẻ đã chết rồi mà! Sắp thối um lên rồi! Đại Lý Tự đã tra rõ, việc này không liên quan gì đến tôi nên mới thả cho về… Công công nói xem, tôi có xui xẻo không…”
Tiền Quan Sách cứ lải nhải mãi, chung quy chỉ là kêu ca xui xẻo, Chu Tử Tần chán chẳng buồn ghi, bèn gác bút, gập giấy lại, nhìn sang Hoàng Tử Hà.
Hoàng Tử Hà bèn đứng dậy chắp tay hành lễ với hắn: “Ông chủ Tiền, hôm nay quấy rầy lâu quá, mong ông đừng để bụng nhé.”
“Đâu dám đâu dám! Hoan nghênh các vị tới chơi thường xuyên…” Đoạn hắn nhăn nhó nói thêm, “Dĩ nhiên, nếu lần sau tới không phải vì việc của Đại Lý Tự thì càng tốt.”
Q.2 – Chương 16: Hồi 14: Phận Loan Mỏng Mảnh

Rời khỏi tiệm ngựa Tiền Ký, Chu Tử Tần luôn miệng than vãn: “Chán chết đi được… Cứ phải nghe mấy chuyện lải nhải đó mãi, thi thể để ta trổ tài đâu rồi? Giây phút vụ án được vạch trần trong chớp mắt cũng ở đâu rồi?”
“Tra án vốn nhàm chán mà, giờ việc công tử cần làm là rút từ mớ bòng bong đó những manh mối quan trọng nhất, rồi sắp xếp lại mọi thứ.” Hoàng Tử Hà vừa nói vừa đi trên con đường trong chợ Tây.
Chu Tử Tần nhăn nhó hỏi: “Đi đâu đây?”
“Tiệm nhang đèn nhà họ Lữ.”
“Gì cơ? Lại tới hỏi han lão khốn đó à?” Chu Tử Tần dắt Tiểu Hà, hậm hực nói: “Có lúc ta thực muốn thay Tích Thúy cho lão một cái tát! Công công bảo, trên đời có hạng người khốn nạn đến thế ư?”
“Trước khi chân tướng hé lộ, kết luận gì cũng là quá sớm.” Hoàng Tử Hà đáp, đoạn buộc Na Phất Sa vào một gốc cây bên đường, đi thẳng vào tiệm nhang đèn.
Lữ Chí Nguyên đang làm bấc nến, những thân sậy thô có mảnh có, sau khi tước được xếp đều tăm tắp. Nghe tiếng bước chân người đi đến, lão chẳng buồn ngẩng lên, chỉ hỏi: “Cần gì?”
“Lữ lão trượng, làm ăn vẫn khá đấy chứ?” Hoàng Tử Hà hỏi.
Bấy giờ Lữ Chí Nguyên mới từ từ ngẩng lên nhìn cô, rồi lại cúi đầu tiếp tục tước sậy, “Ồ, là ngài.”
“Làm phiền lão trượng rồi, lần này lại có việc phải hỏi, xin lão chớ giận.” Thấy lão chẳng buồn nhìn đến mình, Hoàng Tử Hà bèn tự kéo ghế cùng Chu Tử Tần ngồi xuống.
Lữ Chí Nguyên vẫn cắm cúi làm, xong Hoàng Tử Hà cũng chẳng lấy làm điều, thản nhiên hỏi: “Nghe nói trước hôm Ngụy Hỷ Mẫn chết, từng đến tiệm nhà lão mua linh lăng hương?”
Lữ Chí Nguyên lầm bầm: “Tiệm nhà lão bán cả hương lẫn nến.”
“Lão có thể thuật lại tình cảnh hôm Ngụy Hỷ Mẫn đến không?”
“Tên lại cái trước đó từng đến đây đưa tiền đền bù của phủ công chúa cho lão. Lần này là do ông chủ Tiền dẫn đến, y vừa mở miệng đã đòi linh lăng hương, than rằng mình mắc chứng đau đầu, thường hay mất ngủ, dùng linh lăng hương mới đỡ phần nào. Chỗ lão cũng chỉ còn hai miếng, tổng cộng ba lạng bốn tiền, bèn bán cả cho y, lấy sáu trăm tám mươi đồng.”
“Bán xong thì sao?”
“Lão để ý đến y làm gì, khách đến nhà thì lão bán hàng, thu tiền xong là thôi, chứ làm gì nữa?”
Hoàng Tử Hà cũng chẳng tranh cãi, chỉ nói: “Tối hôm ấy, Ngụy Hỷ Mẫn mất tích. Người phủ công chúa tìm không thấy y, đến ngày hôm sau thì y chết cháy ở chùa Tiến Phúc.”
Lữ Chí Nguyên từ từ ngẩng lên, nhìn chòng chọc vào cô bằng đôi mắt đục ngầu: “Lẽ nào ý công công muốn nói lão có liên quan đến cái chết của y?”
Hoàng Tử Hà nhìn xoáy vào lão, không đáp.
“Một người đủ chân đủ tay, biết đi biết chạy, ngày hôm sau còn xuất hiện sờ sờ ở chùa Tiến Phúc, hôm trước đến tiệm nhà lão mua ít hương liệu thì liên quan quái gì đến Đại Lý Tự.” Lữ Chí Nguyên mặc cô ngồi đó, đứng dậy rút mấy sợi sậy dài nhất xoắn chặt vào nhau, bó vải ra ngoài, tạo thành một sợi tim nến khổng lồ.
Chu Tử Tần hỏi: “Cây nến lớn thế này là để bù vào cây bị cháy ở chùa Tiến Phúc phải không?”
“Phải, hôm nay làm thân nến, ngày mai sẽ dùng sáp màu quết lên thành hình rồng phượng hoa lá, sau đó rắc kim nhũ lên là xong.”
Xem ra làm một cây nến to có rất nhiều công đoạn rườm rà vất vả, nhưng vào tay kẻ lão luyện như Lữ Chí Nguyên thì lại rất nhanh. Hoàng Tử Hà ngẫm nghĩ, rồi nhìn sang từng thùng sáp nến la liệt, hỏi: “Lữ lão trượng thành thạo quá, hôm trước lão nói chùa Tiến Phúc gom góp bao lâu mới đủ sáp cho lão làm đôi nến, thế mà mới mấy ngày lão đã tự kiếm đủ rồi.”
“Lão sống đến từng này tuổi, chẳng dành dụm được bao nhiêu tiền, nhưng sáp nến thì cũng trữ được ít nhiều.” Lữ Chí Nguyên nói đoạn lệt sệt kéo sợi tim nến đi ra sau nhà. Chiếc nồi lớn phía sau đang đun sáp, bốc lên mùi gây gây.
Lữ Chí Nguyên nhúng sợi tim nến bọc trong lần vải vào nồi để nó ngấm dầu sáp, rồi lôi một khuôn nến cao bằng người ra, đồng thời bưng ra mấy chiếc thùng lớn có nhỏ có.
Lão trèo lên ghế, dùng cái muôi đồng đường kính đến một thước múc sáp lỏng từ từ đổ đầy khuôn và các thùng.
Hoàng Tử Hà thuận miệng khen: “Lão trượng khỏe thật đấy, sắp lục tuần rồi mà vẫn một mình làm việc nặng thế này.”
“Hừm, đám trẻ hiện giờ có đứa nào chịu được khổ đâu, mới học việc được hai hôm đã chạy mất tăm, lão cũng hết cách.” Lữ Chí Nguyên lạnh lùng tiếp, “Dạo còn trẻ, lão tòng quân, ở trong đội cung nỏ, một tay giương được cây cung nặng ba thạch ấy.”
“Ồ, thì ra lão trượng từng dốc sức cho nước nhà.”
Nói vậy nhưng Chu Tử Tần cũng chẳng mấy để tâm, lại quay về với chủ đề cũ, “Cái khuôn này hình như nhỏ hơn cây nến thành phẩm?”
“Tìm đâu ra khuôn cao đến một trượng chứ?” Lữ Chí Nguyên vừa múc sáp lỏng vừa đáp: “Phải đổ vào các thùng này cho sáp đông lại, rồi đổ ra ghép lại với nhau, gọt giũa những phần to nhỏ không đều, phết một lớp sáp ra ngoài để cố định, mới thành một cây nến hoàn chỉnh.”
Chu Tử Tần ngây ngô hỏi: “Thế làm sao cho được tim nến vào?”
Lữ Chí Nguyên lườm gã: “Phần sáp ở giữa đông chậm hơn, nên sau khi ghép lại, không gọt giũa vội, mà nhân lúc phần giữa còn mềm, buộc một chiếc kim sắt nung đỏ vào sợi tim nến rồi cắm vào khối sáp, cây kim sẽ xuyên thẳng xuống tận đế.”
“Ra là thế!” Chu Tử Tần trầm trồ, “Quả nhiên ba trăm sáu mươi nghề, nghề nào cũng có bí quyết.”
Hoàng Tử Hà đang nghĩ cách hỏi Lữ Chí Nguyên về Tôn ghẻ thì chợt nghe bên ngoài có người gọi toáng lên: “Này lão Lữ! Lữ Chí Nguyên!”
Lữ Chí Nguyên chẳng buồn để tâm, vẫn mải miết rót sáp.
Kẻ ngoài cửa xộc thẳng vào, giậm chân hét lớn: “Này lão Lữ! Con bé Tích Thúy nhà lão… sắp chết kìa!”
Lữ Chí Nguyên sững người, bàn tay đang cầm chắc chiếc muôi đồng chợt run bắn lên: “Gì cơ? Nó vẫn chưa chết à?”
“Chưa chết! Có điều lần này sắp chết thật rồi!” Nghe thấy câu này, cả Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần cũng ngẩn ra.
“Con gái lão đến Đại Lý Tự đầu thú rồi, khai rằng mình là hung thủ giết hoạn quan phủ công chúa và Tôn ghẻ!”
Đại Lý Tự.
Hễ đến giờ ăn trưa là Thôi thiếu khanh răm rắp về nhà dùng cơm với phu nhân, vậy mà hôm nay vẫn còn ngồi đó. Vừa thấy bọn Hoàng Tử Hà đến, hắn mừng rỡ chạy ra đón: “Tử Tần! Sùng Cổ! Tốt quá rồi, không mất tí hơi sức nào hung thủ đã tự ra đầu thú, mấy hôm chạy đôn chạy đáo cuối cùng cũng kết thúc rồi! Áp lực phủ công chúa đè xuống cũng được giải tỏa hết!”
Hoàng Tử Hà theo hắn vào trong, miệng hỏi: “Nghi phạm nhận hết rồi ư?”
“Nhận hết! Ả cầm một bức tranh tới tự thú, còn nói là thủ bút của tiên hoàng gì đó, nhưng ta nhìn mấy đường nét nguệch ngoạc ấy chẳng giống gì cả.”
Họ vừa đi vừa nói, chẳng mấy chốc đã ra phía sau đại sảnh của Đại Lý Tự. Đại Lý Tự không có nhà lao, chỉ xây vài gian phòng nhỏ đằng sau tạm giam phạm nhân.
Tích Thúy đang ngồi giữa một trong các gian phòng đó, thẫn thờ nhìn cành lá rung rinh theo gió ngoài cửa sổ.
Hoàng Tử Hà, Chu Tử Tần cùng người của Đại Lý Tự bước vào, khép cửa lại rồi gọi nàng: “Lữ Tích Thúy.”
Nghe gọi, Tích Thúy đứng bật dậy theo phản xạ, xong trông thấy mấy nam nhân trước mặt, nàng bất giác co rúm người lùi lại.
Hoàng Tử Hà biết nàng vẫn bị ám ảnh, vội trấn an: “Lữ cô nương, chúng tôi chỉ tới thẩm vấn theo lệ thôi, cô cứ nói thực là được.”
Lữ Tích Thúy cắn môi, nhìn cô hồi lâu rồi lặng lẽ gật đầu.
Hoàng Tử Hà ra hiệu cho nàng ngồi xuống, còn mình đứng một bên, quan sát hai vị tri sự Đại Lý Tự thẩm vấn.
“Tên họ, tuổi tác, quê quán?”
“Lữ Tích Thúy… Mười bảy tuổi, người trong kinh.”
“Tự thú về tội gì?”
Cặp mắt Tích Thúy vẫn còn sưng húp, nàng ngồi ngây ra đó vẻ hoảng hốt, thật lâu mới chầm chậm cắn môi, nặn ra mấy tiếng lí nhí: “Dân nữ đã giết người. Giết… hai người.”
Hai viên tri sự từ đầu đã biết nguyên nhân nàng tự thú nên chẳng lấy gì làm ngạc nhiên, chỉ nói: “Cứ khai thực ra đi.”
Giọng Tích Thúy khản đặc, nàng chậm chạp kể đứt quãng: “Dân nữ đã giết… Ngụy Hỷ Mẫn, hoạn quan phủ công chúa, và… Tôn ghẻ… người phường Đại Ninh.”
“Sao lại giết người? Giết bằng cách nào?”
“Ngụy Hỷ Mẫn làm hại dân nữ, sai người đánh dân nữ đến ngất xỉu rồi vứt ngoài đường, khiến dân nữ bị…” Nói đến đây, gương mặt đờ đẫn của nàng lộ ra vẻ căm hận không giấu giếm, giọng kể cũng đanh hẳn lại: “Hôm ấy ở chùa Tiến Phúc, dân nữ đánh rơi mũ có mạng che, Trương Hàng Anh vừa cúi nhặt giúp thì dân nữ trông thấy Ngụy Hỷ Mẫn… Y mặc đồ hoạn quan, nhìn rất nổi bật. Đúng lúc ấy sấm sét giáng xuống, cây nến nổ tung, trong sáp nến có trộn nhiều chất tạo màu, rất dễ bắt lửa. Dân nữ… dân nữ cũng chẳng biết mình lấy đâu ra sức lực, cứ như phát điên vậy, khi Ngụy Hỷ Mẫn bị dòng người xô đến gần, dân nữ đột ngột đẩy y một cái, làm y ngã vào đống lửa đang cháy, cả người tức thì bắt lửa…”
Hoàng Tử Hà đứng bên cạnh, im lặng lắng nghe.
Tri sự lại hỏi: “Vậy còn cái chết của Tôn ghẻ?”
“Tôn ghẻ… tên cầm thú đó… Hắn vung tiền mua chuộc được cha dân nữ, nhưng dân nữ nhất quyết không tha cho hắn!” Tích Thúy đã phẫn nộ đến phát cuồng, giọng nói cũng the thé khản đặc, nghe rất đáng sợ, “Trưa hôm ấy dân nữ tới phường Đại Ninh tìm Tôn ghẻ, còn sợ mình là đàn bà con gái, không đủ sức giết hắn nên đã tẩm độc vào dao. Gã cầm thú đó nghe tiếng dân nữ bèn mở cửa, dân nữ lập tức xông vào đâm hắn hai nhát, hắn cuống quýt chạy vào đóng cửa lại. Dân nữ còn định bồi thêm mấy dao nữa, nhưng không đẩy được cửa, đành… bỏ đi.”
Hoàng Tử Hà quan sát Tích Thúy thật kỹ, rồi chậm rãi nhíu mày: “Vậy thuốc độc cô lấy từ đâu ra?”
Tích Thúy nghiến răng đáp: “Trong tủ thuốc nhà Trương nhị ca có ô đầu(*), huynh ấy từng dạy dân nữ phân biệt các vị thuốc.”
(*) Ô đầu là cây thuốc có độc, tất cả các phần của cây đều chứa độc chất, nhiều nhất là ở củ. Củ ô đầu rất độc, lượng độc có thể làm cho người tê cứng chân tay, tắc nghẽn mạch máu, đông máu và chết. Do cực độc nên trước đây một số người đã dùng nước của loại củ này tẩm vào đầu mũi tên khi săn thú rừng. Tuy nhiên, nếu được chế biến và sử dụng đúng cách với liều lượng vừa phải, thì lại là vị thuốc quý.
“Nhưng Tôn ghẻ chết trên giường mà.”
“Có lẽ… có lẽ sau khi bị thương, hắn chạy vào nằm trên giường, độc tính phát tác chết ngay tại đó.”
Thôi Thuần Trạm khẽ hỏi hai tri sự: “Những điều ả khai nhận có khớp với tình tiết vụ án không?”
Một tri sự gật đầu: “Vết thương khá nông, có thể xác thực là do nữ tử ra tay.”
Thôi Thuần Trạm gật đầu, quay sang hỏi nàng: “Lữ Tích Thúy, ngươi âm thầm giết chết hai người, vốn không ai hay biết, sao bỗng dưng lại đi đầu thú, tự tìm đường chết?”
Tích Thúy hít một hơi thật sâu, lấy hết can đảm nhìn thẳng vào Thôi Thuần Trạm: “Hai vụ án này làm náo động cả kinh thành, ắt sẽ khiến người vô tội bị cuốn vào. Dân nữ tuy là phận gái chân yếu tay mềm, nhưng vẫn biết lẽ ai làm nấy chịu. Huống hồ, dân nữ cũng muốn tất cả những kẻ tàn ác dưới gầm trời này hiểu rõ một điều, làm điều ác nhất định sẽ gặp báo ứng!”
Thôi Thuần Trạm nghe vậy cũng cảm động, gật đầu than thở: “Tình thực đáng thương, nhưng tội không thể tha được!”
Một viên tri sự hỏi lại: “Ngươi có biết việc phò mã gia bị thương trên sân kích cúc không?”
Tích Thúy cúp mắt gật đầu: “Dân nữ có nghe nói… Trương Hàng Anh, ân nhân của dân nữ, hôm ấy cũng ở đó.”
“Chuyện này có liên quan gì tới ngươi không?”
Tích Thúy lắc đầu, nhưng nghĩ ngợi một lúc lại gật đầu đáp: “Dân nữ tội đáng muôn chết… Nghe nói Trương Hàng Anh phải đấu kích cúc, nên hôm ấy dân nữ đã ở nhà cầu khấn, cầu cho đối thủ của huynh ấy ngã ngựa, để Trương Hàng Anh thắng… Dân nữ nghĩ, có lẽ lời cầu khấn của mình đã lọt đến tai Bồ tát…”
Trước lời giải thích này, Thôi Thuần Trạm đành bảo hai viên tri sự: “Không cần viết câu này vào nữa, chắc chẳng có liên quan gì đâu.”
Tri sự lại hỏi: “Ngươi cầm bức tranh kia đến đây là sao?”
“Đó là bức tranh ở nhà Trương Hàng Anh, hôm trước Đại Lý Tự đòi nhưng huynh ấy không tìm thấy… Thực ra là dân nữ lấy cắp, dân nữ cho rằng thù lớn đã trả, định rời khỏi kinh thành, xong không có lộ phí. Nghe nói bức tranh ấy là ngự bút của tiên hoàng, dân nữ nghĩ ắt là đáng tiền, bèn đánh cắp đem đi cầm, nào ngờ Đại Lý Tự lại tới tìm, làm náo động cả lên, nên dân nữ đành chuộc lại đưa đến đây.”
“Ngươi có biết trên đó vẽ gì không?”
Tích Thúy thẫn thờ lắc đầu: “Không biết… Dân nữ nhìn mãi chỉ thấy ba mảng mực đen, bèn… đem cầm lấy mười quan tiền.”
Tri sự quay lại bẩm Thôi Thuần Trạm: “Chúng thuộc hạ đã đến tiệm cầm đồ điều tra, quả có chuyện này. Người ở tiệm cầm đồ tuy cũng không hiểu tranh vẽ gì, nhưng thấy chất giấy chất mực đều tốt, lớp lụa bồi cũng không tệ, cho rằng lai lịch không phải tầm thường, nên bằng lòng xuất mười quan.”
Thôi Thuần Trạm vốn là kẻ thương hương tiếc ngọc, chỉ biết nhìn Tích Thúy lắc đầu thở dài rồi hỏi: “Lữ Tích Thúy, ngươi có gì muốn nói nữa không?”
Tích Thúy thẫn thờ quỳ ở đó, hồi lâu mới ngẩng lên nhìn Hoàng Tử Hà: “Phiền Dương công công giúp dân nữ chuyển lời cho Trương nhị ca, bảo huynh ấy rằng, kiếp này vô duyên, kiếp sau A Địch xin kết cỏ ngậm vành… đền đáp ân tình của huynh ấy.”
Hoàng Tử Hà xót xa gật đầu: “Được.”
Mọi người lại kéo vào đại sảnh. Một viên chủ sự trải bức họa ra bàn cho tất cả cùng xem.
Vẫn là ba mảng mực đen sì trên nền giấy gai vàng bồi lụa trắng, nhìn rất tinh tế trang nhã, nhưng không che đậy được sự thực rành rành: đường nét trong tranh rất vụng về nguệch ngoạc.
Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần dù sao cũng từng xem rồi, nên chỉ nhìn qua, khẳng định là bức họa lần trước, bèn đưa mắt nhìn nhau.
Trái lại, Thôi Thuần Trạm gần như dán mặt vào tranh, săm soi hồi lâu rồi cau mày: “Thứ này mà là ngự bút tiên hoàng á? Đúng là đại nghịch bất đạo, phỉ báng tiên hoàng!”
Các quan viên Đại Lý Tự cũng nhao nhao phụ họa, ra sức bỉ bôi bức tranh. Có điều nói thì nói vậy, nhưng đây vẫn là vật chứng, đợi mọi người lui xuống, Thôi Thuần Trạm bèn đích thân cuộn lại, toan cất vào kho.
Thấy trong đại sảnh không còn ai khác, Hoàng Tử Hà liền hỏi nhỏ: “Thôi thiếu khanh… có thể cho tôi mượn bức họa này được không?”
Thôi Thuần Trạm lộ vẻ khó xử: “Ôi, chuyện này à… Dương công công, đây là vật chứng quan trọng đấy. Tuy không biết có tác dụng gì, nhưng thường thì một khi bản án chưa định mà công công đã lấy đi, e là phạm luật…”
Hoàng Tử Hà bèn rút trong ngực áo ra một tấm lệnh tín, hai tay trình lên: “Thôi thiếu khanh, vậy cho tôi đặt cọc lệnh tín phủ Quỳ lại đây, mượn tạm thiếu khanh nửa ngày, sáng sớm mai nhất định đưa trả.”
Thôi Thuần Trạm trầm ngâm nhìn tấm lệnh tín, rồi quả quyết đặt cuộn tranh vào tay cô: “Công công phụng mệnh hoàng thượng tra xét vụ này, muốn cầm vật chứng liên quan đi nghiên cứu cũng là danh chính ngôn thuận. Cứ viết một mảnh giấy cho phòng vật chứng thôi.”
Lấy được cuộn tranh, Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần mới thấy bụng sôi ùng ục.
Cả hai ra cửa từ sáng sớm, chạy đôn chạy đáo gần nửa kinh thành, giờ đã quá bữa, cơm và thức ăn cũng chẳng còn, Thôi Thuần Trạm đành giục nhà bếp Đại Lý Tự làm mấy món đơn giản để họ lót dạ.
Ăn xong, ra khỏi Đại Lý Tự, Hoàng Tử Hà tiện miệng hỏi thăm người gác cổng Đại Lý Tự về vị Quỳ vương gia ngày lo trăm việc kia. Quả nhiên có người đáp: “Nửa canh giờ trước, xe ngựa của Ngự Sử Đài đi qua đây, đánh xe ghé lại uống trà có nói, Quỳ vương đang ở bên đó.”
Trong hoàng thành có rất nhiều nha môn, trước mỗi nha môn đều đặt một tấm bảng ghi rõ, hễ dưới thượng thư bao nhiêu phẩm đó đều phải xuống ngựa. Bởi vậy, Chu Tử Tần và Hoàng Tử Hà chẳng buồn cưỡi ngựa nữa, mà gửi lại Đại Lý Tự rồi đi bộ đến Ngự Sử Đài.
Chu Tử Tần vừa đi vừa nắm tay áo cô, uể oải nói: “Ta thật… bội phục Sùng Cổ đấy.”
Hoàng Tử Hà giơ tập hồ sơ cầm trong tay lên che nắng, quay lại hỏi: “Gì cơ?”
“Ta nói là, thật bội phục tinh lực của công công…” Chu Tử Tần nhìn cô đầy kính phục, “Chạy đôn chạy đáo hơn nửa ngày trời, ta mệt gần chết, thế mà công công vẫn thoăn thoắt chẳng cần nghỉ ngơi gì cả.”
“Sau khi vụ án xảy ra là phải giành giật từng chút thời gian, không thể bỏ lỡ một khắc.” Rồi như sực nhớ ra, cô vội thốt lên, “A phải, thi thể Tôn ghẻ giờ đang ở đâu? Công tử có nhớ hình dạng hai vết thương của hắn không?”
Nhắc đến thi thể và vết thương, Chu Tử Tần phấn chấn hẳn lên, hệt như được ăn một cục đá mát lạnh giữa ngày hè nóng nực vậy, hai mắt gã sáng rực: “Ta đã xem vết thương rồi, vẫn còn nhớ như in! Công công muốn hỏi gì, ta có thể giải đáp ngay!”
Hoàng Tử Hà quay lại hỏi: “Tôi muốn biết hình dạng cụ thể của vết thương cùng hướng đâm.”
“Một vết thương ở dưới xương quai xanh vai trái, một vết ở bên phải rốn, cả hai đều đâm chếch xuống từ trái qua phải…” Nói đến đây, Chu Tử Tần bỗng há hốc miệng ra, rồi đảo mắt nhìn quanh, hạ giọng thì thào: “Nói vậy là… Tích Thúy khai man ư?”
“Ừm.” Hoàng Tử Hà đáp khẽ, “Nếu Tôn ghẻ đứng trước mặt Tích Thúy, căn cứ vào cách cầm dao của cô ấy thì vết thương phải từ trên xuống, chứ sao có thể đâm xiên từ trái qua phải được? Chỉ khi đối phương đang nằm nghiêng mà ngủ mới có thể tạo thành vết thương như thế thôi.”
Chu Tử Tần hít vào một hơi, vẻ kinh ngạc pha lẫn nghi hoặc: “Nhưng… nhưng tại sao Tích Thúy phải ra đầu thú, vơ hết tội trạng vào mình? Cô ấy làm thế… là vì sao?”
Hoàng Tử Hà lặng lẽ nhìn Chu Tử Tần hồi lâu, mới hướng ánh mắt ra phía sau lưng gã.
Họ trông thấy một người đang quỳ dưới chân tường Đại Lý Tự.
Trương Hàng Anh.
Chẳng biết gã đã ngồi đó bao lâu. Chỉ thấy gã cứ cúi gằm mặt nhìn xuống đất, bất động, ánh mắt thẫn thờ tan tác.
Chu Tử Tần trợn tròn mắt há hốc miệng nhìn, mãi mới “ồ” lên một tiếng.
Bị hai người nhìn chằm chằm thật lâu, cuối cùng Trương Hàng Anh cũng cảm nhận được. Gã từ từ ngẩng đầu lên, nhìn về phía họ. Thật lâu sau, ánh mắt thẫn thờ của gã mới bình thường trở lại, dường như bấy giờ mới nhận ra bọn họ. Gã đứng dậy chào bằng giọng khản đặc: “Dương… huynh đệ…”
Chưa kịp nói hết câu thì đôi chân tê cứng vì quỳ quá lâu đã không nâng đỡ nổi thân thể nữa, gã loạng choạng ngồi phịch xuống đất.
Trên đầu là ánh nắng chói chang, dưới chân là mặt đất nóng như rang, cả người gã như bị nướng chín, chẳng còn cảm giác gì nữa, chỉ biết vịn tường run rẩy đứng dậy, tập tễnh đi về phía họ.
Hoàng Tử Hà đăm đăm nhìn gã, vẻ mặt phức tạp, Chu Tử Tần ân cần chạy đến đỡ gã. Trương Hàng Anh vóc người cao lớn, tuy Chu Tử Tần được coi la cao, xong vẫn thấp hơn hai ba tấc, lúc đỡ lấy họ Trương, Chu công tử cũng bị loạng choạng.
“Trương nhị ca sao vậy?” Chu Tử Tần vừa đỡ lấy gã vừa an ủi, “Huynh bình tĩnh đi!”
Trương Hàng Anh dựa vào người Chu Tử Tần, xong ánh mắt lại nhìn dán vào Hoàng Tử Hà, bờ môi nứt nẻ vì nóng mấp máy thốt ra mấy âm thanh khô khát: “Huynh nhất định phải giúp A Địch… Cô ấy không thể… Tôi biết cô ấy không thể giết người được…”
Hoàng Tử Hà cúi mặt, lặng lẽ gật đầu.
Thấy phản ứng của cô khá hờ hững, Trương Hàng Anh cuống lên, nhào tới tóm chặt lấy vai cô, vật nài như điên dại: “Cô ấy yếu đuối như thế, làm sao giết người nổi? Tôi, tôi không biết tại sao cô ấy lại đầu thú, nhưng… tôi van huynh, van huynh cứu cô ấy, tôi van huynh mà!”
Giọng gã khản đặc, mãi mới rặn trong họng ra được mấy tiếng van nài vỡ vụn, cơ hồ không nói nên lời.
Hoàng Tử Hà thở dài, vỗ vỗ vào tay gã trấn an: “Trương nhị ca yên tâm đi, tôi nhất định sẽ vạch trần chân tướng vụ này. Tới lúc đó, hung thủ không còn cách nào lẩn trốn, ắt sẽ bại lộ.”
Trương Hàng Anh trừng trừng nhìn cô hồi lâu, rồi như hiểu ra câu nói ấy, gã nặng nề buông cánh tay suýt nữa bóp gãy vai cô xuống, liêu xiêu lùi lại hai bước, đáp khẽ: “Được… tôi tin huynh… sẽ trả lại sự trong sạch cho A Địch.”
“Trương nhị ca, giờ huynh đã có thể quay về Tả Kim Ngô Vệ, ngày mai huynh đến báo danh được rồi.” Hoàng Tử Hà ngước nhìn gã, dịu giọng nói: “Đừng phụ kỳ vọng của A Địch.”
Ngự Sử Đài là nha môn nghiêm cẩn nhất, trang trọng nhất trong triều, nhưng khi họ bước vào, lại thấy mấy ông già ngự sử trung thừa, thị ngự sử, giám sát ngự sử ngồi quanh Quỳ vương đang tươi cười, hết kéo lại níu y, tựa hồ không hề nhận ra đã đến giờ tan.
Thấy Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần bước vào, Lý Thư Bạch bèn ra hiệu bảo họ đợi, rồi đứng dậy nói với mọi người: “Đây là Dương Sùng Cổ, hoạn quan bên cạnh ta, rất giỏi phá án, hiện cũng là một trong những người được thánh thượng chỉ định hợp tác với Đại Lý Tự. Hắn đến đây ắt để bẩm báo về tiến triển vụ án, bản vương đành phải cáo từ các vị thôi.”
“Cung tiễn Quỳ vương gia.” Người của Ngự Sử Đài niềm nở đứng dậy tiễn y ra đến cửa.
Rời khỏi Ngự Sử Đài, Chu Tử Tần không nhịn được ta thán: “Đám người ở Ngự Sử Đài này đúng là thiên vị hết sức. Lúc ta đến thì lão nào lão nấy hếch mặt lên trời, cứ như ta là mối nhục của triều đình không bằng, chẳng nỡ lấy thêm cho một đôi đũa nữa. Ấy vậy mà vương gia vừa đến thì, công công xem, một loạt gương mặt già quắm cười tươi như hoa cúc, nếp nhăn dãn hết cả ra!”
Lý Thư Bạch cũng không khỏi nhếch môi: “Hôm nay tâm trạng họ vui vẻ đấy thôi.”
“Ô? Người của Ngự Sử Đài cũng có ngày vui à? Chẳng phải ngày nào cũng vênh mặt giáo huấn người ta ư?”
Lý Thư Bạch quay sang Hoàng Tử Hà: “Vì chuyện cây trâm Cửu loan biến mất, hoàng thượng đã triệu tập mấy vị trọng thần lại, yêu cầu tam pháp ty: bộ Hình, Đại Lý Tự và Ngự Sử Đài cùng hội thẩm. Hai ty kia còn đỡ, nhưng mấy ông lão ở Ngự Sử Đài thì phản đối gay gắt, nói rằng tam pháp ty chỉ hội thẩm khi gặp phải vụ án lớn, liên can tới quốc gia xã tắc mà thôi, sao có thể vì công chúa mất một cây trâm mà làm rùm beng, kinh động đến cả tam pháp ty? Xong hoàng thượng lại nói vụ này đã có hai người chết một người bị thương, trước mắt có lẽ công chúa cũng gặp nguy hiểm, nhất định phải tra xét thật nhanh, không được thoái thác. Đôi bên đang tranh cãi thì Đại Lý Tự báo tin kẻ tình nghi đã tự ra đầu thú! Ngự Sử Đài thấy việc nhà của hoàng đế không biến thành việc công của cả triều đình, đương nhiên trên dưới đều hân hoan!”
Chu Tử Tần chau mày: “Nhưng… Tích Thúy không phải hung thủ…”
“Bất kể có phải hay không, giờ cô ta đã bước ra nhận tội, chẳng phải là cơ hội rất thích hợp ư?” Nói đoạn, Lý Thư Bạch liếc xéo Hoàng Tử Hà, “Ngươi muốn tiếp tục điều tra, hoàn thành nhiệm vụ hoàng thượng giao phó, hay dừng tay ở đây thôi?”
“Tích Thúy và nô tài cũng có thể coi là sơ giao, cảnh đời cô ấy đã thê thảm nhường ấy, nô tài không thể để cô ấy chết như thế được.” Hoàng Tử Hà nhíu mày, “Huống hồ, theo nô tài thấy, dù cô ấy đầu thú, chỉ e cây muốn lặng mà gió chẳng dừng.”
Lý Thư Bạch nhướng mày: “Ý ngươi là, có thể hung thủ vẫn chưa chịu ngừng tay?”
“Rất có thể. Vì người chết thứ ba theo như bức tranh vẫn chưa xuất hiện.” Hoàng Tử Hà đặt cuộn tranh vào tay y.
Lý Thư Bạch vừa đi vừa mở ra xem.
Chỉ liếc qua, bước chân y đã khựng lại.
Quỳ vương gia xưa nay điềm tĩnh, vậy mà lúc này đứng giữa hoàng thành, dưới bóng tường bao cao ngất quanh các nha môn, nhìn bức tranh nguệch ngoạc vụng về trong tay, thân hình bỗng sững lại một thoáng.
Trời trong vắt, nắng chói chang, gió lồng lộng cuốn tung ống tay cùng vạt áo ba người bay phần phật.
Hàng mi rợp bóng của Lý Thư Bạch cuối cùng cũng từ từ nhướng lên, y cuộn bức tranh lại đặt vào tay Hoàng Tử Hà: “Cất đi.”
Chu Tử Tần vội hỏi: “Vương gia có thấy cái chết thảm của ba người trong đó không?”
Lý Thư Bạch khẽ gật đầu, “Miễn cưỡng gán ghép thì cũng láng máng hình dung được. Nhưng chuyện hoang đường thế này, sao lại quy là thủ bút của tiên hoàng?”
Chu Tử Tần tức thì tiu nghỉu, đành đáp: “Gia nói rất phải.”
Đoạn gã len lén liếc trộm Hoàng Tử Hà, thấy cô ngày càng giống Lý Thư Bạch, lúc nào cũng ra vẻ bình thản kín đáo, không khỏi than thầm trong lòng rồi nói: “Vương gia, tôi cảm thấy việc Tích Thúy giết Tôn ghẻ còn nhiều nghi vấn, phải đến nghĩa trang xem sao, cáo từ trước vậy.”
Thấy Chu Tử Tần đã đi xa, Lý Thư Bạch bèn ra hiệu cho Hoàng Tử Hà lên xe.
Ngang qua cửa Đại Lý Tự, lính gác cổng tháo dây cương cho Na Phất Sa, nó liền cung cúc đi theo, ngoan đến nỗi khiến người ta phải tấm tắc.
Hoàng Tử Hà lại ngồi xuống chỗ ngồi quen thuộc, chiếc ghế thấp đối diện Lý Thư Bạch.
Y chìa tay ra, cô hiểu ý ngay, vội rút cuốn trục trong ngực áo trình lên.
Lý Thư Bạch trải bức tranh ra bàn. Chiếc bàn hơi nhỏ, nên một phần tranh thõng xuống đầu gối y. Cánh tay y chặn lên cuốn trục, ngón tay chầm chậm dò theo hình vẽ thứ nhất, một người bị lửa thiêu chết, “Lần trước ngươi nói, các ngươi cho rằng đây là hình một người bị lửa thiêu chết ư?”
“Vâng… Chúng tôi còn thấy nét mảnh này giống một tia sét từ trên trời giáng xuống. Nên hình vẽ này giống một người bị sét đánh trúng, lửa bùng lên bao phủ lấy người, đang giãy chết.”
“Người nhà họ Trương nói đây là ngự bút của tiên hoàng, ngươi có tin không?” Y hơi ngước lên nhìn cô.
Hoàng Tử Hà ngẫm nghĩ rồi chậm rãi đáp: “Tôi chưa từng thấy ngự bút của tiên hoàng, không dám khẳng định.”
“Ta thì có thể.”
Lý Thư Bạch điềm nhiên đặt tay lên bức tranh: “Loại mực này là Tổ Mẫn đặc chế cho tiên hoàng. Những năm cuối đời, tiên hoàng không được khỏe nên không thích mùi mực, nhà họ Tổ phải đổi công thức, ngoài những châu ngọc mài ra, còn phải pha thêm vào thỏi mực một loại hương liệu nước ngoài tiến cống, chỉ làm được mười thỏi, đã dùng bảy thỏi, dư ba thỏi đem tùy táng. Nay đã mười năm, mà vẫn còn thoang thoảng hương thơm.”
Hoàng Tử Hà cúi xuống ngửi thử, quả thấy một mùi hương cực nhẹ cực nhạt, khác hẳn bình thường.
Thấy cô ngẩng lên nhìn mình, Lý Thư Bạch lại tiếp: “Tiên hoàng viết chữ hay vẽ tranh, thường ướm thử mấy nét vào bên cạnh trước, đây là thói quen nhiều năm của Người, không phải kẻ thường xuyên cận kề thì không thể biết được. Ngươi xem này…”
Bên cạnh nét mảnh mà họ cho là tia sét, có một vạch mờ như sợi tóc, gần như không thể nhận ra.
“Nét này không như nét bên cạnh, rõ ràng không phải vết lông trên bút để lại, mà là phụ hoàng lúc đặt bút vẽ vô ý làm dây ra.”
“Tôi sẽ đến nhà họ Trương, hỏi cha Trương Hàng Anh về lai lịch bức tranh.”
“Cũng nên hỏi xem, vì sao phụ hoàng lại vẽ ra bức tranh này, hơn nữa còn ban cho một đại phu dân gian.” Lý Thư Bạch chậm rãi dặn.
Hoàng Tử Hà nhìn bức vẽ, lại nhớ đến phản ứng lạ lùng của Ngạc vương.
Quả nhiên, Lý Thư Bạch nói ngay: “Còn bây giờ, chúng ta phải đến phủ Ngạc vương. Chẳng phải ngươi kể, khi trông thấy bức tranh này, Thất đệ phản ứng rất lạ ư.”
Hoàng Tử Hà gật đầu, đang định nói một tiếng với A Viễn thì nghe thấy tiếng ồn phía trước, xe chạy chậm dần, rồi dừng hẳn ở giao lộ.
Hoàng Tử Hà hé cửa sổ hỏi nhỏ: “Viễn bá, sao thế?”
“Đằng trước náo loạn quá, tắc đường mất rồi.” A Viễn nghển cổ nhìn rồi đáp.
Vừa vén rèm trông ra, cô đã trông thấy Chu Tử Tần đứng ngay cạnh đó, nhăn nhó nhìn sang cô: “Sùng Cổ, ta bị tắc đường.”
“Để tôi xuống xem đằng kia có chuyện gì.” Nói đoạn, Hoàng Tử Hà nhảy xuống xe, xăm xăm chen lên trước.
Chu Tử Tần cũng hớt hải chen đến bên cạnh, mở đường giúp cô: “Nhanh lên nào, đằng trước náo nhiệt lắm, để ta dẫn công công đi xem!”
Hoàng Tử Hà ngán ngẩm: “Tử Tần, tôi không định xem náo nhiệt…”
“Nhưng đây là việc trọng đại của phường Bình Khang, trong kinh cũng hiếm gặp! Công công không xem thì tiếc lắm!” Dứt lời gã đã kéo cô chen vào đám đông.
Lý Thư Bạch lạnh lùng nhìn theo, rồi lệnh cho A Viễn: “Đi thôi.”
“Nhưng giờ không thể đi tiếp được nữa thưa gia.”
“Quay lại, đến Đại Lý Tự.” Thấy Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần sắp mất hút giữa biển người, y cũng dời mắt nhìn sang chỗ khác.
Hoàng Tử Hà theo sau Chu Tử Tần, luồn trái lách phải, cuối cùng cũng chen đến chỗ đông nhất.
Nơi này gần phường Bình Khang, đường sá trong thành Trường An xưa nay rộng rãi, nhưng vì hai bên đường đang nạo vét cống rãnh, lại thêm cây hòe lâu năm mọc chìa ra đường, khiến khúc đường bị choán mất quá nửa, đi lại khó khăn, còn được cả hai phường hát đặt sân khấu đối diện nhau ngay giữa giao lộ, ra sức phô trương thanh thế, tiêu sáo rộn vang, áo xiêm phấp phới, thu hút đám người vô công rồi nghề xúm xít đứng xem, làm tắc nghẽn cả lối đi.
Trong đám đông nhốn nháo ấy, Hoàng Tử Hà liếc thấy cỗ xe nạm vàng khảm ngọc của Đồng Xương công chúa đang dừng ngay giữa đường, không sao di chuyển được.
Bọn Thùy Châu, Lạc Bội, Trụy Ngọc, Khuynh Bích đều đi theo xe, mấy tên hoạn quan và thị vệ hộ tống còn bị người xung quanh chen lấn đến nỗi phải liên tục lùi lại, nhưng trước sau vẫn bám sát bên cạnh cỗ xe, không dám rời nửa bước.
Thấy họ bị vây giữa đám đông, cô bèn đi đến chào hỏi: “Thực khéo quá, công chúa cũng ở đây ư?”
Giữa đám đông chen chúc đến nỗi cựa mình còn khó, vậy mà Thùy Châu vẫn thi lễ đáp: “Thưa vâng. Công công hôm nay… cũng đi xem náo nhiệt với Chu thiếu gia à?”
Hoàng Tử Hà vừa gật đầu thì Đồng Xương công chúa đột ngột vén rèm xe lên nhìn cô. Hàng lông mày của công chúa vốn mỏng manh mà sắc sảo, giờ đang nhíu lại buồn bực, càng toát lên vẻ ngạo nghễ lấn lướt: “Dương công công cũng ở đây ư? Người của Đại Lý Tự đâu rồi? Sao không mau giải tán bớt đám đông đi?”
Nghe giọng điệu công chúa đầy tức giận, rõ ràng đang lạm quyền quá phận, chỉ huy cả người của quan phủ, Hoàng Tử Hà ngán ngẩm thưa: “E rằng công chúa phải thất vọng rồi, nô tài tới đây một mình, không dẫn theo ai cả.”
“Hừ, sớm không tắc muộn không tắc, đúng lúc xe ngựa của bản cung đi đến đây thì tắc đường! Lại phải hôm đi vội quá, chỉ đem theo mấy đứa vô tích sự này!” Đồng Xương công chúa vừa miệt thị đám tùy tùng, vừa quay sang mắng người đánh xe té tát: “Kể cả vào bằng cửa Phượng Hoàng, động đao động kiếm thì đã sao, lẽ nào bản cung chưa gặp thái tử bao giờ chắc?”
Tên đánh xe bị mắng sa sả, chỉ biết cúi đầu vâng dạ rối rít.
Nghe nói đến cửa Phượng Hoàng, Hoàng Tử Hà thoáng ngẩn ra, vội hỏi: “Công chúa mấy hôm nay khó ở, nên tĩnh tâm nghỉ ngơi cho khỏe, sao tự dưng lại muốn đến cung Thái Cực?”
Thùy Châu khẽ gật đầu, lo lắng nhìn dòng người phía trước rồi thì thào: “Thục phi đang đợi công chúa…”
Cung Thái Cực hiện nay chỉ có Vương hoàng hậu ở, vậy mà giờ Quách thục phi lại ở đó, còn hẹn Đồng Xương công chúa đến đó gặp, không hiểu là chuyện gì?
Cô sực nghĩ đến một chuyện, vội gặng: “Hoàng thượng có ở đó không?”
“Nô tỳ không biết… Thục phi chỉ sai người tới báo cho công chúa thôi.” Thùy Châu lấm lét đáp.
Hoàng Tử Hà hiểu ra ngay, hôm nay ắt là thời khắc quan trọng của Vương hoàng hậu, mà Quách thục phi gọi Đồng Xương công chúa đến, là muốn giáng cho hoàng hậu một đòn chí mạng.
Nhớ lại lần triệu kiến trước, Vương hoàng hậu từng thuận miệng nhắc tới việc hồi cung, hơn nữa có vẻ đã nắm chắc thắng lợi trong tay, ắt hẳn bà ta phải có một con cờ đủ sức đối phó với Quách thục phi, nhưng… liệu hôm nay có dùng được không?
Còn đang nghĩ ngợi thì tiếng nhạc rộn lên, ra là trận so tài giữa hai phường hát đã đến lúc quyết thắng bại. Nữ tử áo đỏ bên phải đang múa điệu Hồ toàn vũ(*), cứ xoay tròn nhanh như gió, khiến người xem bên dưới luôn miệng hoan hô; còn nữ tử áo xanh bên trái lại cất cao giọng ca bài Xuân giang hoa nguyệt dạ, giữa những tiếng ồn ào huyên náo mà tiếng ca vẫn vang lên lảnh lót, đủ thấy giọng khỏe đến đâu. Lại vừa khéo hát đến hai câu:
Cùng nghe ngóng lúc nay chẳng thấy,
Muốn theo trăng trôi chảy đến chàng.
(*) Một điệu múa được du nhập từ Tân Cương vào triều đại nhà Đường, nhấn mạnh vào chuyển động của cổ. Vũ công đứng trên một tấm thảm lông tròn và nhảy múa, mỗi màn vũ đạo có hàng trăm tư thế khác nhau. Điệu múa này hiện vẫn tồn tại ở các nước Trung Á, Kazakhstan, Pakistan, Tajikistan, cũng như địa khu Tân Cương của Trung Quốc.
Ánh mắt Hoàng Tử Hà bất giác liếc sang Đồng Xương công chúa.
Xong công chúa dường như chẳng để tâm, vì còn đang cau có rủa xả: “Đám con hát đáng ghét này, lúc nào ta phải nói với phụ hoàng đuổi cổ tất cả bọn chúng ra khỏi thành Trường An mới được!”
Đoạn, nàng thả tấm rèm xe xuống đánh xoạch. Đám người ùn ùn chen lấn khiến hai con ngựa kéo xe kinh hãi, bắt đầu rục rịch di chuyển, làm thùng xe lắc lư.
Thùy Châu vội giữ lấy cửa xe hỏi vọng vào trong: “Công chúa không sao chứ?”
Chưa nói dứt câu, công chúa đã đẩy bật cửa ra nhảy xuống.
Nàng đang ốm, tính tình lại nóng nảy, lần này nhảy xuống quá nhanh, hai chân loạng choạng, suýt nữa thì ngã nhào.
Thùy Châu vội đỡ lấy nàng, mười mấy hoạn quan đi theo cũng xúm lại, rẽ đám đông ra.
Con phố đã chật cứng, mười mấy người này lại chen vào làm nhốn nháo cả lên, những người đang xem ca múa cạnh đó bị chen đến nỗi ngã dúi dụi, vài kẻ nóng nảy bèn quát: “Làm cái gì thế? Hoạn quan thì to lắm à? Hoàng thượng có đến cũng không thể cấm dân chúng xem ca múa được!”
Đúng lúc ấy, ánh mắt Đồng Xương công chúa bỗng sững lại giữa đám đông, nàng trợn tròn đôi mắt sắc lẹm, kêu lên thất thanh: “Trâm Cửu loan!”
Hoàng Tử Hà nhìn theo ánh mắt nàng, xong chỉ thấy đầu người lô nhô, có mấy cô gái làng chơi cài trang sức hoa lệ, nhưng màu sắc và tạo hình đều hết sức dung tục, đâu giống trâm Cửu loan đúc từ nguyên một khối ngọc.
Mấy ả thị nữ bên cạnh Đồng Xương công chúa cũng nhớn nhác nhìn quanh tìm kiếm, Thùy Châu buột miệng hỏi: “Công chúa thấy trâm Cửu loan ư? Nhưng… nô tỳ không thấy đâu cả…”
“Ở bên kia kìa, có người đang cầm đấy!” Đồng Xương công chúa trỏ về hướng Tây Nam, chân cũng dợm bước về phía đó.
Đám đông đang ùn lên, toán thị vệ phía sau chưa chen được đến, mấy tên hoạn quan lại đã bị đẩy ra ngoài rìa, chỉ còn mấy thị nữ ở cạnh công chúa, nhưng chẳng theo kịp.
Thùy Châu vội vươn tay níu nàng lại: “Công chúa cẩn thận đấy…”
Chưa nói dứt câu thì Đồng Xương công chúa đã bị tóm lấy cổ tay kéo mạnh, ngã chúi về phía trước. Thân hình nàng nhỏ nhắn, lại đột nhiên bị lôi vào đám đông, dòng người vừa tách ra đã nhanh chóng khép lại, chẳng khác nào một con thú dữ há hoác cái miệng to như chậu máu, tức thì nuốt chửng nàng.
Trên sân khấu hai bên, mấy chục nữ tử đang đồng ca khúc Xuân giang hoa nguyệt dạ, tiếng ca du dương uyển chuyển khôn xiết, đến cuối cùng thì át hết mọi âm thanh khác, chỉ còn tiếng ngân lảnh lót của ca nữ kia, chuyển âm ở chỗ cực cao chẳng khác nào băng qua vạn núi, quanh co khúc khuỷu, vút tận trời xanh.
Điệu Hồ toàn vũ đang vào hồi nhanh nhất, cả sân khấu đâu đâu cũng thấp thoáng bóng dáng yêu kiều mềm mại của vũ nữ nọ. Nàng dang hai tay ra, ngửa mặt lên trời, nhoẻn cười tươi tắn mà xoay tròn thật nhanh. Chiếc khăn chít trên đầu nàng, vạt áo nàng, gấu quần nàng, cùng mái tóc được tết thành cả trăm bím nhỏ đều xõa ra xoay tròn, như một dòng suối đủ màu.
Tiếng hét kinh hoàng của bọn Thùy Châu chìm trong tiếng nhạc rộn rã. Trước con mắt của mấy chục người, công chúa bị lôi vào đám đông, mà tất cả những kẻ bên cạnh nàng đều ngây ra không dám tin là sự thực, cũng không kịp phản ứng gì.
Hoàng Tử Hà định thần lại trước nhất, lập tức tách đám người chen vào.
Giữa đám đông chen chúc với đủ màu quần áo, đủ loại người, cô cũng mất phương hướng, cứ ngẩn ra không biết phải chạy về phía nào. May sao, đúng lúc này, có người tóm cổ tay kéo cô ra.
Hoàng Tử Hà quay lại thì thấy Chu Tử Tần. Gã khá cao, lại ra sức gạt đám đông, cuối cùng cũng tóm được cô.
Chỉ thấy gã nhìn trái ngó phải rồi hỏi: “Công chúa đâu? Công công thấy công chúa rồi à?”
Hoàng Tử Hà lắc đầu nhíu mày: “Mau lệnh cho hai đoàn ca múa kia rút đi, e rằng công chúa xảy ra chuyện rồi.”
“Lẽ nào lại thế, ở đây đông thế này, lại ngay trước mặt mọi người, có thể xảy ra chuyện gì được chứ?” Chu Tử Tần phản bác, nhưng cũng quay đi tập trung các thị vệ hoạn quan, để họ mau chóng giải tán đám đông.
Tiếc rằng người nhiều như thế, lại đang ầm ĩ hỗn loạn, trong chốc lát không thể giải tán ngay được.
Thùy Châu lo lắng: “Trước lúc biến mất, công chúa còn kêu lên thất thanh: ‘Trâm Cửu loan’, nên nô tỳ nghĩ nhất định có kẻ dùng trâm Cửu loan dụ công chúa đi. Công công… chúng ta phải đi đâu tìm công chúa đây?”
Hoàng Tử Hà bất giác đưa mắt tìm Lý Thư Bạch trong đám đông. Trí nhớ của y rất tốt, bốn đường lớn, mười sáu đường nhỏ, một trăm hai mươi ba ngõ ngách trong phường Bình Khang, hẳn y rõ hơn ai hết.
Nhưng lúc này Lý Thư Bạch không ở cạnh cô.
Bản thân cô lại không thông thuộc phường Bình Khang, đành bàn bạc với Chu Tử Tần, loại trừ các con đường tập trung nhiều phường nhạc kỹ, các phố có quán rượu đông người lắm tai mắt cùng các ngõ cụt đằng trước, chọn ra hơn mười con đường có khả năng nhất.
Tiếp đó, lại phân công đám hoạn quan và thị vệ phủ công chúa đang cuống cuồng như nhặng vỡ đàn tỏa ra tìm kiếm từng đường.
Xong xuôi tất cả, Hoàng Tử Hà ngoái lại, thấy các thị nữ hầu hạ công chúa chỉ còn ba ả, bèn hỏi: “Thùy Châu đâu rồi?”
“Hồi nãy Thùy Châu đuổi theo công chúa, cũng bị dòng người nuốt chửng rồi…” Trụy Ngọc chưa nói hết câu, chợt nghe thấy tiếng la đằng xa, sau đó là tiếng gọi kinh hoàng, lúc này, khi đám đông đã vãn, không gian yên tĩnh phần nào, nghe càng thêm thê thiết: “Người đâu… người đâu rồi…”
Là giọng Thùy Châu.
Chu Tử Tần và Hoàng Tử Hà phản ứng nhanh nhất, lập tức chạy ngay đến.
Sau bức tường bao, còn thừa ra đến ba bốn thước đất trống. Dây hoa sao tốt tươi bò tràn trên sân lên tường, từng mảng hoa đỏ thắm nổi bật trên nền lá xanh, trông như những vệt máu loang lổ.
Ở cuối mảng hoa lá dày rậm, thân hình Đồng Xương công chúa đang dựa vào tường, từ từ trượt xuống. Mắt nàng nhắm nghiền, xong thân thể vẫn không ngừng co giật.
Trên tấm áo đỏ thêu đầy bươm bướm ướt đẫm một mảng đỏ thẫm khác thường, chói chang dưới nắng.
Phía sau đám dây leo chằng chịt là cỏ dại um tùm, lúc này, chỉ có mấy nhành xác pháo trơ trọi rung rinh.
Thùy Châu liêu xiêu chạy đến, vấp phải dây leo ngã lăn ra, nhưng chẳng biết ả lấy đâu ra sức lực, vẫn vừa khóc lóc vừa lê đến bên cạnh công chúa, ôm chặt lấy nàng, sợ đến nỗi mặt mày tái ngắt không kêu nổi nữa, chỉ biết bịt chặt vết thương đang chảy máu xối xả trên ngực công chúa, tiếc rằng tay ả sao níu giữ nổi sự sống cho công chúa, đành trơ mắt nhìn sức thanh xuân của nàng trôi đi theo dòng máu tươi ấm nóng, thấm vào lòng đất đang bừng bừng nhựa sống rồi tiêu tan.
Vẻ mặt Thùy Châu đờ đẫn, như không thể đối diện với sự thực tàn nhẫn đau đớn trước mặt.
Chân Hoàng Tử Hà cũng ríu cả lại, cô loạng choạng chạy đến thì trông thấy cây trâm Cửu loan vốn đã biết mất đầy bí ẩn giờ đang nằm im lìm trên nền đất thấm đầy máu công chúa, giữa đám dây leo bị giày xéo giẫm đạp.
Máu tươi nhỏ xuống miếng ngọc chín màu kỳ lạ được chạm thành chín cánh chim loan phượng khoan thai bay lượn, trông càng lộng lẫy ấm áp khôn xiết.
Mà đuôi trâm được đẽo thành vành trăng khuyết, giờ đã gãy lìa, cắm ngay giữa ngực công chúa.
Máu tươi loang đỏ, càng làm nổi bật hai chữ triện cổ khắc bên trên.
Ngọc Nhi.

Q.2 – Chương 17: Hồi 15: Lên Tận Trời Xanh

Chiều trong cung Thái Cực, cả gió cũng nhẹ nhàng êm dịu.
Điện Lập Chính nguy nga sừng sững, toát lên vẻ ung dung.
Quả là một nơi phù hợp với Vương hoàng hậu. Hoàng hậu sống ở đây chẳng khác mẫu đơn nở trong giếng vàng, đã rực rỡ lại thêm lộng lẫy.
Dọn đến đây hơn một tháng, đột nhiên hoàng thượng lại dắt Quách thục phi đến thăm, hoàng hậu thừa hiểu là ý gì, nhưng vẫn điềm nhiên, tươi cười niềm nở, ung dung thoải mái ra đón hai người vào, như thể mình vẫn đang ở giữa gác Bồng Lai, nắm trong tay tính mạng của mấy vạn người trong cung Đại Minh cho tới muôn vạn người thiên hạ.
Hoàng đế ân cần hỏi: “Ở đây có quen không? Hình như hoàng hậu rất thích chỗ này.”
Vương hoàng hậu cười nhìn ngài ngự, đáp khẽ: “Thần thiếp nào dám thích, kẻo hoàng thượng lại ban cho thiếp ở nơi này mãi mãi.”
Hoàng đế nhìn nữ nhân mình hiểu rõ nhất mà cũng lạ lẫm nhất dưới gầm trời này, bỗng dưng chẳng biết nói gì.
Quách thục phi giơ quạt che miệng cười nói: “Thì ra hoàng hậu vẫn thích cung Đại Minh ư? Cũng phải thôi, gác Bồng Lai mùa hè là mát nhất. Chỉ sợ không bao lâu nữa vào thu, điện gác bỏ không lại sinh ra lạnh lẽo, phải bày biện thêm nhiều đồ đạc cho ấm cúng.”
“Dù lạnh lẽo, nhưng luận về cảnh trí thì đó là nơi đẹp nhất trong cung, chỉ thua chỗ bệ hạ mà thôi. Ta thấy nếu có cơ hội, hẳn thục phi cũng thích lắm.”
Quách thục phi ngạo nghễ đáp: “Thần thiếp nào dám vọng tưởng…” Dứt lời, lại ngóng nhìn ra phía ngoài.
Hoàng hậu vẫy vùng trong cung bấy nhiêu năm, đã hiểu rõ Quách thục phi như lòng bàn tay, bèn hỏi: “Linh Huy đi đường bị chậm trễ gì ư?”
Hoàng đế kinh ngạc hỏi: “Linh Huy sắp đến à?”
“Thưa vâng, công chúa cứ nói muốn đến cung Thái Cực thăm hoàng hậu, nhưng chưa có dịp. Hôm nay nhân cơ hội hoàng thượng đến chơi, thiếp bèn sai người báo cho nó.”
Hoàng đế tỏ vẻ khó chịu: “Hôm nay chỉ có mấy lời quan trọng định nói với hoàng hậu, việc gì phải gọi Linh Huy đến cho rầy rà?”
Hoàng hậu cười nhìn hoàng đế: “Thục phi sợ hoàng thượng mềm lòng, nếu có Linh Huy mà hoàng thượng yêu thương nhất ở đây, may ra có thể cảnh tỉnh đôi phần chăng?”
Hoàng đế biết hoàng hậu đã thừa hiểu mục đích chuyến thăm này, giờ còn nói toạc ra, khiến ngài ngự có phần lúng túng, đành đi thẳng vào đề: “Nếu hoàng hậu ưa thanh tĩnh thì trẫm có thể thành toàn cho nàng.”
Vương hoàng hậu nhoẻn cười đáp: “Thần thiếp không phải không ưa tĩnh, nhưng mười mấy năm nay đã cùng bệ hạ dõi mắt trông khắp giang sơn gấm vóc, ngắm hết thịnh thế phồn hoa. Nếu trời cao rủ lòng thương, mong rằng hãy để thiếp được bầu bạn bên bệ hạ suốt đời này, răng long tóc bạc.”
Quách thục phi cười cười, hờ hững chêm vào: “Tấm lòng của hoàng hậu cũng bao la quá, bệ hạ là của chung thiên hạ, há có thể cùng một người đàn bà răng long tóc bạc hay sao?”
Vương hoàng hậu ngồi ngay ngắn trước mặt Quách thục phi, cười đáp: “Thục phi không hiểu rồi. Bản cung là hoàng hậu, là chính cung của bệ hạ, tuy trời cao vô tình, nhưng vợ chồng kết tóc mười mấy năm, cũng đã chung vai trả vô vàn mưa gió. Dưới gầm trời này, nếu có kẻ nào có thể bạn bầu cùng bệ hạ, thì đương nhiên là bản cung.”
Tính tình hoàng đế vốn ôn hòa độ lượng, giờ lại nghe hoàng hậu nói vậy, bất giác nhớ đến bao hồi ức xa xưa, lại thấy dung mạo hoàng hậu vẫn hệt như năm ấy, tóc vấn thành ba búi, cài cây trâm mành mành vàng ròng chạm hình sẻ xanh, phục sức lộng lẫy, xong không che lấp được mảy may ánh hào quang hấp dẫn tự thân.
Đây là nữ tử đã kề cận bên mình mười mấy năm, mỹ nhân trong cung cũng như hoa, hết mùa này sang mùa khác, lần lượt nở rộ rồi tàn lụi, chẳng cách nào khôi phục lại nhan sắc năm xưa, duy chỉ có người này càng ngày càng rực rỡ, càng kiều diễm mê người.
Vì vậy, dù biết hoàng hậu đã lừa dối mình, dù biết quá khứ của hoàng hậu không thể chấp nhận được, xong hoàng thượng vẫn tự an ủi, trên đời này chỉ có mình là người phù hợp với hoàng hậu nhất, dẫu trước kia hoàng hậu từng qua lại với kẻ nào, thì chỉ khi ở cạnh mình, hoàng hậu mới phơi bày dung mạo mỹ lệ yêu kiều nhất. Có vậy, ngài ngự mới không thấy uổng phí tình cảm mười mấy năm nay.
Nghĩ đến đây, hoàng đế lại không nén nổi tiếng thở dài. Ngài nhìn sang hoàng hậu, căn dặn: “Hoàng hậu cứ nghỉ ngơi cho khỏe, để trẫm cân nhắc thêm đã.”
Vương hoàng hậu uyển chuyển vái chào, xong khi ngẩng lên đã rưng rưng nước mắt, gương mặt kiều diễm vẫn cười mà hai mắt thì ầng ậc nước, nhìn đáng thương khôn tả.
Thấy hoàng đế đứng dậy đi ra, Quách thục phi bất giác buột miệng: “Không phải bệ hạ có chuyện muốn nói với hoàng hậu ư?”
Hoàng đến chẳng buồn ngoái lại, vừa xăm xăm đi ra vừa đáp: “Vốn chỉ nói tới thăm hoàng hậu thôi mà, đây cũng là trẫm quan tâm hoàng hậu. Phi biết rõ Linh Huy đang ốm, lại bảo nó ra ngoài, còn không nói với trẫm, quả là quá phận.”
Quách thục phi ấm ức, lỡ miệng cãi lại: “Linh Huy là con gái thần thiếp, bảo nó tới thì có gì là quá phận…”
Vừa buột miệng, phi liền thấy không ổn, vội im bặt.
Hoàng đế đã ra khỏi điện Lập Chính, đang xuống thềm.
Quách thục phi bị bỏ lại chỉ biết đứng ngẩn ra giữa điện, ngoái đầu thì thấy Vương hoàng hậu thong thả tiến lại. Hoàng hậu cười đầy ẩn ý, ghé tai hỏi nhỏ: “Thục phi định dựa vào Đồng Xương chứ gì? Bản cung thực không biết, các triều đại xưa nay có phi tần nào dựa vào con gái mà leo lên được không?”
Nhìn nụ cười của hoàng hậu, Quách thục phi bỗng thấy kinh hãi vô cớ, vội lùi lại, cãi cố: “Đã có hoàng hậu sinh được con trai bị biếm vào lãnh cung, tất cũng có phi tần sinh được con gái mà thăng tiến.”
“Chẳng phải vì năm ấy nói được một câu ‘sống được’ đấy ư” Vương hoàng hậu cười cười nhìn Quách thục phi, ánh mắt đầy khinh miệt và giễu cợt, xong giọng điệu vẫn dịu dàng uyển chuyển, điềm đạm khoan thai: “Một người đàn bà không có con trai mà dám vọng tưởng leo lên đỉnh cao nhất của cung Đại Minh, bản cung thật thương hại cho ngươi.”
Lồng ngực Quách thục phi phập phồng dữ dội, bà ta trừng mắt nhìn hoàng hậu đầy căm hận. Hồi lâu mới cúi gằm mặt xuống, chẳng nói nửa lời, quay ngoắt người đi thẳng ra ngoài điện.
Đúng lúc Quách thục phi bước xuống thềm thì thấy mấy tên hoạn quan hớt hải chạy tới, ngoài Trường Khánh khi nãy vẫn đợi bên ngoài, còn có Đức Chính, đại hoạn quan trong cung bà ta, cùng đám hoạn quan phủ công chúa và phủ Quỳ vương, những kẻ đáng lẽ không thể xuất hiện.
Hoàng đế thấy mấy tên hoạn quan hoảng hốt lao tới bèn hỏi: “Có gì mà hớt hơ hớt hải thế?”
Trường Khánh và Đức Chính tức thì quỳ sụp xuống đất, nước mắt ròng ròng, không dám lên tiếng.
Hoàng Tử Hà trịnh trọng quỳ xuống bẩm báo: “Khởi bẩm bệ hạ, trên đường đến cung Thái Cực, Đồng Xương công chúa đã bị tập kích.”
Hoàng đế kinh hoàng hỏi ngay: “Bị tập kích à? Có bị thương không?”
Hoàng Tử Hà đáp khẽ: “Thương thế rất nghiêm trọng.”
Hoàng đế tái mặt: “Đồng Xương đang ở đâu rồi?”
“Muôn tâu, đã tức tốc đưa về phủ công chúa, cũng vào cung mời thái y rồi.”
Hoàng đế nghe nói liền phất tay áo đi thẳng ra cửa cung, gọi lớn: “Phùng Hàn!”
Từ Phùng Hàn theo hầu bên cạnh vội vã chạy theo: “Hoàng thượng đừng lo, công chúa ở hiền gặp lành, nhất định sẽ không việc gì…”
“Đến phủ Đồng Xương ngay!” Hoàng đế thô bạo ngắt lời.
Quách thục phi theo sau hoàng đế, mặt mày tái mét, lúc ngang qua Hoàng Tử Hà vẫn quỳ dưới đất, bà ta giận dữ trỏ cô mắng: “Làm hoàng thượng kinh sợ như thế, khi nào công chúa khỏe lại thì ngươi biết tay!”
Công chúa không khỏe lại được nữa rồi.
Hoàng Tử Hà nghĩ bụng. Đợi Quách thục phi đi khỏi, cô mới từ từ đứng dậy thở hắt ra.
Trời xanh lồng lộng, ngày dài đằng đẵng. Linh hồn Đồng Xương công chúa đã về chốn suối vàng trời biếc, chẳng còn dây dướng với thế gian này nữa.
Sinh thời phồn hoa, lễ tang long trọng, cũng chẳng liên quan gì tới nàng nữa.
Hoàng Tử Hà giơ tay lên, nhìn vết máu Đồng Xương công chúa trên đó.
Nàng công chúa được cả thiên hạ ngưỡng mộ, lớn lên giữa lầu son gác tía, bọc trong gấm lụa lượt là, ngọc ngà châu báu, nhưng có ai hay, nàng lại chết đi giữa độ xuân xanh, trong một góc tường hoang phế chỉ có dây leo và cỏ dại, ngay khi vừa rời khỏi các thị nữ vỏn vẹn một khắc.
Khi phát hiện Đồng Xương công chúa đã chết, các thị nữ hầu hạ nàng đều sợ đến ngã quỵ xuống đất, khóc lóc thảm thiết, Trụy Ngọc vừa khóc vừa gào lên: “Nhất định là Phan thục phi nhà Nam Tề! Bà ta đã lấy trâm Cửu loan đi, giờ lại dùng nó sát hại công chúa!”
Những kẻ khác không dám lên tiếng, nhưng nhìn vẻ kinh hoàng và khiếp hãi trong mắt họ, Hoàng Tử Hà hiểu, tất cả đều đồng tình với Trụy Ngọc.
Sau khi gây án, hung thủ hốt hoảng chạy đến khúc ngoặt rồi vượt tường nhảy ra ngoài, vết chân xéo lên cỏ dại vẫn rành rành. Tường bao ở đây sát với con phố vừa tắc nghẽn phải giải tán, ngoài đường người đi lại nườm nượp, không ngừng tỏa ra bốn phía, sai dịch tức thì tóm lấy mấy kẻ lảng vảng phía ngoài hỏi han nhưng họ đều nói mình không để ý thấy ai vượt tưởng nhảy ra cả.
Xem ra manh mối chủ yếu trong vụ này, ngoại trừ đối chiếu dấu vết hiện trường, thì chỉ còn cách tra xem, rốt cuộc kẻ nào có thể đánh cắp trâm Cửu loan giữa trùng trùng vòng vây canh gác của phủ công chúa, rồi đến hôm nay lại dùng chính nó đâm chết công chúa.
Kẻ đánh cắp cây trâm ắt có liên quan mật thiết đến hung thủ.
Hoàng Tử Hà đang mải ngẩm nghĩ, không để ý có người đến gần mình.
Chợt một giọng thanh thanh có phần hơi the thé cất lên: “Chim trên cành, cá trong nước, người dưới hoa. Cảnh sắc đẹp thế này, chẳng hay Dương công công còn ngẩn ngơ nghĩ ngợi chuyện gì?”
Thình lình nghe thấy tiếng nói sát bên cạnh, Hoàng Tử Hà giật bắn mình, vội bước lên một bước rồi mới ngoái đầu trông lại.
Là một nam nhân áo tím, tuổi chừng ba mươi, da dẻ trắng đến lạ thường, xong cặp mắt lại đen thẫm, thân hình gày gò dong dỏng cao đứng tựa vào cội hoa phía sau cô.
Nhưng dù đang mỉm cười, dù những đóa hoa trên cây lả tả trút xuống người, thì toàn thân y vẫn toát lên vẻ lạnh lẽo. Ánh mắt y dừng trên mặt Hoàng Tử Hà, khiến cô bất giác rùng mình.
Bỗng chốc, cô nhớ đến gã đàn ông với cặp mắt rắn độc từng nhìn mình chòng chọc ở cung Thái Cực lần trước, bất giác nhìn xuống tay y. Trong chén sứ trắng to bằng cái bát, hai con cá đỏ đang bơi lượn.
Thấy ánh mắt cô dừng ở hai con cá, y cười hỏi: “Dương công công cũng thích cá ư?”
Cá. Hai con cá quẫy mạnh chiếc đuôi xòe như sa mỏng, nghe tõm một tiếng.
Hoàng Tử Hà bỗng định thần lại. Cả triều đình Đại Đường này, chỉ có duy nhất một nội thị được mặc áo tím mà thôi.
Vừa nghĩ tới người này, cô vội quỳ sụp xuống đất: “Dương Sùng Cổ tham kiến Vương công công.”
Người kia nhìn xuống, giơ tay ra ý bảo cô đứng dậy. Nhìn vết máu long lổ trên tay cô, y hỏi: “Nghe nói…Đồng Xương công chúa xảy ra chuyện ư?”
Hoàng Tử Hà thoáng ngần ngừ, rồi gật đầu.
Vẻ mặt y vẫn điềm nhiên, khóe môi chỉ hơi nhếch lên đầy lạnh nhạt: “Nào, ngươi chìa tay ra đây.”
Hoàng Tử Hà chần chừ chìa tay ra trước mặt y.
Người nọ nắm lấy cổ tay cô, ngón tay y chẳng những trắng đến lóa mắt, mà còn mịn màng lành lạnh như ngọc chuốt, ấn mấy ngón tay dính máu của cô vào chén sứ.
Vết máu đã khô lại loang ra trong nước, mấy cục máu nhỏ cũng tróc ra.
Hai con cá tức thì bơi về phía mấy đốm máu nhỏ, tham lam mút mát vết máu trên ngón tay, khiến Hoàng Tử Hà sởn cả gai ốc.
“A Già Thập Niết thích nhất máu người. Nghe nói Quỳ vương cũng nuôi một con, Dương công công nhớ đem bí quyết này mách lại với vương.”
Nghe giọng nói lạnh lẽo của y, cô bất giác rùng mình, rụt phắt tay lại, làm bắn nước lên cánh tay trái đang cầm chén sứ của y, ướt cả tay áo, mặt y cũng dính vài giọt nước.
Y giơ tay phải lên nhẹ nhàng lau nước trên mặt, lặng lẽ nhìn cô.
Lưng Hoàng Tử Hà đầm đìa mồ hôi lạnh, cảm giác kinh hãi như bị rắn độc nhìn chòng chọc lại quặn lên. Cô vội vã hành lễ: “Vương công công thứ tội! E rằng tiểu nhân phải tới phủ công chúa ngay bây giờ.”
“Đi đi.” Y vẫn điềm nhiên, chỉ hơi nhấc tay làm hiệu.
Hoàng Tử Hà lập tức đứng dậy, lùi lại mấy bước rồi quay lưng chạy thẳng.
Phủ công chúa đang náo loạn.
Phát hiện ra đứa con gái mình yêu thương nhất chết ngoài đường, hoàng đế nổi cơn thịnh nộ. Các ngự y chẩn trị là xui xẻo nhất, vì không cứu được công chúa nên cả ba người đều bị lôi xuống phạt trượng, lúc Hoàng Tử Hà đến thì đã chết mất hai.
Hoàng Tử Hà hay tin, bèn đứng cùng Chu Tử Tần thì thào trao đổi.
“Nhưng lúc chúng ta phát hiện thì công chúa đã chết rồi, có là Hoa Đà tái thế cũng không thể cải tử hoàn sinh được…” Chu Tử Tần sợ ra mặt, giọng nói cũng run lên, “Sùng Cổ, giờ làm sao đây? Hoàng thượng cứ trút giận lên người khác thế này, e rằng sẽ có rất nhiều người bị vạ lây!”
Hoàng Tử Hà nhìn vị ngự y bị lôi xềnh xệch ra, cau mày nói nhỏ: “Công tử lo cho mình trước đi, hoàng thượng đích thân giao phó cho chúng ta phụ trách vụ này, kết quả án chưa phá được thì công chúa đã bị giết, công tử nghĩ hoàng thượng có bỏ qua cho chúng ta không?”
Mặt Chu Tử Tần càng tái ngắt, mồ hôi trán túa ra đầm đìa: “Sùng Cổ này, chúng ta phải đi tìm Quỳ vương nhờ cậy thôi…”
“Giờ gia ở đâu? Công tử định đi đâu mà tìm?” Hoàng Tử Hà ngao ngán hỏi.
Sắc mặt Chu Tử Tần lập tức xám ngoét: “Vậy, vậy làm sao đây?”
“Lập công chuộc tội thôi.” Hoàng Tử Hà vừa dứt lời đã thấy một người bên trong sải bước đi ra, gầm lên: “Những kẻ nào trong phủ công chúa theo Đồng Xương ra ngoài? Tất cả phải bồi táng theo công chúa hết! Để bọn chúng xuống dưới đó tiếp tục hầu hạ Đồng Xương!”
Là đương kim hoàng đế, người cha đang cả giận mất khôn.
Cả đám hoạn quan và cung nữ nơm nớp đợi bên ngoài phủ, chợt nghe thấy tiếng quát như sét đánh giữa trời quang, tức thì đều òa khóc nức nở, bọn Thùy Châu vật vã dưới đất, mặt mày tái nhợt.
Chu Tử Tần nghe vậy thì cuống cả lên, liều mạng tâu trình: “Bệ hạ, người hầu kẻ hạ của công chúa đều vô tội! Xin bệ hạ nghĩ lại!”
Ánh mắt hoàng đế dừng ở gã, nhưng dường như cơn giận đã che mờ lý trí, trong chốc lát không hề nhận ra gã: “Ai dám nói nữa, cũng lôi cả xuống!”
“Tâu bệ hạ, nô tài có lời muốn nói, xin bệ hạ châm chước!” Hoàng Tử Hà quỳ sụp xuống hành lễ, đoạn thưa: “Bệ hạ, nếu công chúa có biết, nhất định không muốn bệ hạ nổi cơn thịnh nộ, làm ra những chuyện hối hận về sau như thế, xin bệ hạ giữ gìn long thể, để công chúa dưới suối vàng được yên lòng.”
“Dương Sùng Cổ!” Hoàng đế trừng mắt nhìn cô, gầm lên: “Ta lệnh cho ngươi điều tra mấy vụ nghi án ở phủ công chúa, nhưng đến nay ngươi vẫn chưa có tiến triển gì, làm bê trễ vụ án, đến nỗi Đồng Xương… Đồng Xương… đường đường công chúa Đại Đường, mà lại bị… bị kẻ gian giết hại ngoài phố!”
Nói đến đây hoàng đế cũng nghẹn ngào, gần như nghẹt thở.
Quách thục phi từ bên trong khóc lóc lao ra, vuốt xuôi giúp hoàng đế, nức nở: “Bệ hạ… Bệ hạ… Con gái độc nhất của thần thiếp… chết rồi! Tên hung thủ… hung thủ đó, nhất định phải bị lăng trì tùng xẻo, thiêu xác đổ tro!”
Hoàng Tử Hà lại thưa: “Nô tài nhất định sẽ bắt hung thủ về quy án, nên xin bệ hạ giữ lại tính mạng cho những người này, để nô tài thẩm vấn điều tra cho rõ, sớm ngày phá án, bắt giữ hung thủ!”
Hoàng đế đấm mạnh lên cây cột, nhìn lướt qua đám cung nữ, hoạn quan trước mặt, hằn học nói: “Kẻ hầu người hạ bên cạnh công chúa mà không bảo vệ được chủ nhân chu toàn, tất cả đều đáng chết!”
Hoàng Tử Hà cụp mắt tâu: “Công chúa long dạ thiện lương, có ơn sâu nghĩa nặng với kẻ hầu người hạ, nếu công chúa biết được, ắt không muốn thấy bệ hạ đại khai sát giới vì mình thế này đâu.”
Cả đám hoạn quan và cung nữ phủ công chúa đều quỳ rạp dưới đất, gật đầu như bổ củi, luôn miệng van vỉ.
Máu nóng bốc lên đầu, hoàng đế choáng váng cả người, phải dựa cột nhìn vào bên trong, xong chỉ thấy màn trướng dày che kín giường công chúa.
Trong đó là đứa con đầu lòng của hoàng đế, khi người còn là Vận vương, tương lai mờ mịt, chẳng biết ngày sau sẽ ra sao, bị tất cả mọi người bên cạnh hoài nghi, chỉ riêng đứa con gái này luôn nũng nịu sà vào long, coi người là chỗ dựa duy nhất. Mỗi lần ôm lấy cổ người, ánh mắt nó lại sang rực lên, dẫu Quách thục phi muốn bế, nó cũng không chịu rời ra.
Bốn tuổi con bé mới biết nói, câu đầu tiên là “sống được”, chưa kịp hiểu nó có ý gì thì đội nghi trượng đến đón người đăng cơ đã tới cửa. Từ bấy, người tin chắc rằng đứa con gái này là báu vật trời ban cho mình nên trân quý như châu báu, mà nó cũng hết long tin tưởng, xem phụ vương như tấm bình phong vững chãi nhất.
Vậy mà giờ đây, có kẻ đã cướp đi báu vật người trân quý nhất, chỉ để lại một mình người đau đớn nhìn thi thể lạnh ngắt của con.
Hoàng đế từ từ gỡ tay Quách thục phi ra, căm hận lườm phi.
Quách thục phi thoáng ngây người, nhưng rồi hiểu ra ngay, nhất định ngài ngự đã giận lây sang mình. Nếu phi không phải vì chuyện lật đổ hoàng hậu mà gọi Đồng Xương vào cung, thì công chúa cũng không đến nỗi chết ngay giữa phố.
Nghĩ vậy, Quách thục phi vừa uất ức vừa đau xót, vội quay phắt đi bưng mặt nén tiếng khóc.
“Cái gì mà Phan Ngọc Nhi, Phan thục phi nhà Nam Tề! Hồn ma mấy trăm năm trước, sao có thể lấy mạng công chúa mà trẫm yêu thương nhất được!” Hoàng đế đứng trước điện quát lớn, tuy giọng nói đã hơi khàn, nhưng vẫn bừng bừng sát khí khiến người ta chẳng rét mà run: “Tra đi! Tra rõ rang cho trẫm! Xem kẻ nào giả thần giả quỷ, kẻ nào đặt điều nhiều chuyện, kẻ nào… giết Linh Huy của trẫm!”
Tất cả đều quỳ sụp xuống trước mặt ngài ngự, không dám thở mạnh.
Tiếng quát của hoàng đế văng vẳng trong đại sảnh lặng phắc, càng lộ ra nỗi đau thương.
Ngài ngự thình lình quay phắt lại, trừng mắt nhìn về thi thể Đồng Xương công chúa, lồng ngực phập phồng dữ dội, đau đớn và phẫn hận như một ngọn lửa hữu hình thiêu đốt thân thể người, khiến người chỉ muốn lật tung cả phủ công chúa, giết sạch những kẻ trước mặt chôn chung theo con gái.
Nhìn đăm đăm về phía con gái hồi lâu, lửa giận phừng phừng dần dần cũng nguội, đau xót lại như thủy ngân từ đỉnh đầu trút xuống, lan khắp toàn thân. Khi hơi lạnh nuốt chửng lấy ngọn lửa, cuối cùng hoàng đế cũng hiểu ra rằng, đứa con gái yêu kiều người từng ôm vào lòng đã không còn nữa; tiếng gọi phụ hoàng nũng nịu lẫn trong giọng cười lanh lảnh đã không còn nữa; đôi tay từng níu tay người nhõng nhẽo đã không còn nữa; cặp mắt long lanh luôn kính ngưỡng người, cũng không còn nữa.
“Dương Sùng Cổ, dù có phải lật cả kinh thành này lên…” Hoàng đế chầm chậm giơ tay ngăn dòng nước mắt, nhưng không ngăn nổi cơn run rẩy nghẹn ngào, người nói rất chậm, như thể chỉ cần thả lỏng một khắc thì sẽ khóc òa lên.
“… Ngươi phải cho trẫm một đáp án trước khi đưa tang công chúa. Trẫm muốn… thiêu xác đổ tro hung thủ trước linh cữu Đồng Xương!”
Hoàng Tử Hà lặng lẽ quỳ xuống dập đầu, nghiêm trang đáp: “Vâng.”
“Suýt nữa là mất mạng…”
Vừa rời khỏi đại sảnh đặt di thể công chúa, Chu Tử Tần đã lau mồ hôi lẩm bẩm: “Quỳ vương đi đâu không biết, không có vương gia ở đó, ta sợ quá đi mất…”
Hoàng Tử Hà thấy phò mã Vi Bảo Hoành đang đứng lặng ngoài sảnh, bèn ra hiệu cho Chu Tử Tần nín lặng, đi đến trước mặt phò mã hành lễ.
Vi Bảo Hoành gượng gạo giơ tay ra ý bảo hai người không cần đa lễ, hai mắt hắn ầng ậc nước, tuy ra sức kìm nén, nhưng lệ vẫn lăn dài.
“Đều tại… tại ta cả.” Hắn lẩm bẩm, giọng thiểu não: “Quỳ vương và công công đã dặn dò… dặn ta phải trông nom công chúa… vậy mà khi nàng muốn ra ngoài, ta lại không can ngăn…”
Hoàng Tử Hà buồn bã, cũng chẳng biết nói gì, đành khuyên nhủ: “Xin phò mã bớt đau buồn.”
Vi Bảo Hoành chỉ khẽ gật đầu, nghẹn ngào không thốt nên lời.
Thấy vậy, Hoàng Tử Hà an ủi thêm vài câu rồi cùng Chu Tử Tần cáo từ.
Rời khỏi khu Thập Lục trạch, nơi đặt phủ công chúa, Hoàng Tử Hà ngớ ra, Chu Tử Tần cũng ngớ ra.
Xe ngựa của Lý Thư Bạch đang dừng ngay đó đợi họ. Cạnh xe có một người đang đứng, chính là Trương Hàng Anh.
Hai người ngơ ngác nhìn nhau, Hoàng Tử Hà định thần lại trước, vội gật đầu chào Trương Hàng Anh rồi chạy đến cạnh xe hành lễ: “Tham kiến vương gia.”
Lý Thư Bạch đang ngồi trên xe đọc công văn, chẳng buồn ngẩng lên: “Hạn mấy ngày?”
“Thưa, trước lúc đưa tang.”
“Còn may, hoàng thượng coi như cũng rộng lượng với ngươi rồi đấy.” Y nhướng mắt liếc cô rồi gập công văn lại, “Lúc công chúa qua đời, Lữ Tích Thúy đang ở trong ngục, rõ ràng không có khả năng gây án.”
“Mà ba vụ án mạng này rất có thể là cùng một hung thủ, tham khảo bức tranh kia để ra tay.” Hoàng Tử Hà trầm ngâm nhận xét, “Bởi vậy, khả năng Tích Thúy là hung thủ hai vụ trước không nhiều.”
“Gã Trương Hàng Anh kia,” Lý Thư Bạch đưa mắt nhìn ra bên ngoài, “Cứ ngồi lì bên ngoài Đại Lý Tự, trông có ra thể thống gì không? Ngươi bảo hắn về nhà yên tâm đợi tin, hoặc là điều quách hắn từ Tả Kim Ngô Vệ sang giúp các ngươi tra án, làm chân chạy vặt cũng được.”
Hoàng Tử Hà ngỡ ngàng, “Ý gia là… muốn bỏ qua cho Trương Hàng Anh ư?”
Lý Thư Bạch nheo mắt nhìn cô, “Còn hỏi nữa, người cứ lén lút qua lại với hắn, ta trông cũng ngứa cả mắt.”
“Đa tạ vương gia.” Hoàng Tử Hà đuối lý, đành cúi gầm mặt xuống, nhưng rồi lại nhớ ra ngay, “Vậy nô tài dẫn Trương Hàng Anh tới Đại Lý Tự, xem Tích Thúy có cung khai thêm gì không.”
Lý Thư Bạch khẽ gật đầu, ra hiệu cho cô lên xe, rồi bảo Chu Tử Tần qua cửa sổ: “Tử Tần, người cùng Trương Hàng Anh tới Đại Lý Tự trước xem tình hình thế nào, chúng ta sẽ đến đó ngay.”
Nói vậy nhưng xe ngựa lại đi về phía Nam, nhằm hướng phủ Ngạc vương. Hoàng Tử Hà biết ý y, nên chỉ điềm nhiên hỏi: “Gia cũng cảm thấy, đây chính là hình vẽ thứ ba trong bức họa ấy ư?”
“Chết dưới cánh loan phượng… Trâm Cửu loan chính là con chim bổ xuống giết người, đúng không nào?” Y nghiêng đầu nhìn cô, đoạn giở bức tranh kia ra, nhìn qua cả ba hình vẽ.
Bị sét đánh chết cháy, là Ngụy Hỷ Mẫn tại chùa Tiến Phúc.
Chết trong lồng sắt, là Tôn ghẻ giữa căn nhà bít bùng.
Bị chim phượng bổ xuống mổ chết, là Đồng Xương công chúa bị trâm Cửu loan đâm trúng tim.
Lý Thư Bạch ngước nhìn cô: “Ngươi thấy thế nào?”
Hoàng Tử Hà gật đầu: “Nếu một hai người, còn có thể bảo là trùng hợp. Nhưng trùng hợp đến mức này không tìm Ngạc vương không xong.”
Ngạc vương Lý Nhuận thường ngày chỉ nhàn nhã ở trong phủ, hôm nay Lý Thư Bạch lại sai người đến báo trước, nên khi họ tới nơi, y đã pha sẵn trà ngồi đợi.
Cạnh tay y là một chiếc hộp dẹt.
“Tứ ca, nghe nói Đồng Xương xảy ra chuyện ở phường Bình Khang à?” Ngạc vương đích thân rót trà cho hai người, hơi nóng nghi ngút bốc lên rồi lan ra, khiến phòng trà trở nên mờ ảo.
Lý Thư Bạch gật đầu.
“Bị thương ư?”
Lý Thư Bạch lắc đầu: “Đã quy tiên rồi.”
Lý Nhuận bỗng khựng lại, làm nước tà hơi sánh ra ngoài, xong y chẳng hề để tâm, cứ ngẩn ra nhìn chằm chằm đám bọt xoay tròn trong cốc, giọng nghẹn lại như rặn ra từ cổ họng: “Làm sao… mà mất?”
“Bị cây trâm Cửu loan mình yêu thích nhất đâm chết.”
“Ai đâm?”
Lý Thư Bạch lắc đầu: “Lúc bấy giờ hỗn loạn, không bắt được hung thủ.”
Lý Nhuận đặt ấm trà xuống, thần người ra giây lát rồi khẽ cảm thán: “Đồng Xương là công chúa, sao có thể chết không minh bạch như thế, đúng là không thể tin nổi…”
“Khó tin nhất không phải cái chết của công chúa, mà là…” Lý Thư Bạch ra hiệu cho Hoàng Tử Hà đặt cuộn tranh lên bàn, rồi trải ra cho Ngạc vương xem: “Thất đệ đã thấy bức tranh này bao giờ chưa?”
Lý Nhuận gật đầu: “Đệ từng thấy tại nhà Trương Hàng Anh một lần. Lúc ấy mấy người bọn đệ còn tùy tiện chỉ trỏ bình luận ba hình vẽ trên đó, thực không ngờ… tất cả lại trở thành sự thật.”
“Ừ, ta cũng có nghe nói.” Lý Thư Bạch than thở, “Trước lúc Đồng Xương gặp nạn, ta từng xem qua bức tranh này, xong không chú ý lắm. Nếu lúc ấy nhận ra được manh mối gì đó, có lẽ hôm nay đã chẳng thành chuyện.”
“Thực ra… đệ đã thấy nó không bình thường từ lâu rồi.” Lý Nhuận phân vân nói, “Lần đầu tiên trông thấy, đệ đã cảm thấy chuyện này quá đỗi kỳ dị, sau khi về phủ vắt óc nghĩ mãi mấy hôm không thông, e rằng nay phải thỉnh giáo Tứ ca.”
Đoạn y mở chiếc hộp dẹt bên cạnh ra.
Trong hộp là một mảnh giấy được gấp vuông vắn, nhìn như mẩu giấy bông cũ vẫn dùng để vẽ mẫu thêu, trên có hai ba hình vẽ nguệch ngoạc đen sì bằng chì kẻ mày, trông cũng rối mắt hệt bức họa ở nhà họ Trương.
Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà nhìn nhau. Quỳ vương cầm hẳn mẩu giấy lên, vẫy cô lại cùng xem.
Là một mảnh giấy bông to chừng bàn tay, nét vẽ ngả nghiêng xiêu vẹo, rõ ràng người vẽ không biết gì về hội họa. Về cơ bản có thể thấy đường nét hai bức khá tương đồng. Ở hình thứ nhất, phía trên khối mực đen là một nét mảnh; hình thứ hai có bảy đường ngang tám đường dọc bao quanh một khoanh mực chẳng nhìn ra hình thù gì; hình thứ ba là hai mảng đen ngòm dính liền vào nhau, một trên một dưới.
Bức tranh ở nhà họ Trương còn có thể gượng coi là miêu tả cái chết của ba người, còn bức vẽ trên giấy bong này tuy đường nét tổng thể tương tự, nhưng chi tiết thì không thể bằng được, nhìn vào không hiểu là gì, chỉ thấy ba mảng mực.
Lý Thư Bạch ngắm nghía hồi lâu rồi đưa mẩu giấy cho Hoàng Tử Hà, quay sang hỏi Lý Nhuận: “Chẳng hay bức tranh này của Thất đệ từ đâu mà có?”
Lý Nhuận bưng ly trà thở dài: “Không dám giấu Tứ ca, là mẫu phi đệ vẽ.”
Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch sững người, không ngờ bức tranh này lại từ mẫu phi Lý Nhuận. Hoàng Tử Hà không biết những chuyện thâm cung bí sử, nhưng Lý Thư Bạch hiểu rõ, mẫu phi Trần Tu Nghi của Lý Nhuận dịu dàng hòa nhã, giỏi lựa ý người, mấy năm tiên hoàng đau ốm, đều do bà ta cận kề chăm sóc.
Đêm tiên hoàng băng hà, bà ta đau lòng đến suy sụp, từ bấy thành ra dở điên dở dại. Được sự đồng thuận của các thái phi, Lý Nhuận đã đón mẫu phi ra khỏi cung, đưa về phủ phụng dưỡng.
“Năm ngoái mẫu phi qua đời. Trước ngày mất mấy hôm, bà như được hồi quang phản chiếu, còn nhận ra đệ. Chắc là trời thương, chứ đệ cứ nghĩ, bà chỉ nhớ hình ảnh đệ lúc nhỏ thôi.” Khóe môi Ngạc vương vẫn thấp thoáng nụ cười như mọi khi, xong mắt đã rân rấn nước, “Nhân lúc tỉnh táo, bà đưa cho đệ bức tranh này. Bấy giờ đệ cũng chẳng để tâm, nhưng sau khi bà qua đời, đệ mới nhận ra, đây là thứ duy nhất bà chính tay giao cho đệ. Bởi thế, tuy cho là bức vẽ nhăng cuội của mẫu phi lúc phát bệnh, nhưng đệ vẫn giữ trong thư phòng. Mãi đến mấy hôm trước, đệ trông thấy bức họa ở nhà Trương Hàng Anh…”
Nói đến đây, y đưa bút nhìn sang ngự bút tiên đế, nghi hoặc hỏi: “Nhưng vì sao phụ hoàng lại để lại bức tranh như vậy, còn mẫu phi đệ, tại sao sau mười năm bệnh tật, còn lén lút vẽ theo, giao tận tay đệ?”
Hoàng Tử Hà cầm tờ giấy bông lên hỏi: “Thứ cho nô tài mạo muội, chẳng hay đưa bức vẽ này cho vương gia, thái phi có căn dặn gì không?”
“Mẫu phi nói…” Lý Nhuận im lặng nhíu mày, đưa mắt ra lệnh cho người hầu lui ra. Đợi tất cả lui hết, y mới đáp khẽ, “Mẫu phi lúc ấy không được tỉnh táo, nói rằng, thiên hạ Đại Đường…”
Thiên hạ Đại Đường sắp mới rồi.
Xong y không nói nốt nửa câu sau, chỉ kể đại khái: “Mẫu phi nói năng lộn xộn, có lẽ muốn bảo thiên hạ náo động, Đại Đường sắp suy vong… Còn dặn rằng bức vẽ này liên quan đến sự tồn vong của Đại Đường, bắt bản vương cất giữ cẩn thận.”
Lý Thư Bạch lấy lại mảnh giấy từ tay Hoàng Tử Hà, nghiêm trang đặt vào tay Ngạc vương: “Đa tạ Thất đệ. Xem ra bức tranh này nhất định là thái phi vẽ phỏng lại di bút của tiên hoàng theo trí nhớ.”
Lý Nhuận nhận lấy bức tranh, ngạc nhiên hỏi: “Bức tranh kia là… di bút tiên hoàng ư?”
Lý Thư Bạch gật đầu: “Ta đã đến nội phủ tra hồ sơ lưu của cung đình, quả nhiên trong ghi chép về lịch trình sinh hoạt của tiên hoàng có ghi rõ, Trương Vĩ Ích, chính là cha Trương Hàng Anh, đã vào cung thăm bệnh cho phụ hoàng ngày mồng mười tháng Tám năm Đại Trung thứ mười ba.”
Lý Nhuận hồi tưởng lại: “Lúc ấy đệ còn nhỏ tuổi, nhưng cũng biết phụ hoàng dùng lầm thuốc, dẫn đến thánh thể bất an từ tháng Năm, đến tháng Bảy thì cả ngày hôn mê. Ngự y bó tay hết cách, mấy hoàng tử bọn đệ bấy giờ vẫn ở trong cung, muốn vào thăm phụ hoàng nhưng toàn bị đám hoạn quan ngăn lại bên ngoài. Các đại danh y trong kinh lần lượt được triệu vào cung, nhưng đều chẳng có cách nào…”
“Trương Vĩ Ích là danh y cuối cùng, vào cung đúng ngày phụ hoàng băng hà. Ta đã sai người đi hỏi ông ta về lần tiến cung ấy, theo ông ta nhớ thì lúc đó ông ta là danh y ở Đoan Thụy Đường, tháng Tám phụng chiếu vào cung chẩn mạch cho phụ hoàng, bấy giờ phụ hoàng đã hôn mê, nhưng sau khi ông ta châm cứu, quả thật người từng tỉnh lại. Có điều cũng như mọi người trong cung, ông ta biết đây chỉ là hiện tượng hồi quang phản chiếu, triệu ông ta vào cung trị bệnh, chẳng qua chỉ mong phụ hoàng tỉnh lại chốc lát, sắp xếp nốt việc lớn trước khi băng hà thôi.”
Hoàng Tử Hà hỏi khẽ: “Khó khăn lắm mới tỉnh táo được một lúc, sao tiên hoàng còn vẽ tranh ban cho Trương Vĩ Ích?”
Lý Thư Bạch và Lý Nhuận cũng thắc mắc điểm này. Bấy giờ tiên hoàng đã hấp hối, đáng ra phải lo an bài việc lớn của triều đình sau khi mình qua đời, chứ đâu phải vẽ tranh ban cho một thầy thuốc dân gian.
“Thế nên người ta mới không hiểu nổi. Ngay chính Trương Vĩ Ích cũng chẳng hiểu gì cả. Sau khi tiên hoàng tỉnh lại, ông ta phải lui xuống ngay, một thầy thuốc dân gian sao có thể ngồi nghe việc lớn trong cung được?” Lý Thư Bạch nhíu mày, “Hồ sơ trong cung cũng ghi như thế. Tiên hoàng tỉnh lại, Trương Vĩ Ích lui ra. Chưa ra đến cửa cung, có người đuổi theo nói hoàng thượng cảm tạ tay nghề của Trương đại phu, ban cho một bức ngự bút. Ông ta mừng quá, vội hướng về phía điện Tử Thần dập đầu bái tạ, rồi nhận lấy cuộn tranh, vừa đi vừa giở ra xem, tức thì sững sờ không nói lên lời.”
Theo lời kể khe khẽ của hai người kia, ánh mắt Hoàng Tử Hà dừng ở bức tranh nọ. Thật không ngờ bản vẽ nguệch ngoạc này, hóa ra lại là di bút của tiên hoàng từ mười năm trước. Chắc hẳn lần đầu tiên trông thấy nó, Trương Vĩ Ích cũng không sao tin nổi.
Vậy mà mười năm sau, lại có ba vụ án mô phỏng theo hình vẽ trên đó, quả là không thể tưởng tượng, rất khó truy tra.

Q.2 – Chương 18: Hồi 16: Đêm Vân Ngày Gấm

Sau khi từ biệt Ngạc vương, hai người quay về thì trời đã tối.
“Ngươi về phủ hay đến Đại Lý Tự trước?”
Hoàng Tử Hà đáp ngay, không chút do dự: “Về phủ, tôi mang chút gì ăn đến Đại Lý Tự. Chu Tử Tần và Trương Hàng Anh vẫn ở đó mà.”
Lý Thư Bạch cũng chẳng phản đối: “Sau khi về thì đến đài Chẩm Lưu, ta đợi.”
Hoàng Tử Hà không màng ăn uống, chỉ chạy xuống bếp lấy hộp cơm rồi lại nhảy lên xe ngựa vương phủ, đến thẳng Đại Lý Tự.
Thiếu khanh Đại Lý Tự Thôi Thuần Trạm đã tới phủ công chúa. Vừa nghe tin này, Hoàng Tử Hà mường tượng ra ngay vẻ mặt nhăn nhó như bị đau răng của hắn.
Đại Lý Tự thừa là Phạm Dương đang ở đó, thấy Hoàng Tử Hà đến vội khách khí hành lễ với cô, mặt vẫn tái mét vì sợ: “Công chúa được thánh thượng yêu nhất bị giết ngoài phố, chuyện này làm sao bây giờ, Dương công công?”
Hoàng Tử Hà thở dài: “Giờ đành đợi ý chỉ của hoàng thượng rồi tính.”
Phạm Dương giậm chân than vãn một hồi, chẳng buồn để tâm đến những việc khác. Hoàng Tử Hà nói muốn đem hộp cơm cho Lữ Tích Thúy, hắn cũng chẳng hỏi han gì, chỉ xua tay: “Tử Tần và tên Trương Hàng Anh ấy đang ở trong đó, công công cứ vào đi.”
Trời tối mà cả phòng chỉ có mỗi một ngọn đèn leo lét trong hốc tường. Hoàng Tử Hà đứng trước cửa, trông thấy Tích Thúy và Trương Hàng Anh đang dựa vào nhau dưới ánh sáng lờ mờ của ngọn lửa lập lòe, cả hai đều bất động, thẫn thờ nhìn chằm chằm vào đốm sáng trong hốc tường.
Chu Tử Tần ngồi chồm hổm trước cửa, thấy cô đến thì mừng rỡ đứng phắt dậy: “Sùng Cổ đến rồi đấy à? Ồ… hay quá, còn mang cả đồ ăn đến nữa, ta sắp chết đói rồi đây!”
Đoạn gã đón lấy hộp cơm từ tay Hoàng Tử Hà, vồn vã bảo hai người bên trong: “Trương nhị ca, A Địch, bất kể thế nào thì ăn cơm vẫn là quan trọng nhất, nào nào, đến đây ăn chút gì đi!”
Chu Tử Tần xăng xái bày chén đĩa ra, đặt hai món mình thấy ngon mắt nhất trước mắt Tích Thúy và Hoàng Tử Hà, rồi chia đũa cho mọi người.
Thím nấu bếp ở phủ Quỳ rất quý Hoàng Tử Hà, toàn để dành cho cô những món ngon nhất, tiếc rằng cả bốn người không ai nuốt nổi.
Hoàng Tử Hà nhìn Tích Thúy, nói bằng giọng ôn hòa hết mức: “Lữ cô nương, chắc Tử Tần cũng nói với cô rồi, chúng tôi lại có vài chuyện nhỏ phải hỏi, mong cô trả lời chúng tôi.”
Tích Thúy nơm nớp đứng dậy đáp khẽ: “Tôi… tôi không còn gì để nói cả, tôi đã nói hết rồi mà…”
Thấy nàng kinh sợ, Chu Tử Tần vội khoát tay giải thích: “Cô đừng hiểu lầm, đừng hiểu lầm mà, Trương nhị ca là bạn chúng ta, nên cô cũng là bạn chúng ta, cứ coi như đang tán gẫu vậy thôi.”
Thấy Tích Thúy vẫn ngập ngừng, Hoàng Tử Hà liền vỗ lưng Trương Hàng Anh: “Lữ cô nương tin chúng tôi đi. Tốt xấu gì cũng sẽ đứng về phía cô, bằng không để người của Đại Lý Tự đến hỏi, e rằng cô còn sợ hãi hơn.”
Nghe vậy, Trương Hàng Anh vội gật đầu, dỗ dành Tích Thúy: “Muội yên tâm đi, Dương công công rất lợi hại, trên đời làm gì có vụ án nào công công không phá được đâu! Ta tin chỉ cần muội nói thực, Dương công công nhất định sẽ rửa oan cho muội.”
Tích Thúy ngẩng lên, đăm đăm nhìn gã hồi lâu, rồi gượng gạo nhếch môi đáp: “Nhưng… muội không còn gì để nói cả, chính muội đã giết hai người kia.”
“Nói dối chúng tôi không ích gì đâu.” Hoàng Tử Hà cắt lời nàng rồi đưa mắt sang Chu Tử Tần, Chu Tử Tần hiểu ý nói ngay: “Lữ cô nương, chính tay ta đã khám nghiệm tử thi Tôn ghẻ, nhớ rõ những vết thương trên người hắn.”
Nói rồi, gã quay ra ngoài bẻ một cành cây đưa cho Tích Thúy: “Lữ cô nương, cô thử coi ta là Tôn ghẻ, diễn lại tình hình lúc đó xem. Cô nói Tôn ghẻ đứng trong khung cửa, nên cô giơ dao đâm hắn hai nhát, đúng không nào?”
“Đúng…” Tích Thúy nắm chặt cành cây, run rẩy đáp.
“Vậy lúc đó cô đâm thế nào?”
Tích Thúy chần chừ nhìn Trương Hàng Anh, lại nhìn cành cây trong tay, cuối cùng vẫn giơ lên đâm xuống ngực Chu Tử Tần.
Trương Hàng Anh phát hoảng, định ngăn cản thì Chu Tử Tần đã nhanh nhẹn tóm lấy cổ tay Tích Thúy, chặn đứng thế đâm của nàng: “Lữ cô nương, nếu một người đứng đối diện đâm xuống thì vết dao phải đi từ trên xuống dưới. Nhưng vết thương của Tôn ghẻ lại từ trái sang phải, cũng tức là, hắn ta bị đâm khi nằm nghiêng sang phải, vết dao chếch xuống dưới nên chúng ta đoán chắc hung thủ thừa cơ Tôn ghẻ ngủ say thì ngồi trước giường vung dao đâm hắn, chứ không phải như cô nói là đâm khi hắn ra mở cửa.
“Bởi vậy, nếu cô cứ khăng khăng nhận là mình giết Tôn ghẻ, thì hãy cho chúng tôi biết, cô làm thế nào lẻn được vào căn nhà bít bùng như lồng sắt đó để sát hại Tôn ghẻ khi hắn đang ngủ? Rồi làm sao thoát ra khỏi căn nhà cài chốt trong như thế?”
Tích Thúy đứng ngây ra, không biết phản bác thế nào.
Trương Hàng Anh trợn trừng mắt nhìn nàng, run run hỏi: “A Địch? Sao muội phải nói dối? Sao muội phải mạo nhận là hung thủ?”
“Dĩ nhiên là vì huynh rồi, Trương nhị ca à.” Hoàng Tử Hà bình thản phân tích, “Huynh cho rằng cô ấy là hung thủ giết Ngụy Hỷ Mẫn và Tôn ghẻ, còn cô ấy lại tưởng huynh đã giết hai kẻ kia để báo thù thay cô ấy. Bởi thế, khi phát hiện huynh trở thành đối tượng bị tình nghi, thậm chí còn ảnh hưởng đến tiền đồ sau này, cô ấy bèn quả quyết hy sinh thân mình, đến Đại Lý Tự đầu thú, hòng gánh tội thay, bảo vệ cho huynh bình an!”
Lời này của Hoàng Tử Hà khiến hai người Trương Hàng Anh và Tích Thúy đờ ra.
“A Địch… muội ngốc quá!” Trương Hàng Anh vội chộp lấy tay nàng, một gã trai chừng ấy tuổi, vậy mà giờ đây mừng rỡ, giận dữ, buồn bã, bao cảm xúc lẫn lộn đều lộ ra ngoài mặt, thật không biết phải miêu tả thế nào: “Muội… muội đấy! Giờ chúng ta làm sao đây?”
Thấy hai người siết chặt tay nhau, Hoàng Tử Hà vừa vui lại vừa buồn, đành an ủi: “Giờ công chúa đã qua đời, Lữ cô nương lại ở trong phòng tạm giữ của Đại Lý Tự nên không bị tình nghi. Nhưng trước đó cô đã nhận giết hai người kia, nên muốn bảo lãnh ra ngay cũng khó, e rằng phải đợi, bắt được hung thủ thật sự thì mới thả được.”
Tích Thúy rầu rĩ gật đầu nói khẽ: “Xin lỗi Trương nhị ca, tại muội… tại muội không tin huynh…”
“Không thể trách muội được, có trách thì trách ta đã giấu muội…” Trương Hàng Anh thở dài.
“Hai vị thật là, làm ầm ĩ lên thế này, báo hại chúng ta phải lần lại từ đầu.” Chu Tử Tần ngán ngẩm lắc đầu, xách hộp cơm ra ngoài, xếp lại bàn ghế rồi cũng Hoàng Tử Hà ngồi xuống, Trương Hàng Anh và Tích Thúy song song ngồi xuống chiếc giường thấp.
“Nào, hai vị là một trong những người đứng gần nhất, tận mắt chứng kiến thảm kịch ở chùa Tiến Phúc hôm đó, Lữ cô nương, hy vọng cô tạm thời gỡ bỏ gút mắc trong lòng, thuật lại thật kỹ tình hình lúc ấy cho chúng tôi nghe được không?”
Tích Thúy lặng lẽ cắn môi nhìn Trương Hàng Anh, thấy gã gật đầu, mới cúi gầm mặt kể: “Nhưng hôm ấy thoạt đầu tôi đội mũ có mạng che nên không thấy rõ lắm cảnh tượng bên ngoài, về sau làm rơi mũ, trong lúc chờ Trương nhị ca nhặt giùm, tôi sợ bị người ta nhận ra, bèn ngồi thụp xuống che mặt lại. Bởi thế, tôi không thấy gì cả, thậm chí… thậm chí cũng không trông thấy Ngụy Hỷ Mẫn giữa đám đông. Đáng lý bộ đồ hoạn quan đỏ chói như thế nhìn rất nổi bật, nhưng quả thật tôi không trông thấy.”
Trương Hàng Anh cũng vắt óc nhớ lại: “Đúng thế, chùa Tiến Phúc hôm ấy có cả biển người, Ngụy Hỷ Mẫn lại thấp bé, lọt thỏm giữa đám đông, đến tôi cũng không trông thấy. Mãi tới khi trời giáng sấm sét làm nổ cây nến, thấy Ngụy Hỷ Mẫn lăn lộn trên mặt đất, tôi mới biết hóa ra y cũng đi chùa.”
“Vậy hai vị nghĩ lúc đó… có thể có kẻ nào thừa cơ ra tay với y không?”
“Hoàn toàn không thể!” Trương Hàng Anh dứt khoát lắc đầu, “Sét đánh nổ tung cây nến chỉ trong nháy mắt, ai đủ thời gian kéo Ngụy Hỷ Mẫn ra khỏi đám đông rồi xô vào lửa chứ?”
“Hơn nữa, người y… cả người đều cháy phừng phừng, chứ không chỉ cháy một hai chỗ. Dù y lăn lộn dưới đất, cũng không dập nổi.” Tích Thúy khẽ khàng bổ sung, “Bởi vậy, tôi nghĩ, ắt là trời phạt.”
Hoàng Tử Hà gật đầu, đoạn trầm tư hỏi: “Lúc đó các vị có nhìn rõ Ngụy Hỷ Mẫn không? Thấy y có gì khác lạ không?”
Trương Hàng Anh gật đầu: “Đương nhiên rồi! Tôi biết y là kẻ hại Tích Thúy, nên ở giữa đám đông chen lẫn vẫn quay đầu nhìn y mấy lần. Thấy hình như y… đờ cả ra vì sợ, bị lửa thiêu như thế hẳn là rất đau đớn, thế mà thoạt đầu y còn ngây ra, nằm bò dưới đất một lát, mới gào lên lăn lộn khắp nơi hòng dập lửa.”
“Ừm… muội cũng nhớ… trông y cứ như vừa tỉnh mộng ấy.”
Chu Tử Tần vừa ghi vừa quay sang hỏi Hoàng Tử Hà: “Thế nào đây, có phải càng điều tra càng giống trời phạt không?”
Hoàng Tử Hà lờ gã đi, lại hỏi Tích Thúy: “Sao cô nương lại lấy bức tranh kia đi?”
Nghe cô nhắc đến chuyện này, Tích Thúy run bắn lên, ngước mắt nhìn Trương Hàng Anh, thấy gã vẫn bình thản, còn dịu dàng nhìn mình đăm đăm, mới cắn môi đáp khẽ: “Tôi… bị cha tìm thấy rồi…”
Trương Hàng Anh ngạc nhiên hỏi: “Từ lúc nào thế?”
“Chính là hôm huynh đi đánh mã cầu đó.” Tích Thúy cúi gằm mặt, sợ sệt kể: “Muội muốn làm bánh cổ lâu cho huynh, bèn tới chợ Tây mua thịt dê… lúc ngang qua tiệm của cha, muội không kìm được, ngó vào trong…”
Tuy nàng đã đội mũ có mạng che, nhưng dù sao cũng là cha con mười mấy năm, Lữ Chí Nguyên vẫn nhận ra ngay. Nàng mua thịt dê xong, về đến của nhà Trương Hàng Anh mới thấy là lạ, vừa quay lại thì trông thấy cha mình đang lẳng lặng đi theo đằng xa.
Thấy Tích Thúy đã phát hiện, Lữ Chí Nguyên bèn đi thẳng đến trước mặt nàng: “Khá đấy, chẳng những không chết, mà còn tìm được chốn dung thân nữa.”
Nàng run cầm cập, chỉ sợ người nhà họ Trương phát hiện ra thân phận thật của mình, đành nài nỉ cha đi cho mau, coi như không có đứa con gái này nữa.
Nào ngờ cha nàng cười nhạt: “Tìm được chồng rồi, lại định rũ tao đấy à? Mày xem đã đền đáp được tí nào ơn dưỡng dục mười mấy năm nay của tao chưa? Tao nói cho mày biết, một là mày cút đi xa xa, đừng ở kinh thành này làm mất mặt tao, hai là mày bảo người nhà này chuẩn bị cho tao mười quan tiền sính lễ, coi như trả công tao nuôi nấng mày bấy nhiêu năm!”
Chu Tử Tần thở dài hỏi: “Thế nên cô mới đánh cắp bức tranh đi cầm lấy mười quan tiền , trả cho cha cô ư?”
Tích Thúy nghiến răng gật đầu: “Tôi… thực chẳng còn cách nào nữa, tôi không muốn xa Trương nhị ca, nhưng tôi cũng sợ huynh ấy biết quá khứ của mình… Tôi, tôi cứ ngỡ, dưới gầm trời này, chẳng ai chấp nhận nổi một kẻ nhơ nhuốc như tôi nữa…”
Đoạn nàng giơ đôi tay run rẩy lên che mặt, giọng càng lúc càng nhỏ đi: “Tôi tuyệt vọng rồi, tôi cứ tưởng có thể nhốt mình trong gian nhà đó suốt đời, đó là nơi nương náu cuối cùng của tôi… Nhưng cha tôi ép tôi, ông ấy muốn cắt đứt tia hy vọng cuối cùng của đời tôi… Về sau nghe thấy Trương nhị ca kể về bức tranh đó, biết được nó có lai lịch không tầm thường, tôi bèn… đánh cắp nó giao cho cha, nói rằng đây là ngự bút của tiên hoàng, rất đáng tiền, bảo ông ấy cầm lấy rồi đừng bao giờ đến tìm tôi nữa. Ông ấy không tin nên tôi đã đem nó đi cầm, quả nhiên được mười quan. Tôi đưa tiền cho cha, còn nói, từ nay về sau nhà họ Lữ không có con gái nữa, tôi là người nhà họ Trương…”
Đến đây nàng không kể tiếp được nữa, chỉ thổn thức không thôi, lâu thật lâu mới nghẹn ngào nói: “Xin lỗi Trương nhị ca… muội chính là tên trộm đánh cắp đồ gia bảo của nhà huynh…”
“Không, đừng nói là muội làm vậy vì muốn ở bên ta, dù muội đem tất cả đồ đạc trong nhà đi bán hay đi vứt, cũng chẳng sao cả.” Trương Hàng Anh dịu dàng cầm lấy tay nàng dỗ dành: “Cha ta bệnh nặng vừa đỡ, ta lại phải ra ngoài làm việc, trong nhà chỉ có một tay muội lo liệu, muội đã thành bà chủ từ lâu rồi! Bà chủ đem đồ đi cầm thì có gì sai chứ?”
Tích Thúy không ngờ Trương Hàng Anh lại nói thế, chỉ biết ngây ra nhìn gã, hai hàng nước mắt cứ thế lăn dài. Trương Hàng Anh nhẹ nhàng lau nước mắt cho nàng, đăm đăm nhìn nàng thật lâu, không giấu được vẻ buồn rầu: “A Địch, muội ngốc quá… giờ phải làm sao đây?”
“Rõ thật là, giờ thành ra thế này, chẳng phải gay go ư?” Chu Tử Tần thấy xung quanh không có ai khác, mới hạ giọng nói: “Có điều hai người đừng lo, lần này công chúa qua đời, đối với triều đình là bất hạnh, xong với Tích Thúy cô nương lại là may mắn… Thôi thiếu khanh là người sáng suốt, chỉ cần Tích Thúy kể rõ đầu đuôi câu chuyện với huynh ấy, chúng ta sẽ nhờ mấy vị vương gia nói đỡ cho, dẫu sao Chiêu vương và Ngạc vương cũng từng gặp hai vị, nếu chúng ta nài nỉ, chắc họ chẳng ngại ra mặt nói mấy câu đâu. Về phần hoàng thượng, ta thấy giờ đây cả thiên hạ chỉ mình Quỳ vương thuyết phục nổi thánh thượng thôi. Việc này đành nhờ Sùng Cổ vậy…”
Cả ba người đều đổ dồn mắt vào Hoàng Tử Hà, đầy hy vọng.
Hoàng Tử Hà thoáng do dự, rồi gật đầu đáp: “Tôi sẽ cố gắng.”
Trương Hàng Anh về nhà lấy chăn đệm và quần áo cho Tích Thúy, còn Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần rời khỏi Đại Lý Tự, vừa đi vừa thảo luận có phải Đồng Xương công chúa lúc ấy bị khống chế hay không, tại sao không kêu cứu. Chợt thấy Thôi Thuần Trạm cưỡi ngựa quay về, vừa nhảy xuống ngựa đã mừng rỡ reo lên với họ: “Tử Tần! Sùng Cổ! Hai người cũng ở đây à? Tốt quá rồi!”
Ngoài cổng Đại Lý Tự thắp đèn sáng choang, cây đuốc trong tay tên tùy tùng của Thôi Thuần Trạm cũng cháy rừng rực, càng soi rõ nét mặt hân hoan của Thôi thiếu khanh, khiến hai người đều lấy làm ngạc nhiên, vội đưa mắt nhìn nhau: cứ tưởng Thôi thiếu khanh sẽ phải âu sầu gần chết chứ nhỉ!
Trông thấy một thân hình béo phì bị lôi ra từ sau lưng Thôi Thuần Trạm, hai người lại càng kinh ngạc: gã trung niên lùn tịt tròn quay đang bị trói nghiến như đòn bánh tét kia chẳng phải Tiền Quan Sách hay sao?
Vừa trông thấy bọn họ, Tiền Quan Sách tức thì gọi toáng lên: “Chu thiếu gia! Dương công công! Hai vị nhất định phải làm chứng cho tôi! Tôi quả thực không giết người mà! Càng không thể nào giết công chúa được!”
Chu Tử Tần trợn tròn mắt kinh ngạc hỏi: “Thôi thiếu khanh, ông ta là hung thủ đấy ư?”
Thôi Thuần Trạm cười tít cả mắt, tự đắc đáp: “Đúng thế, hôm nay ta phụng mệnh hoàng thượng, lục soát phủ công chúa, vừa hay tóm được tên này lén lút lẻn vào gặp một đầu bếp trong phủ. Chúng ta bắt lại hỏi han thì hắn khai rằng mình tới tìm con gái, định lừa ai chứ!”
Chu Tử Tần nhìn theo Tiền Quan Sách bị lôi vào trong, ngạc nhiên hỏi: “Ô, con gái ông ta không phải thị nữ trong phủ công chúa sao?”
“Thì đúng, hắn luôn miệng nói con gái mình là thị nữ hầu hạ bên cạnh công chúa, còn nói mình đã gặp nhiều lần, gần đây thấy con gái không có tin tức gì nên mới lén lẻn vào phủ nghe ngóng.” Thôi Thuần Trạm dè bỉu, “Nói dối cũng không nên hồn, bảo hắn chỉ xem đâu là con gái thì hắn không chỉ được, lại kể rằng trên cổ tay con gái có một cái bớt hồng ngả xanh, kết quả chúng ta hỏi khắp người trong phủ từ trên xuống dưới, đừng nói không có thị nữ nào như vậy, mà kể cả hoạn quan, cũng chẳng ai có bớt trên tay.”
“Ồ, thế mà lần trước chúng tôi đến tiệm của ông ta điều tra, ông ta còn đưa ra vật chứng rõ ràng, con gái ông ta có biếu cha một con cóc vàng, toàn thân nạm đầy châu báu, ngồi trên một phiến lá sen bằng ngọc phỉ thúy, tinh xảo lắm!”
“Cóc vàng à?” Thôi Thuần Trạm sáng mắt lên, “Có phải trên phiến lá sen ấy còn có một giọt sương bằng pha lê, mỗi lần di động con cóc, giọt sương sẽ lăn tròn trên lá không?”
Chu Tử Tần gật đầu lia lịa: “Thôi thiếu khanh cũng thấy rồi à?”
“Dĩ nhiên! Ấy là cống phẩm của một quốc gia Tây Vực nào đó từ hai năm trước! Hôm ấy nhằm đúng mồng một Tết, các quần thần trên điện đều được chiêm ngưỡng, ai nấy trầm trồ không ngớt! Về sau, nó trở thành một trong những món hồi môn của Đồng Xương công chúa!” Nói đến đây, Thôi Thuần Trạm mững rỡ vỗ tay: “Ồ, có rồi, có cả động cơ gây án nữa chứ! Tiền Quan Sách mưu trộm cóc vàng, liên tiếp giết hại hoạn quan phủ công chúa, công chúa và tên Tôn ghẻ sống gần đó, tuy chưa rõ Tôn ghẻ dây dưa đến vụ này thế nào, nhưng ta tin rằng nếu dùng hình tra khảo, gã béo lùn đó ắt phải khai rõ ngọn ngành!”
Vừa nói, Thôi Thuần Trạm vừa xăm xăm đi thẳng vào đại sảnh Đại Lý Tự, luôn miệng sai bảo thuộc hạ: “Thắp đèn! Thăng đường! Bản quan muốn thẩm vấn trọng phạm ngay bây giờ!”
Chu Tử Tần líu cả lưỡi, quay lại nhìn Hoàng Tử Hà. Hoàng Tử Hà vội đuổi theo Thôi Thuần Trạm, không quên ném lại một câu: “Còn đợi gì nữa, mau đi theo xem Thôi thiếu khanh chuẩn bị thẩm vấn thế nào!”
Công đường Đại Lý Tự đèn đuốc sáng trưng, tam ban nha dịch, quan viên chấp pháp, bình sự, tự chính đứng hai bên, Đại Lý Tự thiếu khanh đích thân thẩm vấn, thanh thế rất rầm rộ.
Hai người được hoàng thượng khâm điểm tra xét vụ này là Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần ngồi bên cạnh xem thăng đường, thấy Tiền Quan Sách bị lôi ra, quỳ sụp xuống đất run cầm cập.
Hoàng Tử Hà hỏi nhỏ Chu Tử Tần: “Đại Lý Tự khanh hiện giờ là ai? Sao chẳng bao giờ thấy xuất hiện ở Đại Lý Tự vậy?”
Chu Tử Tần kinh ngạc nhìn cô: “Công công không biết ư?”
“Tôi làm sao biết được, trước đây lúc rời kinh thì Đại Lý Tự khanh là Từ công, xong về sau nghe nói Từ công đã qua đời…”
“Công công ngày ngày đều ở bên Đại Lý Tự khanh, thế mà không biết Đại Lý Tự khanh là ai à?” Chu Tử Tần hơi cao giọng.
Hoàng Tử Hà giơ ngón tay lên môi ra hiệu cho gã nhỏ tiếng, nhưng vừa động não, cô cũng buột miệng thốt lên: “Đại Lý Tự khanh là… Quỳ vương ư?”
“Chứ còn gì nữa! Công công không biết vương gia kiêm nhiệm bao nhiêu chức vị à?”
Lần này gã nói quá to, bèn bị mấy người bên cạnh liếc xéo, cả hai đành vờ như không biết, cúi đầu giở biên bản ghi chép lúc trước của Chu Tử Tần ra.
Thôi Thuần Trạm uy phong ngồi xuống ghế, đoạn trang trọng hỏi: “Kẻ quỳ dưới kia là ai?”
“Tiểu nhân… tiểu nhân Tiền Quan Sách, mở tiệm ngựa Tiền Ký trong kinh, bao năm nay làm ăn lương thiện, tuân thủ pháp luật… Tiểu nhân oan quá! Tiểu nhân không hề…”
“Bản quan hỏi gì ngươi hẵng đáp nấy!” Thôi Thuần Trạm đập bàn, đoạn cầm lấy bản câu hỏi mà tự chính đã ghi sẵn, lần lượt hỏi từng câu một: “Có phải gần đây tiệm ngựa của ngươi mở thêm dịch vụ nạo vét đường nước, còn qua lại với đám phu phen khơi thông cống rãnh ở bộ Công không?”
“Vâng…” Tiền Quan Sách chẳng hiểu mô tê gì, đành có sao khai vậy.
“Theo những gì Đại Lý Tự tra được thì gần nơi Đồng Xương công chúa xảy ra chuyện có một của cống, có phải sau khi ra tay ngươi đã ẩn náu dưới đó, hòng tránh khỏi sự truy lùng của sai nha không?”
Tiền Quan Sách sợ hết vía, cuống quýt gào toáng lên: “Không phải! Không phải không phải! Tiểu nhân không hề giết người! Tiểu nhân… tiểu nhân còn không biết công chúa đã qua đời nữa mà!”
“Theo điều tra thì lần đầu tiên ngươi vào phủ công chúa là năm ngoái, nhằm tu sửa đường nước trong phủ. Ngươi không rành về đường nước, sao lại thường xuyên chạy đến đó xem xét công việc?”
“Tiểu nhân… tiểu nhân nghe nói phủ công chúa xa hoa lộng lẫy, rắp tâm muốn chiêm ngưỡng để mở rộng tầm mắt, lại nghĩ công chúa thân phận tôn quý, chỉ e bọn thuộc hạ phạm sai sót, nên thường tới giám sát, chứ không có ý gì khác cả!” Tiền Quan Sách sợ đến nỗi ngồi bệt dưới đất, nhìn như một miếng mỡ lợn nhũn nhẽo trắng bệch.
“Nghe nói phủ công chúa xa hoa lộng lẫy ư? Thế nên ngươi mới nhắm tới những kỳ trân dị bảo trong phủ, còn thông đồng với hoạn quan Ngụy Hỷ Mẫn tuồn cóc vàng và trâm Cửu loan trong kho ra ngoài, phải không?”
“Chuyện này từ đâu ra vậy? Tiểu nhân và Ngụy Hỷ Mẫn mới gặp nhau một lần, con cóc vàng của tiểu nhân là con gái biếu, tiểu nhân chưa bao giờ thấy trâm Cửu loan…”
“Ngươi mới gặp Ngụy Hỷ Mẫn một lần, sao lại biếu hắn thứ quý giá như linh lăng hương? Về sau Ngụy Hỷ Mẫn từng đến tiệm của ngươi đòi thêm, rồi mất tích ngay trong hôm đó, sáng hôm sau thì chết tại chùa Tiến Phúc. Ngươi nói xem, có phải y tiếp tay cho ngươi lấy trộm cóc vàng rồi bị ngươi giết người diệt khẩu, bày kế thiêu chết không?”
Tiền Quan Sách lúc này đã ròng ròng nước mắt, rên hừ hừ trong họng, rối rít phân trần: “Không phải, không có… Linh lăng hương đó, là tôi tặng cho một đầu bếp…”
“Vậy tại sao tất cả đều nói là Ngụy Hỷ Mẫn sử dụng? Ả đầu bếp kia có phải một trong những tai mắt của ngươi tại phủ công chúa không?”
“Không phải! Không phải thật mà! Xương Bồ ở nhà bếp là người tốt, cô ấy đã giúp tôi tìm thấy con gái…”
“Ngươi cứ luôn miệng nói con gái mình ở trong phủ công chúa, nhưng tất cả người hầu kẻ hạ trong phủ, không ai có vết bớt trên cổ tay như ngươi miêu tả cả, ngươi làm sao chứng minh được hả?”
Tiền Quan Sách thẫn thờ quỳ dưới công đường, cơ thịt trên mặt giần giật. Trông dáng vẻ ấy, Hoàng Tử Hà vừa thương xót vừa buồn rầu, bất giác than thầm trong lòng, quay đi không nỡ nhìn thêm nữa.
“Nhưng…nhưng tiểu nhân đúng là đã gặp con gái mà! Nó đứng sau tấm bình phong, chìa tay cho tiểu nhân xem, trên cánh tay rành rành có một vết bớt màu hồng ngả xanh hình con thỏ, chẳng phải Hạnh nhi thì còn ai nữa? Tiểu nhân đã gặp con gái thực mà…”
Thôi Thuần Trạm đập bàn, cắt ngang tràng kể lể vừa như phân trần vừa như truy hỏi của họ Tiền: “Tiền Quan Sách! Bản quan hỏi ngươi, ngươi thông đồng với Ngụy Hỷ Mẫn đánh cắp báu vật trong phủ công chúa, sao còn sát hại công chúa? Hôm đó ở giữa đám đông, công chúa trông thấy trâm Cửu loan trong tay ngươi, sau đó ngươi ra tay với công chúa thế nào? Mau khai thực cho bản quan!”
Tiền Quan Sách sợ bạt vía, chỉ biết lắc đầu quầy quậy: “Không phải đâu! Không phải thật mà! Tiểu nhân không giết người, con gái tiểu nhân ở trong phủ công chúa…”
Bình sự Đại Lý Tự thở dài: “Chứng cứ rành rành mà phạm nhân vẫn cứng miệng không nhận, thưa thiếu khanh, xem ra không dùng đại hình thì hắn sẽ không nhận đâu!”
“Ừm, trước tiên lôi xuống đánh hai mươi trượng!” Thôi Thuần Trạm ra lệnh, đoạn rút một thẻ lệnh quăng xuống công đường.
Chu Tử Tần bật dậy lao đến toan bắt lấy thẻ lệnh. Tiếc rằng vẫn chậm một bước, thẻ lệnh rơi xuống đất, nha dịch tức thì tóm lấy Tiền Quan Sách kéo xuống dưới.
Chu Tử Tần lao quá nhanh, vô ý vấp phải chiếc ghế, ngã nhào xuống đất, làm ghế cũng đổ theo, các nha dịch đứng quanh đó đều tản ra, công đường bỗng chốc trở nên lộn xộn.
Thôi Thuần Trạm cau mày: “Tử Tần làm gì thế?”
“Thôi thiếu khanh.” Hoàng Tử Hà đứng dậy chắp tay hành lễ với hắn: “Tuy thiếu khanh đã xử lý vụ này, nhưng hoàng thượng từng phái nô tài cùng Tử Tần tham gia, nên có vài chuyện muốn bàn bạc qua với thiếu khanh, có thể tìm chỗ nào đó nói vài câu không?”
Thôi Thuần Trạm nghe thấy tiếng la thảm thiết của Tiền Quan Sách từ bên ngoài vọng vào, lại nhìn đám nha dịch tán loạn trên công đường, đáp: “Được thôi, chúng ta ra phía sau nói chuyện, để chúng nghỉ ngơi chỉnh đốn lại một lát.”
Ba người ra nhà sau ngồi xuống, đợi kẻ hầu dâng trà nước xong xuôi, Thôi Thuần Trạm liền hỏi: “Có chuyện gì vậy?”
Hoàng Tử Hà hỏi: “Thôi thiếu khanh thấy Tiền Quan Sách là hung thủ thật ư?”
Thôi Thuần Trạm nhíu mày: “Theo tình hình trước mắt, chẳng phải hắn là kẻ bị tình nghi nhiều nhất ư? Hắn tặng Ngụy Hỷ Mẫn loại hương liệu quý giá như vậy, Ngụy Hỷ Mẫn tới tìm hắn rồi mất tích ngay trong đêm, đến sáng hôm sau thì bị thiêu chết; tên Tôn ghẻ kia nhất định là đồng phạm, hoặc phát hiện ra tội ác của hắn lên bị giết, sau đó họ Tiền lại canh thời gian, bày ra trò say rượu tình cờ phá cửa xông vào phát hiện thi thể; còn nữa, hắn đã trộm được cóc vàng trong kho của phủ công chúa, ắt cũng có thể trộm trâm Cửu loan, mà cây trâm đó lại chính là hung khí sát hại công chúa, cạnh hiện trường có cửa cống ngầm, rất tiện cho hắn trốn thoát, nghe nói mấy ngày trước hắn còn tới đó đích thân đốc thúc người ta khơi thông dòng…”
Hoàng Tử Hà lại hỏi: “Cứ cho là Ngụy Hỷ Mẫn chết vì sự thông đồng cùng Tiền Quan Sách đánh cắp cóc vàng, sau đó bị Tiền Quan Sách giết người diệt khẩu, nhưng khi trâm Cửu loan biến mất, Ngụy Hỷ Mẫn đã chết rồi, Tiền Quan Sách không có nội ứng, làm sao ra tay được nữa?”
Thôi Thuần Trạm nhíu mày ngẫm nghĩ, hồi lâu mới nói: “Hay là ả đầu bếp mà hắn nhắc tới kia?”
Hoàng Tử Hà mệt mỏi lắc đầu: “Thôi thiếu khanh à, Ngụy Hỷ Mẫn là người hầu bên cạnh công chúa, may ra còn có cơ hội ăn cắp, chứ đầu bếp cả ngày loay hoay trong nhà bếp, đến lên gác Thê Vẫn còn chẳng có dịp, huống hồ là đánh cắp cây trâm?”
“Nhưng công công không thể phủ nhận, tên Tiền Quan Sách kia có liên quan mật thiết đến vụ này, hơn nữa còn dính líu rất sâu với cả ba vụ… Ồ, quên mất! Con ngựa xảy ra chuyện của phò mã, cũng là hắn bán cho Tả Kim Ngô Vệ! Công công bảo một người bị tình nghi nhiều như thế, còn có thể trong sạch ư?” Thôi Thuần Trạm thở dài, ghé lại gần bọn họ nói khẽ, “Huống hồ công công cũng biết hoàng thượng yêu nhất Đồng Xương công chúa, nâng niu như báu vật vậy. Giờ công chúa qua đời, đừng nói là tam pháp ty: Đại Lý Tự, Hình bộ và Ngự Sử Đài, ngay kinh thành chư vệ, hai nha môn, mười đạo quân cũng đừng hòng thoát khỏi trách nhiệm. Đã có mấy thái y bị đánh chết ngay tại chỗ, nghe nói hoàng thượng còn định trị tội đến cả dòng tộc nhà bọn họ mấy trăm người, công công bảo, công chúa bị hung thủ đâm một nhát mà chết, các thái y có tội tình gì đâu? Giờ còn không mau bắt lấy thủ phạm giao cho hoàng thượng thì nha môn nào gánh nổi cơn lôi đình này?”
Hoàng Tử Hà cau mày. Chu Tử Tần vội hỏi: “Vậy thiếu khanh thấy, Lữ Tích Thúy và Tiền Quan Sách ai đáng nghi hơn?”
“Tử Tần khéo đùa, so với Tiền Quan Sách, chút hiềm nghi của Lữ Tích Thúy thực chẳng đáng nhắc tới. Nếu không phải cô ta tự đến đầu thú, còn ký vào bản án, thì bây giờ có thể phóng thích rồi!”
Chu Tử Tần cả mừng, lại nói: “Thôi thiếu khanh, thực ra tôi cũng thấy vụ án này của ông chủ Tiền nên thận trọng một chút vẫn hơn, huynh bảo có phải không? Dù gì cũng liên quan đến mạng người mà…”
Thôi Thuần Trạm lộ vẻ khó xử, nhưng vẫn miễn cưỡng gật đầu: “Công tử yên tâm, ta dẫu sao cũng là thiếu khanh Đại Lý Tự, lúc nào nên thận trọng, ta vẫn sẽ…”
Chưa dứt câu, đằng sau lại có người chạy vào bẩm: “Thiếu khanh, Thôi thiếu khanh!”
Thôi Thuần Trạm nhíu mày, nhìn viên quan thừa mừng rỡ chạy vào, hỏi: “Sao thế?”
“Vừa nhận được tin, bên dưới nhà Tôn ghẻ cũng có một đường cống chạy qua!”
“Ô? Thật à?” Thôi Thuần Trạm mừng rỡ đứng phắt dậy: “Tiền Quan Sách có biết đường cống này không?”
“Dạ biết! Mấy hôm trước khi xảy ra vụ án, trong kinh khơi thông cống rãnh, mấy tên phu phen dưới trướng Tiền Quan Sách đã tới tu sửa chỗ này, họ Tiền còn đến tận nơi đốc thúc!”
“Đúng là lưới trời lồng lộng thưa mà khó lọt, lại thêm một chứng cứ nữa rồi!” Thôi Thuần Trạm đắc ý ngoái nhìn Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần, “Các vị xem, tên Tiền Quan Sách kia rõ ràng là hung thủ giết người! Hắn theo đường cống lẻn vào gian phòng kín như bưng của Tôn ghẻ giết người, rồi lẳng lặng theo đường cống chuồn mất. Sau đó lại tụ tập mọi người cùng phá cửa xông vào, ngụy tạo chứng cứ ngoại phạm cho mình!”
Chu Tử Tần cau mày: “Thôi đại nhân, lúc Tôn ghẻ vừa chết, tôi từng đến hiện trường, thấy nền nhà rất bằng phẳng, không có dấu hiệu đột nhập từ bên dưới…”
Thôi Thuần Trạm nghe vậy thì nhíu mày, nhưng chỉ thoáng sau đã hăng hái phản bác: “Ồ, thế nên hắn mới lôi kéo bấy nhiêu người cùng tới chứng kiến cái chết của Tôn ghẻ! Người đông như thế, chẳng phải sẽ giẫm phẳng nền nhà vừa bị xới tung, xóa sạch chứng cứ hay sao? Tâm tư kẻ này kín kẽ như thế, đúng là giảo hoạt tột bậc!”
“Nhưng… vẫn còn nghi vấn mà…” Chu Tử Tần đang định nói tiếp thì Thôi Thuần Trạm giơ tay ngăn lại, đi thẳng ra công đường: “Tử Tuần, Dương công công, vụ này ta đã nắm chắc trong tay, hai người khỏi cần nhọc lòng nữa, cứ giao cho ta là được, sáng mai ta sẽ tra xét tường tận vụ này!”
Về đến Quỳ phủ thì đã khuya, nhưng Hoàng Tử Hà vẫn tới chỗ Lý Thư Bạch, thuật lại đầu đuôi mọi chuyện hôm nay ở Đại Lý Tự.
Lý Thư Bạch nghe xong phì cười: “Mai ta sẽ đi hỏi Thôi Thuần Trạm xem, phạm nhân kia giảo hoạt kín kẽ như thế, sao còn đem con cóc vàng đánh cắp ở phủ công chúa ra khoe với người của quan phủ?”
“Nhưng hoàng thượng rất quan tâm đến vụ này, nếu có thể kết án thật nhanh thì các nha môn mới yên thân được. Theo đó, tìm ngay một kẻ thế tội, hơn nữa còn tập hợp được tất cả những điểm khả nghi, cũng là lựa chọn thường thấy của quan phủ thôi.” Hoàng Tử Hà nhíu mày.
Lý Thư Bạch trầm ngâm, hồi lâu mới nói: “Hơn nữa, nếu sớm ngày kết án, ngươi cũng có thể sớm lên đường theo ta về Thục, đây cũng là một lựa chọn không tệ đối với ngươi. Suy cho cùng, có những chứng cứ sẽ tiêu tán theo thời gian, ngươi muốn rửa sạch oan khuất cho mình thì nên nhanh nhanh là hơn.”
“Lẽ nào vương gia cho rằng, đẩy Tiền Quan Sách ra làm kẻ thế tội trong vụ này, là kết quả hay nhất ư?”
“Đương nhiên là không.” Lý Thư Bạch khẽ búng vào chiếc bình lưu ly đựng con cá nhỏ, “Theo ta thấy, kết quả hay nhất là tìm một kẻ gian ác không cha không mẹ không con không cái. Dưới gầm trời này rất nhiều những kẻ như thế, tiếc rằng hoàng thượng lại không tin, đúng không nào?”
Hoàng Tử Hà nói khẽ: “Tiền Quan Sách… tuy tham lam hèn nhát, nhưng không phải kẻ ác.”
“Nhưng biết làm sao được? Dù gì ngươi cũng phải tìm được một người để báo cáo với hoàng thượng. Ta và ngươi đều rõ, trong vụ án này, ba nạn nhân lần lượt là Ngụy Hỷ Mẫn, Tôn ghẻ và công chúa, có nam có nữ, có người sang kẻ hèn, nhưng tất cả đều liên quan đến việc Lữ Tích Thúy bị lăng nhục. Bởi vậy kẻ bị tình nghi nhiều nhất là ba người Lữ Tích Thúy, Trương Hàng Anh và Lưc Chí Nguyên.” Lý Thư Bạch nói thẳng, “Bất kể là lừa mình dối người hay là sẵn có cảm tình, thì ngươi cũng buộc phải thừa nhận, kẻ đáng nghi nhất chính là Trương Hàng Anh.”
Tâm sự vẫn đè nén trong lòng bị y nói toạc ra, khiến Hoàng Tử Hà không biết phải phản bác thế nào. Hồi lâu, cô mới gật đầu thừa nhận: “Nô tài biết.”
Lý Thư Bạch dời mắt khỏi con cá nhỏ nhìn sang cô, nheo nheo cặp mắt sắc sảo: “Nếu hung thủ thực sự là gã, ta lại rất tán thưởng. Bất kể kẻ nào ở vào lập trường của gã, đều không thể khoanh tay đứng nhìn được. Khác chăng là có kẻ dám nghĩ mà không dám làm, có kẻ lại làm mà không kín kẽ đấy thôi. Nếu ba vụ này đều do Trương Hàng Anh gây ra thì ta phải nhìn gã bằng con mắt khác rồi.”
Nhìn vẻ tán thưởng không hề giấu diếm của y, Hoàng Tử Hà khẽ hỏi: “Vậy nếu Trương Hàng Anh thực sự là thủ phạm, gia có giữ được tính mạng cho huynh ấy không?”
Lý Thư Bạch nhíu mày: “Trước cái chết của Đồng Xương công chúa thì còn có thể. Nhưng với tình hình bây giờ thì cũng khó nói lắm.”
Hoàng Tử Hà gật đầu: “Từ xưa đến nay, giết người thì đền mạng.”
Lý Thư Bạch lại nói: “Nếu vụ này được tiến hành dựa theo ba hình vẽ kia, thì giờ đã đủ ba nạn nhân rồi, ngươi sắp xếp lại tất cả manh mối cho ta xem.”
Hoàng Tử Hà gật đầu, đoạn khoanh chân ngồi xuống chiếc bàn thấp phía sau, nghĩ ngợi giây lát rồi trải giấy cầm bút thong thả viết ra. Cô vốn tập theo thư pháp của Vệ phu nhân(*), nét chữ như thiếu nữ cài hoa, thanh tú tao nhã, tốc độ viết lại nhanh, chẳng bao lâu đã viết xong trình lên.
(*) Vệ phu nhân tên là Thược, tự Mậu Ỷ, là một nữ thư pháp gia thời Đông Tấn (năm 266-420). Chữ của bà nhàn nhã mỹ lệ, đậm nhạt hài hòa, được Đường nhân thư bình tán tụng rằng: “Như thiếu nữ cài hoa, khuôn mặt khi ngẩng khi nghiêng, như mỹ nữ lên đài, dáng tiên chập chờn biến ảo, sen hồng chiếu nước, mây nổi biển xanh.” Bà từng là thầy dạy Vương Hy Chi, nhà thư pháp nổi tiếng Trung Quốc.
Một, cái chết của Ngụy Hỷ Mẫn: Trời giáng sấm sét, sao lại đánh trúng cây nến, rồi thiêu chết một hoạn quan thấp bé giữa cả đám đông? Nếu đúng là do người làm, thì hung thủ điều khiển sấm sét bằng cách nào? Sợi dây sắt và thủy ngân trong hồ cá từ đâu mà ra, có liên quan đến vụ án không?
Hai, phò mã ngã ngựa tại sân kích cúc: Có phải có người nhúng tay vào hay không? Nếu đúng, thì có phải nhằm vào phò mã không? Làm sao để khiến phò mã chọn đúng con ngựa đó, sau đó ra tay với nó?
Ba, cái chết của Tôn ghẻ: Lản vào căn nhà kín bưng đó bằng cách nào? Tại sao trong gian nhà nghèo nàn như vậy lại thoang thoảng mùi linh lăng hương? Hung thủ đột nhập và trốn thoát theo đường nào?
Bốn, cái chết của công chúa: Tại sao giữa vòng vây canh gác nghiêm mật như vậy mà trâm Cửu loan vẫn bị đánh cắp? Công chúa bị lôi ra khỏi đám đông, xong hẳn phải biết mình đang ở rất gần phố xá, tại sao không hét lên gọi người hầu?
Ghi chú: Cái chết của Đậu Khấu trong phủ công chúa, bức tranh ở nhà họ Trương và phủ Ngạc vương, ắt có liên quan mật thiết đến vụ này.
Lý Thư Bạch xem xong gật đầu nhận xét: “Viết vội quá, chữ ‘lẻn’ viết nhầm thành ‘lản’ rồi kìa.”
Hoàng Tử Hà cuống lên, vội săm soi tờ giấy tìm chữ viết sai.
Lý Thư Bạch chẳng buồn ngẩng lên, thản nhiên nói: “Chữ thứ bảy hàng thứ tám.”
Hoàng Tử Hà thán phục: “Trí nhớ của gia tốt quá, nhìn thoáng qua cái gì là nhớ mãi không quên.”
“Cũng tàm tạm.” Y thuận miệng bổ sung, “Hoặc có thể nói, tổng cộng ngươi đã viết hai trăm ba mươi lăm chữ, nhầm mất chữ thứ một trăm mười tám.”
Hoàng Tử Hà không dám tin vào tai mình, bèn rút nửa nắm que tính cắm trong ống quăng ra bàn hỏi: “Vương gia bảo trong ống còn bao nhiêu que?”
Y liếc qua, đáp ngay: “Bốn mươi bảy.”
Hoàng Tử Hà đếm, quả nhiên là bốn mươi bảy.
Cô ngẩng lên nhìn y: “Nô tài có một câu muốn hỏi?”
Y không đáp, chỉ ngước nhìn cô.
“Hôm đó trong chùa Tiến Phúc có cả thảy bao nhiêu người?”
“Không đếm.” Ánh mắt y hiện rõ hai chữ “nhàm chán”.
“Nhưng bấy giờ gia cũng ở đó, với con mắt của gia, nhất định sẽ có ấn tượng với tất cả những người xuất hiện trước mặt mình, đúng không nào?”
“Ừm.”
“Vậy mà khi Ngụy Hỷ Mẫn chết, gia lại nói lúc trước mình không hề thấy y.”
Lý Thư Bạch hồi tưởng lại rồi gật đầu: “Có lẽ vì y thấp bé nên bị người bên cạnh che khuất.”
“Xong hai người chứng kiến tận mắt là Trương Hàng Anh và Lữ Tích Thúy đều nói, trước khi ngọn lửa bùng lên, họ cũng không hề thấy Ngụy Hỷ Mẫn.” Hoàng Tử Hà trầm ngâm nghĩ ngợi, ánh mắt sáng dần lên, “Ngụy Hỷ Mẫn là kẻ thù của họ, hơn nữa còn mặc y phục hoạn quan đỏ chói, nhìn rất nổi bật, chí đứng cách họ có mấy thước, đáng lẽ họ phải thấy ngay mới đúng.”
Thấy mắt cô sáng rực lên, Lý Thư Bạch hỏi lại: “Nói vậy là ngươi đã lần ra manh mối rồi ư?”
“Vâng, có lẽ nô tài đã tìm ra điểm mấu chốt trong vụ chết thiêu ở chùa Tiến Phúc.” Cô tươi cười gõ ngón tay lên vụ thứ hai, phò mã ngã ngựa: “Nhờ thế, cũng lờ mờ cảm nhận được nguyên do vụ này rồi.”
Lý Thư Bạch nhìn theo ngón tay cô: “Ngươi biết hung thủ thừa cơ ra tay vào lúc nào rồi ư?”
“Tôi thấy vụ án này hễ có động cơ thì chẳng cần quan tâm đến phương thức hạ thủ nữa.” Cô nghiêm trang nhìn y, “Gia có nhớ nô tài từng kể, tháng Hai đậu khấu mới đơm hoa không?”
Lý Thư Bạch hiểu điều cô ám chỉ, trầm ngâm giây lát rồi nhíu mày: “Hoàng gia đối với hắn không bạc, mới ngoài hai mươi đã là Quang Lộc đại phu, nhìn khắp triều đình có ai được vẻ vang như thế.”
“Nhưng dù ở ngôi cao, lòng vẫn không yên được, phải không nào?” Cô hỏi khẽ.
Lý Thư Bạch nghĩ ngợi, đoạn đứng dậy.
“Ngày mai ta với ngươi đến phủ công chúa một chuyến…”
“Ngày mai xin gia dẫn nô tài đến phủ công chúa…”
Hai người đồng thời nói cùng một ý.
Hoàng Tử Hà ngẩn người, rồi bất giác nhoẻn cười. Ánh mắt Lý Thư Bạch dừng trên gương mặt cô giây lát rồi lẳng lặng nhìn lảng đi, không nói một lời.

Q.2 – Chương 19: Hồi 17:hương Tan Ngọc Nát

Sáng hôm sau khi họ tới, cả phủ công chúa đã chìm trong bầu không khí nghiêm trang và đau buồn.
Đám người dưới đang gỡ hết trướng lụa xuống, treo màn trướng trắng lên; Vi Bảo Hoành cũng đổi từ áo gấm thêu sang áo xô trắng. Trong gác đặt thi thể công chúa bày đầy đá lạnh để giữ cho cái xác khỏi thối rữa, nhưng giờ đang mùa hạ, e rằng cũng không giữ được lâu.
Vi Bảo Hoành ra tận cửa đón Quỳ vương, rân rấn nước mắt thưa: “Hàn quốc phu nhân nói, năm ngoái đã đặt sẵn một cỗ quách bằng gỗ nam mộc khảm tơ vàng, xin nhường để khâm liệm cho công chúa. Người trong phủ đang đi lấy về, bằng không thời tiết nóng nực thế này, chỉ e…”
Hoàng Tử Hà chăm chú nhìn thi thể Đồng Xương công chúa nằm đó. Nàng đã thay sang áo gấm đỏ tía thêu chim trĩ, búi tóc cài cây trâm Cửu loan đã được gắn lại, phục sức chỉnh tề, má hồng môi đỏ, nét đẹp sắc sảo mong manh còn mặn mà hơn trước.
Hoàng Tử Hà khẽ hỏi: “Đã ai kiểm nghiệm tử thi chưa?”
“Chưa, hoàng thượng đau lòng như thế, ai dám nhắc đến chuyện đó nữa?” Vi Bảo Hoàng nhìn thi thể Đồng Xương công chúa, nước mắt lại lăn dài.
Hoàng Tử Hà hỏi: “Có thể để nô tài kiểm tra sơ qua một lượt không?”
“Công công được hoàng thượng chỉ định điều tra vụ này, nhất định phải xem rồi.” Vi Bảo Hoành gật đầu.
Hoàng Tử Hà tạ tội với hắn rồi bước đến cạnh Đồng Xương công chúa, Lý Thư Bạch và Vi Bảo Hoành tạm lánh ra ngoài. Cô nhẹ nhàng cởi y phục công chúa ra, quan sát kỹ vết thương trước ngực.
Vết thương đã được rửa sạch, cơ thịt co lại làm miệng vết thương càng thêm nhỏ. Chỉ thấy một lỗ máu sâu hoắm gọn ghẽ, hung thủ đâm một nhát trúng tim khiến công chúa chết ngay tức khắc.
Lúc họ chạy đến nơi thì công chúa vừa bị đâm, hung thủ đang bỏ trốn. Nhưng trước đó công chúa đã bị bắt giữ đến nửa tuần hương, ở đó lại đông như thế, tại sao không kêu cứu? Trong khoảng thời gian ấy, công chúa và hung thủ đã làm gì?
Cô kiểm tra kỹ một lượt, xác định không còn vết thương nào khác, mới mặc lại y phục cho công chúa rồi bước ra khỏi phòng.
Vi Bảo Hoành hỏi ngay: “Thế nào rồi?”
“Không có gì khác thường cả, quả là bị đâm trúng tim mà chết, vết thương khá nhỏ, trùng khớp với kích thước trâm Cửu loan.” Nói đoạn, cô đưa mắt nhìn Quỳ vương.
Lý Thư Bạch hiểu ý, liền bảo: “A Vi, ta còn một việc muốn hỏi phò mã.”
Vi Bảo Hoành gật đầu, dẫn bọn họ đến vườn Túc Vi.
Ngang qua vườn Tri Cẩm, Hoàng Tử Hà chợt dừng bước: “Mạn phép hỏi phò mã, có thể cho chúng tôi vào trong xem xét được không?”
Nhìn hai cánh cửa khép chặt, nét mặt Vi Bảo Hoành thoáng vẻ kinh ngạc cùng đau xót, hắn lắc đầu: “Công chúa đã cho người phong tỏa vườn này lại, nói là bên trong có ma quỷ tác quái, phải mất mười năm mới thanh trừ được…”
“Nhưng giờ công chúa đã qua đời rồi mà?” Hoàng Tử Hà nhìn con dấu của Đồng Xương công chúa in trên giấy niêm phong dán ngoài cửa, phản bác.
“… Chỉ là mảnh vườn bỏ hoang lâu ngày thôi mà, lại nghe đồn có ma, ta thấy…” Vi Bảo Hoành nhìn Lý Thư Bạch, nào ngờ y lại tán đồng với Hoàng Tử Hà: “Đứng ngoài này cũng thấy chuối cao vượt tường, nghe được tiếng nước chảy róc rách, ta nghĩ bên trong hẳn là đẹp lắm, muốn vào xem sao.”
Vi Bảo Hoành không còn lời nào để nói, đành bảo người hầu đi lấy chìa khóa. Chẳng mấy chốc, cửa vườn đã được mở.
Vườn Tri Cẩm quả là nơi để tránh nóng, vừa mở cửa ra đã thấy hơi mát phả vào mặt. Bên trong rợp những chuối, dòng nước uốn lượn bao lấy ngôi đình nhỏ giữa vườn, dưới nước trồng đầy xương bồ và hoa súng. Vì bỏ hoang đã lâu nên hai bên bờ cỏ mọc xanh um, mặt nước đầy bèo, không gian xanh ngắt mà yên tĩnh.
“Khu vườn đẹp thế này, bỏ không thì tiếc quá.” Lý Thư Bạch tấm tắc rồi xăm xăm đi vào. Vi Bảo Hoành thoáng chần chừ, xong vẫn theo sau.
Đi đến bên hồ, Lý Thư Bạch ngoái lại hỏi Vi Bảo Hoành: “Sao Đồng Xương lại phong tỏa khu vườn này?”
“Mấy tháng trước… có người sẩy chân rơi xuống nước, chết đuối ở đây.”
“Là thị nữ trong vườn ư?”
“Vâng…” Hắn thẫn thờ nhìn ra mặt hồ.
“Người trong cung à?”
Thấy y cứ chăm chắm hỏi chuyện này, Vi Bảo Hoành biết không thể lảng tránh được, đành đáp: “Thưa không, là thị nữ ở nhà con đưa đến, hầu hạ con từ nhỏ, tên… Đậu Khấu.”
“Nghe nói bức tranh đậu khấu của phò mã vẽ rất đẹp.”
“Thưa vâng, Đậu Khấu cùng con lớn lên, tình cảm… như mẹ như chị vậy.”
Lý Thư Bạch nhìn gió thổi dạt đám bèo trên hồ, lộ ra mặt nước nông, trông thấy đáy, trầm ngâm hỏi: “Ả luôn hầu hạ bên cạnh phò mã, sao tự dưng lại chết đuối ở đây?”
Vi Bảo Hoành cắn môi, hồi lâu mới đáp: “Người trong phủ nói, Đậu Khấu bị ma quỷ trong vườn mê hoặc, dẫn dụ đến đây…”
“Ngươi biết rõ là không phải vậy mà.” Lý Thư Bạch lắc đầu, “Công chúa đã qua đời, ngươi muốn tránh tị hiềm cho người đã khuất, ta rất hiểu. Xong chuyện đã đến nước này, hoàng thượng lại sai Dương Sùng Cổ tra xét, có một chuyện, chúng ta buộc phải hỏi rõ, mong phò mã bỏ quá cho.”
Vi Bảo Hoành biến sắc: “Nhưng… đến giờ con vẫn không biết Đậu Khấu làm sao mà chết.”
“Nhưng phò mã biết hung thủ là ai, đúng không nào?” Hoàng Tử Hà chen vào.
Vi Bảo Hoành đột ngột bị vạch trần, loạng choạng lùi lại, sững sờ nhìn cô, không nói được nửa lời.
“Vi phò mã, để báo thù cho Đậu Khấu, phò mã đã bày ra vở kịch này, khiến mọi người đều đổ dồn mắt vào phủ công chúa, đến giờ xem ra, phò mã thành công rồi đấy.” Nhìn vẻ mặt kinh ngạc của hắn, Hoàng Tử Hà thở dài: “Nô tài vốn dĩ cũng không ngờ, nhưng mọi chuyện quả là trùng hợp, đến giờ đã có ba nạn nhân, hơn nữa ba vụ án mạng này dường như đều là trời phạt, lại lần lượt được thực hiện theo bức tranh của tiên hoàng, ba hình vẽ, ba người chết, chẳng khác nào cục diện được định sẵn từ mười năm trước.”
“Trời phạt ư…” Vi Bảo Hoành lẩm bẩm.
“Đúng thế, ba vụ án này thoạt nhìn không thể đoán được thủ pháp gây án, cách giải thích hay nhất là trời phạt hoặc bị nguyền rủa theo bức tranh của tiên hoàng. Nhưng trong tranh không có việc phò mã bị ngã ngựa. Bởi vậy, tuy việc phò mã bị thương khiến công chúa lo lắng không yên, cũng khiến hoàng thượng phải hạ lệnh cho chúng tôi để mắt tới phủ công chúa, tập trung điều tra mấy vụ án liên quan tới quý phủ, nhưng sau khi tra xét và so sánh, nô tài cảm thấy vụ án của phò mã gia không liên quan gì đến chuỗi án mạng này.”
Vi Bảo Hoành im lặng nhìn cô, không giải thích, cũng không thừa nhận.
“Thứ nhất, vụ việc của phò mã gia không hề xuất hiện trong tranh, chứng tỏ ban đầu hung thủ không tính đến phò mã. Thứ hai, ngã ngựa tuy nguy hiểm, nhưng đa phần chỉ thương tích chứ ít người tử vong, huống hồ phò mã gia chỉ bị thương nhẹ, không giống với thủ pháp chuẩn xác ác độc của hung thủ, rõ ràng không phải do cùng một người ra tay. Còn thứ ba…”
Hoàng Tử Hà nhìn thẳng vào Vi Bảo Hoành, thở dài: “Phò mã gia không trực tiếp can dự vào bi kịch của Lữ Tích Thúy, xét về điểm này thì phò mã gia là kẻ vô tội, không lý nào lại bị cuốn vào.”
Vi Bảo Hoành nhếch môi nhìn cô, hồi lâu mới hỏi: “Sao ngươi lại cho rằng, vụ tai nạn ở sân kích cúc hôm đó là do ta bày ra?”
“Nhìn bề ngoài thì vụ tai nạn đó rất khó có người nhúng vào được. Dẫu sao cũng là do phò mã gia đích thân chọn ngựa, có xảy ra bất trắc thì chỉ là trùng hợp, hoặc có người tiến hành phá rối không nhằm vào ai cả, phò mã xui xẻo gặp phải mà thôi. Nhưng có một người, bất luận phò mã chọn thớt ngựa nào, cũng có thể gây ra một vụ tại nạn không lớn không nhỏ, hơn nữa phò mã vẫn kịp thời phòng bị và khống chế được, có phải không?” Hoàng Tử Hà nhìn xoáy vào hắn, nói rành rọt từng tiếng một, “Người đó, chính là phò mã.”
Vi Bảo Hoành cụp mắt xuống tránh ánh mắt cô, quay đầu nhìn ra những bông súng lác đác trên mặt hồ: “Chứng cứ đâu?”
“Chứng cứ chính là chiếc móng sắt kia. Cây đinh trên đó mới bị nạy ra, vì nếu hung thủ ra tay trước trận đấu thì dấu vết chỗ cây đinh hẳn đã có gỉ sét hoặc bám bụi. Mà trong trận kích cúc, lúc ngựa của phò mã chạy đương nhiên người khác không thể ra tay, duy chỉ lúc nghỉ là có cơ hội, thì cả bầy ngựa lại bị Địch Ác của Quỳ vương uy hiếp, co cụm vào một góc, ngay đến người cho ngựa ăn uống còn không tiếp cận nổi, vô tình những người khác lại được tẩy sạch hiềm nghi.”
Vi Bảo Hoành gắng gượng nhếch môi cười nhưng trông rất khó coi, vặn lại: “Nói vậy chẳng lẽ công công trông thấy Vi mỗ ra tay ư?”
“Phò mã cần gì phải chính tay làm. Bấy giờ trong tay phò mã còn có cây gậy đánh cầu kia mà. Người trong kinh đều biết phò mã điều khiển gậy rất thành thục, cưỡi ngựa cũng cực giỏi, chỉ cần nhằm đúng lúc mọi người trong ngoài sân reo hò cổ vũ, đổ dồn mắt vào trái cầu, tiếng hoan hô át hết mọi âm thanh, phò mã thừa cơ ngựa cất vó hí dài thì dùng cây gậy đánh vào vó phải phía trước của ngựa, làm phần móng trước vênh lên, đinh sắt long ra, móng cũng hở ra, hễ ngựa chạy là sẽ ngã quỵ gãy chân, khiến người khác lầm tưởng rằng phò mã bị hãm hại.”
Vi Bảo Hoành vẫn chăm chú ngắm mấy bông súng buồn rũ trên hồ, giọng mơ màng lơ đãng: “Dương công công nói xem, tại sao Vi Bảo Hoành mỗ phải cố ý làm mình bị thương?”
“Vì Đậu Khấu, phải không nào?” Hoàng Tử Hà đứng phía sau hắn, giọng bình thản: “Sau khi nghe Xương Bồ kể về Đậu Khấu, nô tài đã lưu ý tới một điểm: một thị nữ ở vườn Túc Vi Bảo Hoành lại chết đuối tại vườn Tri Cẩm, cách đó khá xa, hơn nữa sau khi qua đời, người trong phủ chẳng ai phản ứng gì, chỉ riêng công chúa ngụ tại gác Thê Vân, nằm ở tuốt đầu kia phủ, nói là nửa đêm trong vườn có tiếng thở than khóc lóc, sai người phong tỏa vườn Tri Cẩm lại.”
Cô hướng mắt ra hồ như Vi Bảo Hoành, giọng nhỏ hẳn: “Hơn nữa hồ nước nông đến nỗi không trồng sen nổi phải trồng súng, muốn chết đuối dưới hồ cũng khó lắm.”
“Bởi vậy mọi người đều nói Đậu Khấu bị ma quỷ mê hoặc kéo xuống nước.” Rốt cuộc Vi Bảo Hoành cũng lên tiếng, giọng nói không giấu được vẻ mệt mỏi và đau xót, “Nhưng ta biết là không phải. Tiếc rằng ta chẳng có cách nào… Ta là đồ vô dụng, cả người mình thích cũng không bảo vệ nổi…”
Hoàng Tử Hà cụp mắt xuống, lặng thinh không nói.
“Từ nhỏ Vi mỗ đã chẳng có chí hướng, lớn lên cũng chẳng tài hoa xuất chúng, chỉ giỏi mỗi đánh mã cầu. Đậu Khấu lớn hơn ta mười tuổi thường khuyên rằng, ta viết chữ trông cũng tạm được, nên luyện viết chữ thêm. Thế là ta cố gắng luyện suốt ba tháng, chỉ viết hai chữ Đậu Khấu, đúng là viết đẹp hẳn ra…” Nét mặt Vi Bảo Hoành thoáng tươi lên, hắn trân trân nhìn vào hư không, vẻ nâng niu pha tiếc nuối, như đang thấy lại chính mình thời niên thiếu vô tri: “Năm ta tám tuổi, cha từng nhắc đến việc gả Đậu Khấu đi, ta bèn lăn ra đất giãy giụa khóc lóc, tuyệt thực suốt ba ngày, cuối cùng cha mẹ đành phải nhượng bộ. Ta cứ thế chiếm hữu hơn hai mươi năm thanh xuân của Đậu Khấu, giờ nghĩ lại thì, nếu năm đó Đậu Khấu được gả chồng, nhất định… sẽ hạnh phúc hơn ở bên ta…”
Lý Thư Bạch nhíu mày cắt lời: “Vậy mà ngươi còn cưới Đồng Xương công chúa, chẳng phải làm lỡ dở người ta ư?”
“Con biết làm sao được? Con chỉ chơi một trận kích cúc, thấy một nữ tử đứng ngoài sân nhìn mình chằm chằm, bèn vung gậy cười với cô ấy, nào ngờ mấy hôm sau trong cung hạ chỉ, nói hoàng thượng muốn gả Đồng Xương công chúa cho mình. Bấy giờ con còn không vào nổi Hàn Lâm Viện, vậy mà chỉ vẻn vẹn một năm đã thành Quang Lộc đại phu!” Vi Bảo Hoành hỏi ngược lại ngay, như đang phân trần: “Quỳ vương gia, có lẽ gia vừa ra đời đã có chức vị tiền đồ nên không để tâm, chứ với người bình thường, chỉ cần cưới một cô vợ mà có ngay tiền đồ gấm vóc, thậm chí vài ba năm là làm đến tể tướng, ai cự tuyệt nổi một chuyện như thế?”
“Nhưng phò mã muốn nhiều thứ quá.” Lý Thư Bạch chậm rãi lắc đầu, “Ngươi đưa Đậu Khấu đến phủ công chúa, thì đặt công chúa vào đâu? Huống hồ người biết rõ công chúa không đời nào chịu cảnh chồng chung, vậy mà còn bắt Đậu Khấu mạo hiểm, thì để Đậu Khấu vào chỗ nào?”
“Phải… cha mẹ con cũng nói vậy. Nhưng con… con không thể xa Đậu Khấu được. Lúc công chúa phát hiện ra, con đã quỳ sụp xuống đất nài nỉ, xin nàng tha cho Đậu Khấu, nàng cũng đã nhận lời, nhưng quay đi quay lại, Đậu Khấu lại chết ở đây… Hồ nước này nông như thế, dù Đậu Khấu có sẩy chân ngã xuống, cũng làm sao chết được? Chỉ có khả năng duy nhất là bị người ta dìm đầu xuống nước, ngạt thở mà chết thôi…”
Nói đến đây, Vi Bảo Hoành thẫn thờ nhìn đám cỏ xanh um bên bờ nước, giọng nghẹn lại, hơi thở nặng nề, không kể tiếp được nữa.
Hoàng Tử Hà cũng cảm thấy lòng ngổn ngang trăm mối, chẳng biết nên đồng cảm với tình cảm của hắn dành cho Đậu Khấu, hay nên căm ghét trước sự đê hèn của hắn đối với công chúa.
Chợt cô nghe thấy tiếng Lý Thư Bạch, xưa nay y luôn bình thản, vậy mà lúc này giọng nói cũng đượm phần lạnh lẽo: “Vi phò mã, ngươi biết rõ công chúa bị bệnh tim từ nhỏ, sau khi Ngụy Hỷ Mẫn chết thảm, công chúa lại mơ thấy Phan thục phi đòi trâm Cửu loan nên đã phát bệnh, vậy mà còn đổ thêm dầu vào lửa, ngụy tạo ra nguy cơ trùng trùng hù dọa công chúa. Bản vương thật nghi ngờ, cái gọi là âm hồn Đậu Khấu quấy nhiễu, nửa đêm khóc lóc trong vườn Tri Cẩm, có phải là ngươi giả thần giả quỷ, khiến tinh thần công chúa suy sụp, hòng báo thù cho Đậu Khấu đúng không?”
“Con chỉ muốn dọa công chúa, chứ không hề có ý giết nàng… Thực sự con chỉ định dọa nàng thôi mà…” Vi Bảo Hoành thẫn thờ lắc đầu, “Nhờ làm phò mã, con mới có tiền đồ rộng mở thế này, hại chết công chúa thì con được lợi lộc gì chứ? Các vị nói xem?”
“Những việc phò mã làm, đâu chỉ để hù dọa công chúa.” Hoàng Tử Hà không nhịn được nói tiếp, “Phò mã gia gây ra chuyện trên sân kích cúc, khiến công chúa vốn ăn ngủ không yên càng thêm sợ hãi, phải xin hoàng thượng phái người tới phủ điều tra, rồi thừa lúc chúng tôi điều tra, phò mã lại khéo léo hướng tất cả manh mối vào cái chết của Đậu Khấu, phò mã muốn mượn tay chúng tôi phanh phui vụ án mạng Đậu Khấu chứ gì?”
Nghe những lời vạch tội thẳng thừng của Hoàng Tử Hà, Vi Bảo Hoành lại phóng mắt nhìn bao quát những sắc xanh đậm nhạt trong vườn Tri Cẩm, hồi lâu mới hít sâu một hơi, nói: “Công chúa… là viên minh châu trên tay hoàng thượng, là con cưng nhà trời, cá tính rất quyết liệt. Lúc mới phát hiện quan hệ giữa Vi mỗ và Đậu Khấu, công chúa đã nổi giận đùng đùng, Vi mỗ phải vật nài mãi, công chúa niệm tình Đậu Khấu đã luống tuổi, lại chăm sóc Vi mỗ từ nhỏ, nên mới hậm hực bỏ qua. Sau khi Đậu Khấu qua đời, Vi Bảo Hoành mỗ xem sổ sách trong phủ, phát hiện công chúa đang sai người tìm cho Đậu Khấu một gian nhà bên ngoài, chỉ đợi sắp xếp xong sẽ đưa ngay đến đó.” Kể đến đây, Vi Bảo Hoành cũng rơi nước mắt, hạ giọng: “Công chúa… thực ra không phải kẻ xấu, tuy tính tình nóng nảy, bất chấp lý lẽ, nhưng nàng đã rắp tâm đẩy Đậu Khấu ra khỏi phủ, thì cần gì phải hại chết nữa?”
Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà nhìn nhau. Lý Thư Bạch hỏi: “Bởi thế, người giết chết Đậu Khấu không phải công chúa ư?”
“Con nghĩ là không phải… Nhưng có một người có thể khiến công chúa phải gánh tội thay.”
Vi Bảo Hoành không nói thêm, nhưng Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà hiểu ra ngay hắn ám chỉ ai.
Cả vườn Tri Cẩm lặng phắc như tờ, hơi nước từ phía hồ đưa lại, lá chuối và cỏ xương bồ xanh đến ngợp người.
Ánh mắt Vi Bảo Hoành chầm chậm dừng ở Hoàng Tử Hà: “Dương công công phụng mệnh đến phủ điều tra, chẳng biết có phát hiện ra, tòa phủ đệ tinh xảo hoa lệ vô song này ẩn giấu rất nhiều bí mật đáng sợ, không thể hé lộ không?”
Hoàng Tử Hà nhíu mày, thầm rà lại tất cả những điều mình thu thập được mấy ngày nay tại phủ công chúa.
“Vốn dĩ Vi mỗ tự làm mình bị thương để xé to chuyện này ra, khiến quan phủ phải nhúng tay vào điều tra, từ đó hé lộ nguyên nhân cái chết của Đậu Khấu, đồng thời cũng lôi được kẻ sắp bước lên ngôi vị cao nhất ở cung Đại Minh kia xuống… Nào ngờ mọi chuyện lại thành ra thế này, công chúa… cũng bỏ ta mà đi.”
Hoàng Tử Hà buột miệng hỏi: “Phò mã có biết quan hệ giữa Tích Thúy và Đậu Khấu không?”
“Vốn là không biết, sau khi nghe tin công chúa khó ở vì trông thấy cô ta, dẫn tới vụ bê bối kia, ta phải đi dẹp yên sự việc, cũng gặp cô ta mấy lần. Về sau mới hay cô ta là cháu gọi Đậu Khấu bằng dì. Thực ra hai người cũng chỉ nhang nhác nhau thôi, nhưng hễ nhìn thấy cô ta, ta lại nhớ tới Đậu Khấu.” Vi Bảo Hoành cụp mắt xuống, khó nhọc kể, “Vi mỗ cũng biết cô ta muốn giết Tôn ghẻ, nên đã lén bám theo, định bụng nếu cần thì giúp một tay… Nào ngờ lại bị các vị phát hiện. Thực ra Vi mỗ từng nghĩ, nếu được thì Vi mỗ có thể giết Tôn ghẻ giùm cô ta, coi như nể mặt cô ta là cháu ruột Đậu Khấu, coi như cũng vì… cô ta nhang nhác Đậu Khấu…”
Hoàng Tử Hà thầm thở dài, chẳng hỏi gì thêm nữa.
Vi Bảo Hoành thẫn thờ hành lễ cáo từ Lý Thư Bạch: “Cả công chúa lẫn Đậu Khấu đều qua đời rồi, biết được chân tướng hay không cũng chẳng quan trọng nữa… Nếu vương gia và Dương công công có gì nghi vấn, xin cứ việc tra xét trong phủ. Giờ con phải tới trông linh cữu công chúa, bằng không để hoàng thượng biết con không dốc lòng dốc sức, nhất định sẽ nổi trận lôi đình.”
Lý Thư Bạch gật đầu, cho phép hắn lui ra.
Khi hắn đứng thẳng người dậy, còn nói một câu rất khẽ, khẽ đến mức gần như không thể nghe thấy: “Lúc công chúa sắp khóa cửa vườn lại, Vi mỗ… vô ý đá một thứ vào cây cột ở hành lang trong đình.”
Hoàng Tử Hà và Lý Thư Bạch đều nghe thấy câu này, xong Vi Bảo Hoành lại thản nhiên quay đi, như thể chỉ lẩm bẩm một mình.
Bí mật phủ công chúa.
Một bí mật rất đáng sợ, không thể hé lộ.
Đợi Vi Bảo Hoành đi khỏi, Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà men theo hành lang bắc trên mặt nước, thong thả đi đến ngôi đình chính giữa hồ.
Khung cửa sổ âm u thấp thoáng mấy tàu chuối biếc. Mọi đồ vật trong đình bị công chúa gấp gáp phong tỏa đã phủ một lớp bụi mỏng.
Lý Thư Bạch khoanh tay nhìn ra cỏ xanh bên hồ nước. Hoàng Tử Hà thì quỳ xuống kiểm tra kỹ từng cây cột. Cuối cùng, khi lần đến cây cột nằm trong góc tối giữa hành lang và cửa chính, cô mới thấy một viên tròn màu xám lẫn trong đám bụi, nếu không tìm kỹ chỉ e khó mà nhận ra.
Hoàng Tử Hà vội cầm lên thì thấy vật trong tay khá mềm, ra là một viên giấy. Cô thong thả giở ra, thấy trên mẩu giấy hoa tiên nhỏ viết hai câu thơ dang dở:
Người sinh mãi, kiếp nào cho hết,
Nhìn trăng sông năm hệt không sai… (*)
(*) Trích trong bài Xuân giang hoa nguyệt dạ của Trương Nhược Hư, bản dịch Tản Đà.
Nét cuối cùng của chữ “sai” còn chưa viết xong, người viết đã dừng bút. Mảnh giấy hoa tiên trắng muốt bị vò nát, bám đầy bụi bặm, khiến nét chữ cũng mờ đi, nhìn khá mơ hồ.
Đột nhiên, mấy con chữ trên mảnh tro nhặt từ lò hương vụt hiện ra trước mắt cô.
Có lẽ vì những chữ kia cũng chỉ hiện lên trong thoáng chốc rồi tan biến, tạo cảm giác mơ hồ hư ảo, nên cô bỗng thấy nét chữ trên mảnh giấy bị đốt thật giống hai dòng thơ này.
“Không phải chữ Đồng Xương.” Lý Thư Bạch nhìn rồi quả quyết: “Mỗi năm vào ngày sinh hoàng thượng, Đồng Xương chuẩn bị quà mừng đều tự tay viết lời chúc, ta từng đọc rồi.”
Hoàng Tử Hà nhẹ nhàng giơ mẩu giấy lên thổi cho sạch bụi.
Nét bút rất thanh tú, rõ ràng là của phụ nữ, hơi có vẻ gượng gạo vì lâu ngày không cầm bút, rõ ràng bấy giờ người viết đang bồi hồi do dự.
Lý Thư Bạch quay lưng đi thẳng ra ngoài: “Đứng dậy đi, ngươi có gì muốn biết thì đi mà hỏi người trong phủ.”
Là một trong những thị nữ thân cận bên cạnh công chúa, từ sau khi xảy ra chuyện, Thùy Châu luôn quỳ trước linh cữu công chúa, mấy lần còn khóc đến ngất lịm, tỉnh lại lại khóc tiếp. Lúc Hoàng Tử Hà đến, hai mắt ả đã sưng húp, không khóc nổi nữa, chỉ đờ đẫn quỳ ở đó.
Hoàng Tử Hà cũng quỳ xuống cạnh Thùy Châu thắp hương vái lạy công chúa, rồi liếc nhìn cổ tay ả.
Thùy Châu vận áo xô gai, để lộ cổ tay trái, có một vết sẹo bỏng lồi lõm chạy dài từ cổ tay đến tận khuỷu, rõ ràng từng bị bỏng rất nặng.
Hoàng Tử Hà hỏi nhỏ: “Thùy Châu cô nương, vết sẹo trên tay cô là thế nào?”
Thùy Châu không đáp, chỉ lẳng lẽ kéo tay áo xuống, che vết sẹo đi.
Lạc Bội quỳ bên cạnh nghẹn ngào đáp thay: “Mấy năm trước, công chúa tò mò nghịch lửa, suýt nữa bị lửa bén vào người, Thùy Châu cứu công chúa nên mới bị thương.”
Bọn Lạc Bội, Khuynh Bích, Trụy Ngọc tuy cũng ròng ròng nước mắt, xong trông vẫn đỡ hơn Thùy Châu nhiều. Mấy ả thị nữ cạnh đó hùa theo: “Đúng thế, Thùy Châu một lòng trung thành với công chúa, cả hoàng thượng cũng phải ngợi khen.”
Hoàng Tử Hà vờ thuận miệng hỏi: “Nói ra mới nhớ, hôm trước có một nam nhân họ Tiền cứ khăng khăng nói con gái mình là thị nữ trong phủ công chúa, bảo trên cổ tay con gái có một vết bớt, chẳng hay các cô có trông thấy ai như thế không?”
Thùy Châu lặng lẽ lắc đầu. Mấy người kia cũng đáp: “Tôi có nghe nói, nhưng hình như chẳng thấy ai có vết bớt trên tay cả?”
Khuynh Bích bĩu môi: “Chắc lại thấy người sang bắt quàng làm họ đấy thôi, người trong kinh ai chẳng muốn bắt quen bắt thân với phủ công chúa? Hễ có người nhà làm việc ở đây là thừa đủ để họ ra ngoài huênh hoang rồi.”
“Khuynh Bích.” Thùy Châu nhắc khẽ. Khuynh Bích hậm hực ngậm miệng lại, không quên vớt vát thêm một câu: “Nô tỳ có nói gì đâu. À phải… làm trong phủ Quỳ vương rõ ràng là hiển hách rồi.”
Xem ra Thùy Châu là kẻ đứng đầu trong các thị nữ bên cạnh công chúa, thảo nào công chúa khen ả hầu hạ chu đáo nhất.
Thùy Châu kéo tay áo che vết sẹo, lẳng lặng quỳ ở đó, đầu cúi thật thấp, tỏ ý không muốn nói chuyện.
Nhưng Hoàng Tử Hà vẫn hỏi riết: “Thùy Châu cô nương, hàng ngày quan hệ giữa cô và Ngụy Hỷ Mẫn thế nào?”
Thùy Châu đáp khẽ: “Chúng tôi cùng hầu hạ bên cạnh công chúa nên chẳng lạ gì nhau, nhưng cũng chẳng lấy gì làm thân. Thị nữ và hoạn quan qua lại thân thiết quá… sẽ làm người ta dị nghị.”
Ả nói vậy làm Hoàng Tử Hà nhớ ra một chuyện, bèn hỏi: “Nghe nói công chúa đã hứa gả cô nương đi, không lâu sau sẽ xuất phủ?”
Thùy Châu gật đầu, rồi lại lắc đầu: “Vốn định là cuối năm nay, người ta tuy không phải danh gia vọng tộc gì, nhưng cũng giữ chức quan ở Hồng Lư Tự(*). Nếu không nhờ công chúa, nô tỳ đâu thể gả được vào nhà danh giá như thế. Có điều giờ xem ra… ít hy vọng lắm.”
(*) Cơ quan chuyên cai quản nghi thức lễ tiết trong các dịp lễ hội.
Hoàng Tử Hà hiểu, người kia chẳng qua nhìn vào quyền thế của công chúa nên mới chịu cưới một thị nữ. Dù sao, với một viên quan thất phẩm nhỏ nhoi dưới trướng tể tướng thì một thị nữ thân cận bên công chúa, sau khi xé giấy bán thân, lại có chủ cũ nâng đỡ, rõ ràng là một cái gấu váy tốt. Xong giờ công chúa đã qua đời, còn mong gì y chịu giữ lời mà cưới Thùy Châu nữa. Tương lai sau này thế nào, e rằng chính ả cũng không biết được.
Hoàng Tử Hà đành lựa lời an ủi: “Ta nghĩ người làm quan chắc sẽ giữ lời, không thể vì chuyện này mà hủy hôn được.”
“Đa tạ công công an ủi.” Thùy Châu đáp, xong vẫn mặt ủ mày chau.
Khuynh Bích quỳ bên cạnh thở dài: “Nếu không nhờ công công nói đỡ, e rằng giờ bọn nô tỳ đi theo công chúa cả rồi, sống được đã là trời thương, còn những chuyện khác, ai mà biết có phúc phận ấy không…”
Khuynh Bích còn trẻ, nói năng không biết chừng mực, lời vừa thốt ra, Hoàng Tử Hà thấy Trụy Ngọc và Thùy Châu sắc mặt càng thêm u ám, chắc hẳn gánh nặng trong lòng lại nặng thêm.
Lạc Bội nhìn làn khói xanh từ lò hương lững lờ bay lên, thẫn thờ: “Nhưng… chúng nô tỳ còn cách nào khác đâu? Sau khi công chúa mơ thấy ác mộng, luôn miệng nói Phan thục phi sắp đến đòi trâm Cửu loan, mà cây trâm lại… không cánh mà bay ngay giữa nhà kho được canh giữu nghiêm mật như thế, các vị bảo có lạ hay không? Rõ ràng công chúa đích thân khóa chặt, lại chứng kiến mấy người bọn nô tỳ chính tay đặt chiếc hộp vào rương, rồi chính tay lấy ra, sao bỗng dưng biến mất được… Cuối cùng còn xuất hiện ở phường Bình Khang, đâm chết công chúa nữa chứ.”
Khuynh Bích vừa buồn vừa sợ, khóc òa lên: “Chị Lạc Bội đừng nói nữa… Đừng nói nữa mà…”
Giọng họ chìm trong tiếng tụng kinh và khóc lóc xung quanh, chẳng khác nào cây trâm Cửu loan biến mất giữa vòng vây canh gác nghiêm mật.
Hoàng Tử Hà chỉ biết than thầm, hành lễ từ biệt họ rồi đứng dậy đi ra.
Công chúa vừa qua đời, phủ công chúa đã náo loạn.
So ra thì người hầu từ nhà phò mã đưa sang vẫn bình tĩnh hơn. Dù sao họ cũng có nơi để về.
Bởi thế, khi Hoàng Tử Hà đến nhà bếp, Xương Bồ vẫn ngồi nguyên chỗ cũ, đang chọn món ngày mai, chỉ là nét mặt đượm phần rầu rĩ.
“Dương công công,” thấy Hoàng Tử Hà đến, Xương Bồ đập đập cuốn sổ trong tay, tự trào, “Bất luận thế nào thì bấy nhiêu người trong phủ cũng phải ăn, đúng không nào?”
Hoàng Tử Hà ra ý bảo Xương Bồ cứ tiếp tục, rồi ngồi xuống phía đối diện: “Chỉ muốn hỏi cô cô mấy câu thôi.”
“Công công cứ hỏi.” Xương Bồ gảy bàn tính tanh tách, cúi đầu mím môi đối chiếu từng khoản mục trong sổ.
“Cô cô có biết Tiền Quan Sách bị Đại Lý Tự bắt giam rồi không?”
Xương Bồ khựng lại, đáp khẽ: “Tôi biết. Tối qua ông chủ Tiền tới tìm tôi nghe ngóng tin con gái, không may bị người của Đại Lý Tự phát hiện, chính mắt tôi chứng kiến họ giải ông ấy đi.”
“Nghe nói ông ta khăng khăng nói con gái mình ở trong phủ, thậm chí còn đưa cả con cóc vàng ra làm bằng, nhưng người của Đại Lý Tự tìm khắp phủ cũng không thấy cô con gái.” Hoàng Tử Hà nhìn chằm chằm Xương Bồ, không bỏ qua một biểu cảm nào dù là nhỏ nhất, “Tôi nhớ cô cô từng nói, con gái ông chủ Tiền là Thùy Châu phải không?”
Xong Xương Bồ vẫn thản nhiên, không hề chớp mắt, thong dong gảy bàn tính: “Đúng thế, tối qua tôi biết chuyện cũng giật nảy mình. Thì ra Thùy Châu không phải con gái ông ấy, trên cổ tay con gái ông ấy có vết bớt chứ không phải vết sẹo, lâu nay tôi lầm.”
Hoàng Tử Hà nhíu mày nhìn Xương Bồ, hỏi: “Ra là cô cô lầm ư?”
“Phải, ban đầu ông chủ Tiền chỉ nói con gái mình có dấu trên cổ tay. Tôi phát hiện cổ tay Thùy Châu có vết, ngỡ là cô ấy, bèn mách lại với ông chủ Tiền, còn về sau họ có hẹn gặp nhau hay không thì tôi không rõ. Công công biết đấy, tôi cả ngày ở trong nhà bếp, bận túi bụi, làm gì có thời gian hỏi đến chuyện ấy. Về sau ông chủ Tiền đưa linh lăng hương đến cảm tạ, tôi còn nghĩ, quả nhiên là Thùy Châu.” Kể đến đây, Xương Bồ cũng thở dài, đặt tay lên bàn tính thẫn thờ: “Nhưng lúc ông ấy bị người của Đại Lý Tự bắt được rồi thẩm vấn, lại nói trên cổ tay con gái có một vết bớt màu hồng ngả xanh, cuối cùng tra khắp phủ công chúa không thấy. Lúc sau tôi hỏi nhỏ Thùy Châu, Thùy Châu cũng thề sống thề chết là không phải mình, mấy thị nữ hầu cận công chúa đều nói Thùy Châu không hề hẹn gặp riêng ông ấy… Công công bảo có lạ không? Rốt cuộc ông chủ Tiền đã tìm thấy con gái hay chưa? Người ông ta lén hẹn gặp là ai? Lẽ nào đúng như người Đại Lý Tự nói, ông ta chỉ mượn cớ tìm con gái để câu kết với Ngụy Hỷ Mẫn ăn trộm báu vật trong phủ công chúa thôi ư?”
Hoàng Tử Hà quan sát kỹ nét mặt Xương Bồ, lại hỏi: “Thế nên cô cô không biết gì, cũng không liên quan gì đến chuyện này, phải không nào?”
“Đương nhiên rồi! Bằng không… Lẽ nào Dương công công hoài nghi tôi ư?” Xương Bồ ôm ngực kinh ngạc nhìn cô, vẻ hoảng hốt, “Dương công công! Tôi chưa từng đến chỗ ở của công chúa! Cũng chưa thấy trâm Cửu loan và cóc vàng bao giờ cả! Tuy tôi sống trong vương phủ, nhưng là người hầu dưới bếp, đến công chúa cũng hiếm khi trông thấy nữa là…”
“Được rồi, tôi tin cô cô không dính dáng đến vụ này mà, tôi tuyệt đối tin vào sự trong sạch của cô cô.” Hoàng Tử Hà chăm chú nhìn Xương Bồ, ánh mắt sáng rực lên như muốn soi thấu ruột gan: “Nhưng tôi không tin cô cô không biết cô gái Tiền Quan Sách hẹn gặp là ai.”
“Tôi không biết! Tôi không biết thực mà!” Xương Bồ cuống cuồng la lên.
Hoàng Tử Hà lặng thinh quan sát phản ứng của Xương Bồ.
Thấy thái độ của cô, Xương Bồ đành chịu phép, ngã ngồi xuống ghế, lấy tay chống trán lẩm bẩm: “Tôi không nói được… Tôi không thể tiết lộ được…”
Vẻ mặt Xương Bồ không chỉ kinh hoàng lo sợ, mà còn kiên định quả quyết, như thể dù có bỏ mạng, dù có tan xương nát thịt, cũng phải nuốt bí mật này vào bụng.
Hoàng Tử Hà biết không cạy nổi miệng người này, đành thở dài: “Cũng chẳng sao, tôi đã biết là ai rồi,” đoạn đứng dậy xăm xăm đi ra cửa. Thấy vậy, Xương Bồ không nhịn nổi, vội đứng dậy liêu xiêu đuổi theo, vịn vào khung cửa hỏi: “Công công… biết là ai ư?”
“Cô cô nói xem?” Hoàng Tử Hà ngoảnh lại cuời với Xương Bồ, duới ánh mặt trời mùa hạ chói chang, gương mặt cô mờ hẳn đi vì lóa.
Giọng cô bình thản mà kiên định, mang một vẻ quả quyết khiến người ta không thể nghi ngờ.
“Trong phủ công chúa này, còn có thể là ai nữa chứ?”
Hoàng Tử Hà rời phủ công chúa, đi thẳng về phía cỗ xe ngựa phủ Quỳ.
Chợt cô trông thấy hai người đứng trước xe, một là Quỳ vương Lý Thư Bạch tao nhã như cây ngọc đón gió, còn người kia, chính là Kỳ Lạc quận chúa lộng lẫy như minh châu.
Hoàng Tử Hà không khỏi chậm bước, thầm tính xem có nên đi đến hay không.
Đi đến chẳng phải là quấy nhiễu họ ư?
Kỳ Lạc quận chúa mỉm cười nhìn Lý Thư Bạch, hai má ửng hồng, gió lồng lộng dưới tàng cây làm mấy sợi tóc nàng bay tung, vấn vít quanh đôi mắt đắm đuối như sương như khói, đẹp say lòng người.
Cô quận chúa yểu mệnh này, dù có xinh đẹp nhường nào, cũng chẳng còn được bao lâu nữa. Bởi thế Lý Thư Bạch luôn nhìn nàng bằng ánh mắt xót xa, gương mặt xưa nay lạnh nhạt cũng lộ ra mấy phần dịu dàng.
Hoàng Tử Hà lẳng lặng lùi bước, ngồi xuống bóng râm đằng sau bức chiếu bích của phủ công chúa. Cây lựu trên đầu đã kết quả lúc lỉu trĩu trịt, to bằng nắm tay đứa bé sơ sinh. Thấy một cành sà xuống trước mặt, cô bèn giơ tay níu lấy một quả, ngơ ngẩn ngắm nhìn.
Những người con gái xuất thân cao quý như Kỳ Lạc quận chúa và Đồng Xương công chúa, sinh ra giữa cẩm tú phồn hoa bậc nhất thế gian, xong lại như những bông hoa rực rỡ đầy cành, bừng nở rồi rơi rụng, mà không cách nào đơm quả.
Ba cô gái, mỗi người một phận, nhưng đều bất hạnh. Đồng Xương công chúa chết yểu, Hạnh nhi bị cha bán đi từ nhỏ, và Tích Thúy phải chịu sự lăng nhục khủng khiếp nhất trên đời.
Ba người con gái, với ba người cha khác nhau.
Hoàng đế nuông chiều Đồng Xương công chúa đến nỗi không tiếc đem mọi thứ tốt đẹp nhất đời ban cho nàng, nhưng giờ đây, dù trút giận sang thái y, liên lụy đến cả mấy trăm người, cũng không cứu nổi đứa con gái đã chết dưới trâm Cửu loan.
Tiền Quan Sách trong lúc khó khăn nhất đã đem con gái bán đi, lấy tiền bán con dựng nghiệp rồi phát đạt, sau nhiều năm cũng tìm lại được đứa con, nhưng chưa kịp nghe con gọi một tiếng cha đã bị hạ ngục.
Lữ Chí Nguyên nằm mơ cũng muốn có con trai, hơn nữa khi con gái Tích Thúy rơi vào cảnh ngộ bi thảm nhất, vẫn nhẫn tâm đuổi ra khỏi nhà, nhất quyết ôm chặt món tiền bán con gái sống cô độc suốt tuổi già.
Ba người chết thân phận cũng khác nhau. Sợi dây liên hệ duy nhất là, họ đều can dự vào bi kịch của Tích Thúy.
Khiến người ta thắc mắc nhất là Đồng Xương công chúa. Tuy nàng hạ lệnh trách phạt Tích Thúy, nhưng không cố ý khiến Tích Thúy gặp chuyện, càng không trực tiếp hãm hại. Hung thủ cũng không bố trí cẩn mật như hai lần trước mà thẳng tay giết công chúa ngay giữa phố đông, dường như công chúa mới là người y hận nhất…
Nghĩ vậy, cô bất giác rút cây trâm ngọc ra, vạch lên phiến đá xanh đang ngồi.
Ba người cha, ba cô con gái, phò mã, Trương Hàng Anh, Tôn ghẻ, Ngụy Hỷ Mẫn, Đậu Khấu…
Chợt có tiếng hỏi từ đằng sau: “Vẽ gì thế?”
Cô ngẩng lên, trông thấy Lý Thư Bạch đang ở trước mặt, hơi khom người xuống nhìn mình. Dưới ánh nắng chói chang, bóng cây xanh mát phủ trùm lên họ, mặt y chỉ cách mặt cô gang tấc, cặp mắt đen thăm thẳm như mặt hồ nhìn xoáy vào Hoàng Tử Hà khiến cô bỗng thấy chới với như sắp chìm trong đó.
Cô đành cắm cây trâm ngọc lại chỗ cũ, gắng gượng né tránh ánh mắt y, đáp khẽ: “Vừa rồi thấy gia và Kỳ Lạc quận chúa đang trò chuyện, nô tài không dám đến quấy rầy, đành ngồi lại đây sắp xếp lại các manh mối.”
Y liếc cô rồi ngồi xuống bên cạnh: “Kỳ Lạc tới bái tế Đồng Xương, tình cờ gặp nhau.”
“Quận chúa… khí sắc rất khá, chắc gần đây có khỏe lên?”
“Không biết nữa, có khi cái chết của Đồng Xương sẽ khiến cô ấy chạnh lòng nghĩ đến mình, càng buồn bã thêm.” Nói rồi y hờ hững giơ tay nhón một quả lựu nhỏ giơ lên trước mặt quan sát, hỏi sang chuyện khác, “Vừa rồi ngươi để ý thấy manh mối nào chưa?”
Hoàng Tử Hà ngây ra một thoáng mới đáp: “Tôi còn nhớ, khi cây trâm Cửu loan của công chúa bị đánh cắp, gia dắt tôi đến thăm hỏi, bấy giờ, gia có vẻ khá thích con chó sứ trên nóc tủ ở đầu giường công chúa.”
“Đúng thế.” Lý Thư Bạch buông tay, để mặc quả lựu bé kia cứ rung rinh trước mặt hai người, “Bởi vì ta nhớ lúc Đồng Xương chừng sáu bảy tuổi, từng bị mảnh vỡ của chiếc đĩa sứ cứa đứt tay. Từ đó hoàng thượng hạ lệnh, trong cung của Đồng Xương không được dùng bất cứ thứ đồ gốm sứ gì nữa. Mãi đến khi Đồng Xương hạ giá lấy Vi Bảo Hoành, dọn vào phủ công chúa, đồ dùng bên cạnh đa phần cũng bằng vàng bạc, vậy mà tự dưng lại có một con chó sứ bên cạnh, hơn nữa nhìn rất giống những món bán đầy ngoài chợ, ngươi không thấy lạ ư?”
Hoàng Tử Hà gật đầu, lại hỏi: “Chúng ta đi lấy về xem được không?”
Lý Thư Bạch đứng ngay dậy không chút chần chừ: “Đi thôi.”

Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét