var popunder = true; shopmetho: TRÂM II: KẺ YỂU MỆNH FULL - Quyển 2 - C20-hết

Thứ Ba, 28 tháng 6, 2016

TRÂM II: KẺ YỂU MỆNH FULL - Quyển 2 - C20-hết


Q.2 – Chương 20: Hồi 18: Sống Động Như Thật
Gác Thê Vân trống không, mọi thứ của công chúa đều đã bị niêm phong cất đi, chỉ để lại chiếc giường và hộc tủ khóa chặt.
Đặng Xuân Mẫn, hoạn quan thân cận bên cạnh công chúa dẫn họ vào. Lý Thư Bạch đi đến trước chiếc tủ đầu giường công chúa, bảo họ Đặng mở ra.
Bên trong đầy những món đồ chơi nho nhỏ, nào là nước tường vi, cầu xông hương, hộp gỗ đàn v.v… hằng ngày nhờ đám thị nữ vẫn dọn dẹp luôn luôn, nên tuy nhiều thứ xong không hề lộn xộn, món nào món nấy được đặt ngay ngắn, chỉ là góc phải bỏ trống một chỗ bằng nắm tay.
Vừa đủ cho một con chó sứ.
Thấy họ không tìm thấy thứ muốn tìm, Đặng Xuân Mẫn gợi ý: “Một số đồ dùng đã được gói đưa đến nhà kho rồi, để nô tài dẫn vương gia đi xem.”
Nhà kho nơi trâm Cửu loan biến mất vẫn đóng chặt cửa, toát lên vẻ lạnh lẽo, cách biệt với bên ngoài.
Từng hàng giá và kệ để đồ xếp đầy những hộp và rương, có thứ còn bọc vải kín mít, nhìn từ xa thấp thoáng như một bóng đen kỳ quái ngồi vắt vẻo trên giá.
“Hai chiếc rương này là những đồ dùng thường dùng của công chúa, đều đặt ở đây.” Đặng Xuân Mẫn lại rút chìa khóa mở hai rương ra.
Hoàng Tử Hà đang nhấc nắp rương lên, chợt trầm ngâm dừng lại.
Lý Thư Bạch hỏi: “Sao thế?”
Cô vỗ nhẹ vào nắp rương, ngước nhìn y: “Vương gia nghĩ tới việc gì?”
Lý Thư Bạch nhìn cánh tay cô gác lên nắp rương, nhíu mày đáp: “Ý ngươi muốn nói đến chuyện trâm Cửu loan đột nhiên biến mất ư?”
Hoàng Tử Hà gật đầu, rồi lập tức bắt tay vào tra xét những chiếc rương xung quanh, phát hiện rương ở ngăn dưới cùng đều đặt trực tiếp trên nền gạch xanh, duy có chiếc rương từng cất trâm Cửu loan, hiện đang bỏ trống cạnh đó là được lót mấy tấm vải dưới đáy, để tránh bị chấn động.
Lý Thư Bạch nhìn qua một lượt rồi gật đầu: “Mở ra xem đi, nếu không thấy chó sứ thì có thể khẳng định đấy.”
Ở bên nhau lâu ngày, hai người cũng có một sự ăn ý ngầm, không cần phải nhiều lời. Hoàng Tử Hà liền mở hai chiếc rương ra lục tìm, quả nhiên không có chó sứ.
Cả hai bèn đứng dậy rời khỏi nhà kho, quay về gác Thê Vân, trầm ngâm nhìn chỗ trống trong ngăn tủ đầu giường công chúa.
“Vừa đủ chỗ cho một con chó sứ, phải không?” Hoàng Tử Hà ước lượng.
Lý Thư Bạch gật đầu nhìn quanh: “Muốn làm nó biến mất cũng dễ thôi…”
Hai người không hẹn mà cùng bước đến bên xong nhìn xuống dưới.
Hợp hoan vẫn nở rộ bên dưới, từng đóa hoa mượt mà như lông tơ, phủ đầy mặt đất.
“Đi thôi.”
Cả hai men theo thềm đá mà xuống, rồi đi lòng vòng tìm kiếm quanh khu vực thẳng dưới cửa sổ gác Thê Vân, quả nhiên phát hiện một đám hoa tàn lá rụng vun đầy dưới gốc hợp hoan, nếu không để ý còn ngỡ là tình cờ bị gió thổi gom lại một chỗ.
Hoàng Tử Hà nhặt một cành cây gạt lớp hoa lá bên trên, thấy phía dưới là một đống mảnh sứ.
Quỳ vương mắc bệnh sạch sẽ chỉ khoanh tay đứng bên nhìn.
Hoàng Tử Hà thận trọng nhặt những mảnh sứ ra, đếm được cả thảy hai mươi tám mảnh lớn nhỏ. Cô bỏ vào khăn tay gói lại, đút trong tay áo.
Ngồi xe quay về, trông sắc trời đã sắp đến giờ Ngọ, Lý Thư Bạch đột nhiên bảo: “Qua rủ cả Tử Tần tới Chuế Cẩm Lâu ăn cơm đi.”
Hoàng Tử Hà vội bảo bác đánh xe A Viễn: “Đến phủ Chu thị lang nhé.”
Lý Thư Bạch lại trỏ hộc tủ bên dưới: “Cái đầu lâu vẫn ở đó à?”
Hoàng Tử Hà gật đầu đáp: “Không trả cho Tử Tần được, nếu để cậu ấy khôi phục lại nó hoàn toàn, sẽ phát hiện ra người chết rất giống Vương hoàng hậu. Nhưng nếu không trả hoàng hậu, thì phải để đâu đây…”
Lý Thư Bạch lạnh lùng lườm cô: “Mua dây buộc mình.”
Cô cúi gắm mặt không dám nhìn y, nem nép gật đầu nhận lỗi: “Nô tài biết sai rồi, là tại nô tài lo bò trắng răng, mua dây buộc mình, gia bảo nên giải quyết thế nào đây?”
“Ra ngoại ô tìm một khoảnh đất trống mà chôn đi.”
“…” Hoàng Tử Hà câm nín ngoảnh đầu nhìn ra cửa sổ, vờ như không nghe thấy y nói.
Rèm cửa lắc lư theo nhịp bánh xe, thấy đã đến nhà Chu Tử Tần, cô bèn nhảy phắt xuống, chạy tới gọi cửa: “Du thúc, tiểu thiếu gia hôm nay có nhà không?”
“Dương công công đấy à! Trùng hợp quá, hôm nay tiểu thiếu gia vừa ra đến cửa thì dừng lại nghĩ ngợi rồi quay trở về phòng, nói rằng sợ công công đến không gặp được mình!”
“Ồ, vậy phiền Du thúc báo một tiếng với tiểu thiếu gia, bảo rằng vương gia đợi cậu ấy đi ăn cùng.”
“Hả? Được rồi, đi ngay đây!” Người gác cổng chạy vội vào nhà như một làn khói.
Hoàng Tử Hà đứng đợi dưới gốc thủy lạp ngoài cửa, muôn ngàn đóa hoa nhỏ xinh nở rợp trên đầu, tỏa hương ngây ngất, đè trĩu cả cành. Cô vươn tay toan vít một cành xuống thì nhận ra ngay cả đóa hoa ở thấp nhất mình cũng không với tới, chỉ có thể đứng bên dưới lặng lẽ ngắm nhìn.
Chợt phía sau có người vươn tay ra, bẻ cành hoa Hoàng Tử Hà vừa cố với tới, đưa cho cô.
Ngỡ ngàng ngoảnh lại, Hoàng Tử Hà trông thấy Vương Uẩn đang cầm cành hoa nở rộ, mỉm cười đứng sau lưng mình tự lúc nào. Y đăm đăm nhìn cô nói khẽ: “Vừa rồi đi trên phố trông thấy xe ngựa phủ Quỳ chạy qua, lại thấy cô nhảy xuống bèn tới chào một tiếng.”
Thấy cành hoa vẫn chìa ra trước mặt mình, tỏa hương ngan ngát khiến người ta say đắm, Hoàng Tử Hà bất giác nhận lấy: “Đô úy đã chính thức nhậm chức ở Tả Kim Ngô Vệ rồi ư?”
“Ừm, hôm nay là ngày đầu tiên. Kinh thành lớn như thế, hôm nay lần đầu tiên đi tuần lại gặp ngay cô, đúng là duyên phận.” Y ung dung mỉm cười: “Ta cứ tưởng buổi tối cô hay ra ngoài tra án hơn.”
“Thì đúng mà, buổi tối tôi vẫn hay ra ngoài, giờ đô úy đi rồi, hy vọng các huynh đệ ở Kinh thành phòng vệ ty cũng nương tay cho tôi được nhờ.”
“Chuyện đó đương nhiên.” Y cười nói, đoạn quay sang chào Lý Thư Bạch qua cửa sổ xe: “Tham kiến vương gia.”
Lý Thư Bạch gật đầu chào, lại hỏi: “Ở Tả Kim Ngô Vệ có ổn không?”
“Cũng ổn, như phòng vệ ty thôi.” Y thản nhiên cười đáp.
Hoàng Tử Hà nắm chặt cành hoa thủy lạp trong tay, chợt thấy hổ thẹn trong lòng. Vương Uẩn ở Kinh thành phòng vệ ty đang như mặt trời chính Ngọ, giờ bị điều đến Tả Kim Ngô Vệ, bó chân bó cẳng, chính là vì cô vạch trần thân phận Vương hoàng hậu, hoàng đế mới chớp lấy thời cơ kiềm chế nhà họ Vương.
Nghĩ vậy, cô bèn nhét cành hoa vào tay áo, bảo Vương Uẩn: “Đô úy đợi cho một lát,” rồi lên xe xách một chiếc túi ra, đặt vào tay Vương Uẩn: “Cái này… nếu có cơ hội, đô úy xem có thể giao lại cho Tiểu Thi không.”
Vương Uẩn vừa cầm lấy đã đoán được ngay thứ bên trong, liếc qua chiếc đầu thật nhanh rồi vắt túi lên lưng ngựa, hỏi: “Tìm được ở đâu thế?”
“Đừng hỏi, dù sao… tôi nghĩ tốt xấu gì cũng nên được toàn thây.” Cô nói nhỏ.
“Ừm, thực ra ta hết sức hối hận. Cái chết của cô ấy, ta không khỏi liên quan.” Vương Uẩn chăm chú nhìn gương mặt cúi gằm của cô, lâu sau mới hạ giọng: “Cảm ơn.”
“Cảm ơn gì thế?” Thình lình một người từ đằng sau nhảy ra hỏi.
Kẻ xuất quỷ nhập thần thế này, đương nhiên là Chu Tử Tần. Hôm nay gã vận một bộ đồ màu hồng tím phối với vàng ươm, trông vẫn xốn mắt như thường.
Một tay đặt lên tay Vương Uẩn, tay kia khoác vai Hoàng Tử Hà, Chu Tử Tần tươi cười: “Nào nào, kể cho tôi nghe chuyện ân oán giữa hai vị đi.”
Hoàng Tử Hà tức thì gạt tay gã, cùng lúc ấy Vương Uẩn cũng kéo cánh tay Chu Tử Tần đang khoác vai Hoàng Tử Hà ra, hai người phối hợp hết sức ăn ý, khiến Lý Thư Bạch từ cửa sổ xe nhìn ra cũng phải nhướng mày, ánh mắt đầy phức tạp.
“Vương đô úy tặng tôi một cành hoa, tôi cũng tặng lại chút quà.”
Lý Thư Bạch thì nói: “Uẩn Chi cũng đừng về nha môn nữa, cùng đến Chuế Cẩm Lâu đi.” Uẩn Chi là tên tự của Vương Uẩn.
Thế là Chu Tử Tần lên xe, còn Vương Uẩn cưỡi ngựa theo sau, mấy người cùng kéo đến Chuế Cẩm Lâu.
“Sùng Cổ, công công vừa tặng lại cái gì đấy? Có qua có lại mới toại lòng nhau, Vương huynh tặng hoa, chắc công công cũng phải tặng lại thứ gì đó phong nhã chứ?” Dọc đường Chu Tử Tần cứ luôn miệng căn vặn.
Hoàng Tử Hà không muốn nói, quà đáp lễ phong nhã của mình chính là chiếc đầu lâu lấy từ chỗ gã.
Gặng hỏi mãi không được, Chu Tử Tần rầu rĩ bĩu môi ngồi dựa vào vách xe, nhìn chằm chằm cành hoa trên tay cô: “Đúng là, hoa này bẻ ngay ngoài cửa nhà ta chứ gì? Thế đâu tính là quà, rõ là mượn hoa dâng Phật!”
Lý Thư Bạch dõi mắt nhìn ra phố phường bên ngoài, vặn lại: “Ngươi có nghĩ Dương Sùng Cổ cũng mượn hoa dâng Phật không?”
Chu Tử Tần vẫn hồn nhiên không hề biết mình bị “mượn hoa” đến hai lần, nghe thấy câu này thì háo hức hỏi: “Lẽ nào quà đáp lễ của Sùng Cổ lấy từ chỗ vương gia? Hai người này đúng là keo kiệt, tặng qua tặng lại, toàn bòn của từ người khác.”
Tiếc rằng kế khích tướng này vô dụng, Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà đã quá rõ tính tình gã, đều quay đầu nhìn ra cửa sổ, vờ như không nghe.
Chu công tử phải chịu ấm ức suốt dọc đường đi, tới Chuế Cẩm Lâu chọn một loạt món ăn vẫn không vui lên được, trong lúc đợi món bèn nằm bò ra bàn, trông tội nghiệp như một chú chó con bị bỏ rơi.
Hoàng Tử Hà chẳng buồn dỗ dành gã, mà gọi tiểu nhị múc cho một chậu nước, lại xin ít keo bong bóng cá và bột gạo, trộn lẫn vào nhau thành một hỗn hợp sền sệt dinh dính.
Chu Tử Tần nằm bò ra bàn nhìn cô, uể oải hỏi: “Sùng Cổ làm gì thế?”
Hoàng Tử Hà lấy gói mảnh sứ trong tay áo ra, đổ vào chậu nước rửa từng mảnh một. Vương Uẩn liền đứng dậy phụ giúp: “Cẩn thận kẻo bị cứa vào tay.”
Lý Thư Bạch chỉ ở bên cạnh thờ ơ quan sát, không giúp, cũng chẳng nói năng gì.
Chu Tử Tần thấy vậy thì hào hứng hẳn, nhặt ngay một mảnh cọ sạch rồi giơ lên ngắm nghía: “Cái gì đây?”
“Mảnh sứ vỡ tìm được trong phủ công chúa, công tử đoán xem là gì?” Hoàng Tử Hà rửa sạch từng mảnh đặt lên bàn.
Mảnh Chu Tử Tần đang cầm là pần tai chó, gã ngắm nghía hồi lâu rồi nói: “Hình như là một món đồ chơi bằng sứ… Mèo hay chó gì đó.”
“Hẳn là một con chó.” Cô đáp.
Thấy Hoàng Tử Hà lầm lượt ghép những mảnh sứ vỡ lại, Chu Tử Tần cũng quên cả giận dỗi, thoăn thoắt giúp cô tìm từng mảnh.
Vừa ghép lại hoàn chỉnh thì tiểu nhị cũng bắt đầu bưng thức ăn lên.
Đợi ba người ăn xong, keo dán cũng khô lại, con chó được dính chắc. Chu Tử Tần cầm trong tay săm soi rồi quả quyết: “Muốn mua được thứ này hẵng còn khó đấy.”
Vương Uẩn cầm lên xem rồi hỏi: “Chẳng phải một con chó sứ bình thường thôi sao? Hồi nhỏ hình như ta cũng từng chơi, có gì mà khó mua?”
“Vương gia lớn lên trong cung thì thôi, còn Sùng Cổ, hồi nhỏ có chơi thứ này không?” Chu Tử Tần hỏi.
Hoàng Tử Hà gật đầu: “Tôi cũng có ấn tượng láng máng, chắc hồi nhỏ từng thấy rồi.”
“Đúng thế, mười năm trước, khi chúng ta còn nhỏ thì loại chó sứ này rất phổ biến, nhưng mấy năm nay lại ít thấy, con mấy ông anh ta đều không có. Hơn nữa loại đồ sứ này động một cái là bị bọn trẻ làm vỡ, ta dám đảm bảo, thứ này đã thành hàng hiếm rồi.”
“Con chó sứ này á?” Có đầy! Muốn bao nhiêu có bấy nhiêu!”
Ông chủ tiệm đồ chơi ở chợ Tây vừa mở miệng đã giáng cho Chu công tử một đòn như búa bổ.
Có điều da mặt gã cũng không phải dày vừa, chỉ một chốc đã gạt phăng chuyện này đi, hăm hở theo ông chủ vào kho, khiêng ra một rương chó sứ.
Ông chủ mở rương ra, bên trong là hàng dãy chó sứ xếp ngay ngắn thành ba lớp, phải đến bảy tám chục con. Lớp trên cùng thiếu mất mấy con, thành ra bị khuyết.
Hoàng Tử Hà ngồi xuống ngắm nghía, phát hiện đám chó trong hộp bám đầy bụi, chỉ riêng một con ở lớp thứ hai là sạch sẽ. Cô bèn nhặt lấy đặt lên lòng bàn tay săm soi rồi hỏi: “Ông chủ, rương hàng cũ này cũng mười năm rồi, sao ông không bỏ đi, lẽ nào vẫn còn người mua?”
“Đúng thế, rương chó sứ này nhập từ Giang Nam mười năm trước, bấy giờ rất phổ biến trong kinh. Tiếc rằng về sau dần dần lỗi thời, lò gốm chế ra chúng cũng đóng cửa, chẳng ai mua nữa. Có điều cũng thật tình cờ, tháng trước lại có người hỏi đến, tôi tìm mãi mới phát hiện còn một rương hàng tồn, bèn đem ra bán. Chắc cả kinh thành này chỉ còn chỗ tôi bán thứ này thôi. Trừ vị khách hôm đó ra, cũng chỉ có các vị hỏi tới.”
Hoàng Tử Hà ước chừng trọng lượng con chó sứ trong tay rồi hỏi: “Người khách lần trước trông thế nào? Chắc cũng tầm tuổi chúng tôi, đi mua lại món đồ chơi hồi bé chứ gì?”
Ông chủ cười hì hì nhận tiền Chu Tử Tần đưa rồi đáp: “Không phải không phải, chính là ông chủ Tiền của tiệm ngựa Tiền Ký ấy, ông ấy bốn năm chục tuổi rồi còn đi mua thứ này, có tức cười hay không?”
Chu Tử Tần quay sang nhìn Hoàng Tử Hà, nói bằng khẩu hình: “Lại là ông ta.”
Hoàng Tử Hà gật đầu, cũng dùng khẩu hình trả lời: “Quả nhiên.”
Chu Tử Tần rầu rĩ hỏi: “Công công biết trước rồi à? Lại không nói với ta!”
“Chẳng phải tôi nói với công tử đầu tiên đấy ư?” Lúc ra khỏi tiệm đồ chơi, Hoàng Tử Hà dỗ gã.
Nghe vậy, Chu Tử Tần tức thì bò ra khỏi vực sâu tuyệt vọng, vui vẻ cầm chó sứ về Chuế Cẩm Lâu, đặt trước mặt hai người kia: “Đoán xem ai đã mua con chó sứ kia nào?”
Lý Thư Bạch chẳng buồn ngước lên, đáp ngay: “Tiền Quan Sách.”
Ba từ này đã đánh bật Chu công tử về đáy vực, gã rưng rưng quay lại nhìn Hoàng Tử Hà: “Công công bảo là nói với ta đầu tiên mà?”
“Là gia tự đoán được đấy chứ.” Hoàng Tử Hà xòe hai tay, vẻ bất lực.
“Nhưng, nhưng dù gần đây Tiền Quan Sách có mua một con chó sứ, thì cũng không thể nói con chó bị vỡ trong phủ công chúa có liên quan đến con của ông ta! Huống hồ chó sứ thì liên quan gì đến vụ án của công chúa?”
“Đương nhiên liên quan rất nhiều. Có thể nói, cái chết của công chúa, đều do con chó sứ này.” Nói đoạn, Hoàng Tử Hà thận trọng bọc cả hai con lại.
Vương Uẩn thấy cô tất bật thì mỉm cười hỏi: “Sùng Cổ, vụ án Tôn ghẻ lần trước hai vị đi suốt đêm điều tra, giờ thế nào rồi?”
“Vẫn… chưa có tiến triển gì.” Chu Tử Tần nằm bò ra bàn, chán nản đáp: “Đại Lý Tự đã kết án là Tiền Quan Sách mượn cớ sửa sang đường nước, rồi theo đường nước lẻn vào giết người, nhưng vụ này vẫn còn cả đống nghi vấn chưa giải thích được.”
Vương Uẩn hỏi: “Ví như mùi linh lăng hương ta ngửi thấy ở đó ư?”
“Ừm, dĩ nhiên.” Chu Tử Tần thành thật gật đầu.
Lý Thư Bạch hỏi chen vào: “Linh lăng hương gì cơ?”
Vương Uẩn liền giải thích: “Tối hôm ấy Tích Thúy chức đi tuần thì gặp họ đi tra án, bèn theo xem thử. Những chuyện khác thì ty chức không biết, nhưng ở hiện trường lại ngửi thấy mùi linh lăng hương. Về mặt này ty chức cũng hiểu biết qua loa.”
“Ngươi là kẻ bình phẩm hương giỏi nhất kinh thành, nếu nói là chỉ biết qua loa, thì ai dám nhận mình sảnh sỏi nữa? Trong nhà Tôn ghẻ quả có mùi linh lăng hương ư?”
“Đúng thế, ngửi thấy mùi linh lăng hương trong căn nhà nát đó, ty chức cũng hết sức ngạc nhiên. Nhưng ty chức nhớ nhất là mùi linh lăng hương ở đó bị lẫn với đủ thứ mùi, rất khó nhận ra. Nhớ đến thứ mùi nồng nặc khiến người ta lợm giọng trong nhà Tôn ghẻ, Vương Uẩn nhăn mặt.
Chu Tử Tần quay sang hỏi Hoàng Tử Hà: “Công công xem có nên tới nhà Tôn ghẻ lần nữa không?”
“Ừm, trong ba vụ, tôi chỉ còn khúc mắc mỗi vụ này thôi, nếu tìm ra được cách hung thủ sát hại Tôn ghẻ trong phòng kín thì có thể kết án rồi.”
Lý Thư Bạch sực nhớ ra một chuyện, liền bảo: “Dương Sùng Cổ, ngươi cầm lệnh tín phủ Quỳ đi bảo lãnh cho Tích Thúy ra đi.”
Hoàng Tử Hà ngạc nhiên nhìn y, rồi gật đầu đầy cảm động: “Thưa vâng.”
Giờ Tiền Quan Sách là nghi phạm lớn nhất, Tích Thúy tuy có liên quan tới hai vụ đầu, nhưng Đại Lý Tự từ lâu đã không còn hoài nghi nàng. Nay có Quỳ vương ra mặt bảo lãnh cho, huống hồ Lý Thư Bạch còn kiêm nhiệm Đại Lý Tự khanh, Tích Thúy hoàn toàn có thể về nhà đợi khi nào xử án sẽ cho truyền gọi.
Chu Tử Tần thở dài: “Tích Thúy cũng thật là, kết án xong, chắc chắn cô ấy sẽ bị khép tội khai man rồi phạt trượng cho coi.”
Vương Uẩn cười nói: “Lo gì, tới lúc đó vương gia chỉ cần nói một câu với Thôi thiếu khanh, để thiếu khanh nhắc nhở người phạt trượng là xong mà.”
“Tôi là người chính trực, làm sao hiểu nổi mấy thủ đoạn đó của các người.” Chu Tử Tần vỗ trán than vãn.
Thấy Hoàng Tử Hà đã ra đến cửa, Vương Uẩn bèn đứng dậy theo: “Ta cũng phải về Tả Ngô Kim Vệ, cùng đường với Dương công công, để ta đi cùng công công!”
“Đi với đi với!” Chu Tử Tần bật dậy, “Tôi cũng phải đi lấy lòng Tích Thúy, bằng không lấy đâu đồ ngon mà ăn!”
Ba người cùng xuống lầu, chỉ còn mình Lý Thư Bạch đứng bên song cửa sổ nhìn xuống dưới.
Chu Tử Tần đi bên trái Hoàng Tử Hà, vừa đi vừa nhảy chân sáo, hoa chân múa tay ba hoa gì đó.
Vương Uẩn đi bên phải Hoàng Tử Hà, thỉnh thoảng lại nghiêng đầu nhìn cô, nở nụ cười ôn hòa quen thuộc.
Lý Thư Bạch đứng trên lầu nhìn theo cho tới khi cả ba ra khỏi chợ Tây. Ánh nắng gay gắt khiến cả thành Trường An sang rực lên, xói vào mắt y chói lóa.
Cảnh Dục và Cảnh Hữu đứng phía sau chẳng hiểu sao y đột nhiên quay ngoắt đi, không nhìn ra bên ngoài nữa.
Sau khi dừng ở cửa chợ Tây bàn bạc, ba người quyết định chia làm hai ngả, Chu Tử Tần đến phường Phổ Ninh báo tin cho Trương Hàng Anh, còn Vương Uẩn và Hoàng Tử Hà tới Đại Lý Tự trước.
Hoàng Tử Hà bảo Vương Uẩn: “Tôi chạy ù sang bên này một lát,” đoạn rẽ vào tiệm nhang đèn nhà họ Lữ.
Lão Lữ vẫn ở sau tiệm, lại đang hì hục làm một cây nến lớn, giống hệt cây bị nổ lần trước, chỉ thiếu chưa vẽ hoa văn và quết màu lên.
Hoàng Tử Hà lặng lẽ đứng ngoài quan sát, không bước vào, cũng không lên tiếng. Lão Lữ đã gần sáu mươi tuổi, nheo nheo cặp mắt mờ đục, còng lưng ngồi tỉ mẫn vẽ hình rồng phượng và hoa lá lên nến. Giữa ngày hè nóng hầm hập, lão cầm bảng màu trên tay, thỉnh thoảng còn phải lại gần lò lửa khuấy sáp lỏng.
Hơi nóng bốc lên nghi ngút, cả người lão Lữ đầm đìa mồ hôi, bộ áo chẽn nâu ướt sũng, xong lão vẫn chăm chú vẽ nến, vô cùng thành kính, không chút cẩu thả.
Vương Uẩn nhìn lão rồi nhìn sang Hoàng Tử Hà hỏi khẽ: “Sao thế?”
Hoàng Tử Hà thở dài đáp: “Không có gì. Tôi nghĩ hôm nay Tích Thúy được thả, không biết có nên báo cho cha cô ấy một tiếng không.”
“Cha con đoàn tụ là chuyện đương nhiên, phải không nào?”
Nghe Vương Uẩn nói vậy, Hoàng Tử Hà bèn cùng y bước vào tiệm, chào Lữ Chí Nguyên: “Lão Lữ.”
Lữ Chí Nguyên nheo mắt ngước lên, chẳng biết có nhận ra cô hay không, chỉ lạnh nhạt ậm ừ: “Ồ, là quý khách.”
“Ta đến báo tin mừng cho ông, Lữ Tích Thúy con gái ông hôm nay sẽ được thả, ông có muốn tới gặp cô ấy không?”
Bàn tay Lữ Chí Nguyên thoáng khựng lại, nhưng rồi vẫn thoăn thoắt vẽ tiếp: “Được thả à? Được thả thì tốt rồi, cứ sợ nó làm liên lụy đến lão.”
Hoàng Tử Hà biết tính lão già này nên cũng chẳng nhiều lời nữa, chỉ đứng ngắm nghía cây nến một hồi, chợt buột miệng: “Sắp xong rồi đấy nhỉ?”
Lữ Chí Nguyên chẳng buồn đáp, lão vốn sẵn ghét hoạn quan.
Vương Uẩn đang ngắm một đôi nến hoa trong tiệm, chợt gọi cô: “Sùng Cổ lại mà xem.”
Đôi nến hoa nọ cao chừng một thước, hình thù rất đặc biệt, một cây hình rồng, cây kia hình phượng, mỗi chiếc vảy sợi lông một màu khác nhau, chỉ riêng màu đỏ đã có đỏ nhạt đỏ thẫm đỏ son đỏ thắm đỏ phớt, vô vàn sắc độ màu đều do một tay lão Lữ chế ra, thực khiến người ta phải trầm trồ. Tài điêu khắc của lão lại càng tuyệt diệu, đôi rồng phượng trông sống động như thật, bừng bừng khí thế, trên đầu mỗi con đính một sợi bấc, dọc thân trang trí vô số hoa lá, lục lạc bằng những mảnh đồng, quả là muôn màu muôn vẻ, lấp lánh rạng ngời, khiến người ta không ngăn được ý nghĩ, chẳng biết khi đốt lên còn đẹp đến đâu.
Thấy đôi nến tinh xảo nhường ấy, Vương Uẩn ngoái lại hỏi: “Ông chủ có bán đôi nến này không?”
“Không bán.” Lão từ chối thẳng thừng.
Vương Uẩn cũng chẳng lấy thế làm điều, chỉ cười cười nói: “Thứ này bày trong tiệm, đúng là bảng hiệu đẹp nhất rồi.”
Lúc hai người bước ra cửa, chợt có cơn gió thổi qua khiến mấy chiếc lục lạc trên thân nến rung lên khe khẽ, những cánh hoa phiến lá bằng đồng cũng lay động tạo thành tiếng leng keng ngân nga như tiên nhạc.
Hoàng Tử Hà bất giác ngoái lại nhìn đôi nến.
Vương Uẩn đi bên cạnh, chợt nói khẽ: “Nếu cô thích, sau này cũng có thể đặt ông ta làm một đôi như vậy dùng khi hai ta thành hôn.”
Hoàng Tử Hà bỗng thấy lòng ngập đầy bối rối xen lẫn kinh ngạc, hai má đỏ bừng, nhưng đồng thời, cô lại có cảm giác nhói lạnh như bị kim châm đâm thẳng vào tứ chi, khiến thân hình không sao cử động.
Thấy cô cứng đờ người, Vương Uẩn chỉ liếc nhìn rồi mỉm cười, nụ cười gượng gạo mà bao dung, giọng nói vẫn dịu dàng như thế: “Ta đùa thôi, chuyện đó chờ đến khi phá được vụ án của gia đình cô rồi tính, được không nào?”
Cô chẳng biết mình nên gật hay lắc đầu nữa.
Người trước mặt biết rõ cô đã ô danh đến nhường này, còn biết cô luôn bị đàm tiếu về chuyện Vũ Tuyên, nhưng vẫn bỏ qua tất cả.
Lâu thật lâu, cô mới nghèn nghẹn đáp: “Được, đợi khi nào phá xong vụ án của gia đình tôi…”
Rồi như bị chính những lời mình vừa thốt ra đánh thức, cô sực tỉnh.
Hoàng Tử Hà, từ khi cha mẹ người thân qua đời ngươi đã thề rằng vĩnh viễn không để bất cứ việc gì ảnh hưởng đến mình nữa, quyết tâm vứt bỏ tất cả dịu dàng quyến luyến, cắt đứt vương vấn nhớ nhung, chỉ dốc lòng báo thù cho cả nhà, chẳng phải thế ư?
Vũ Tuyên, Vương Uẩn, đều không phải vấn đề cần xét đến bây giờ.
Nghĩ vậy, cô ngẩng lên cười với Vương Uẩn, giọng hơi khàn, nhưng ngữ điệu hết sức bình thản: “Vương đô úy khéo đùa, tôi là hoạn quan trong vương phủ, đời này còn thành hôn với ai được nữa?”
Vương Uẩn sững người, rồi bật cười tự giễu: “Đúng thế… Ta đùa vô ý rồi.”
Họ rời tiệm nhang đèn, lại ghé qua tiệm ngựa Tiền ký gần đó. Chưởng quầy vừa thấy Vương Uẩn vội vỗn vã chạy ra đón: “Ôi chao, Vương đô úy! Hôm nay đô úy đại giá quang lâm mà bổn tiệm thất lễ, không kịp ra ngoài nghênh tiếp rồi.”
Tiệm ngựa Tiền ký đã mấy lần bán ngựa cho Tả Kim Ngô Vệ nên chẳng lạ gì nhau, mấy người làm bên trong tức thì chạy ra đón họ vào, lăng xăng bày quả pha trà.
Vương Uẩn thấy vậy liền ngăn lại: “Ta chỉ đi ngang qua thôi, không cần bày vẽ.”
“Ôi, thực xin lỗi Vương đô úy, đô úy xem đấy, Tiền lão gia bị bắt giam rồi, chúng tôi thật không biết phải làm thế nào nữa…” Chưởng quầy đang than vãn thì Tiền phu nhân và ba đứa con từ nhà sau chạy đến, khóc lóc thảm thiết vật nài Vương Uẩn giúp đỡ.
Vương Uẩn xưa nay ôn hòa lễ độ, thấy họ kêu khóc như thế đành gượng cười phân trần: “Chuyện này ta không can thiệp được, các vị thử đến Đại Lý Tự kêu oan đi.”
“Vị…Vị quan sai này lần trước từng đến tìm lão gia, nghe nói là người của Đại Lý Tự!” Người hầu trỏ ngay Hoàng Tử Hà, bảo với chưởng quầy và phu nhân.
Lập tức cả nhà họ Tiền từ trên xuống dưới liền xúm lấy cô, Tiền phu nhân còn khóc nức lên: “Lão gia nhà chúng tôi là người tốt, hàng ngày làm gì cũng cẩn trọng, sao có thể giết người chứ…”
Hoàng Tử Hà vội đỡ Tiền phu nhân dậy: “Thực ra ta tới đây cũng có chuyện muốn hỏi, chẳng rõ các vị có biết viên cai thầu đã sửa sang nhà cửa cho Tôn ghẻ không?”
Chưởng quầy vội đáp: “Sổ sách về sửa sang phòng ốc đều để ở ngay nhà bên cạnh đây, tiểu nhân sẽ đi tìm ngay, xem hôm đó ai đến nhà họ Tôn.”
“Nếu tiện thì ông mời người đó đến ngay nhà họ Tôn ở phường Đại Ninh cho, ta còn bận chút việc, làm xong sẽ tới đó đợi ông ta.”
“Vâng vâng, tiểu nhân sẽ bảo ông ta đến ngay.”
Lòng vòng mãi, khi Hoàng Tử Hà và Vương Uẩn đến Đại Lý Tự đã thấy Chu Tử Tần và Trương Hàng Anh đợi ở đó, Trương Hàng Anh đang ẵm một đứa bé, sau lưng còn hai người lạ mặt, một nam một nữ.
“Anh trai chị dâu tôi dẫn thằng bé sang chơi, nghe nói là đi đón A Địch, bèn cùng đi luôn.” Trương Hàng Anh giới thiệu.
Anh trai Trương Hàng Anh tên Trương Hàng Vĩ, dáng người cao to không kém em trai. Hai vợ chồng y rụt rè cười: “A Địch là người nhà chúng tôi, đương nhiên phải đi đón cô ấy về.”
Chu Tử Tần xen vào: “Trương lão gia cứ khăng khăng đòi đi, nhưng ông ấy vừa khỏi bệnh, chúng tôi phải khuyên ngăn mãi, nếu không lão gia cũng đến rồi.”
Thấy nhà họ Trương thật lòng yêu thương Tích Thúy như thế, Hoàng Tử Hà cũng nhẹ lòng, bèn mỉm cười gật đầu: “Mọi người đợi cho một lát, tôi vào đón A Địch ra.”
Thực không ngờ Thôi Thuần Trạm vẫn ở nha môn chưa về nhà, hơn nữa trông còn rất vui vẻ, vừa thấy cô đã tươi cười hỏi: “Dương công công lại phụng lệnh vương gia ư?”
Hoàng Tử Hà hành lễ rồi đưa lệnh tín của Quỳ vương phủ ra: “Vương gia nói vụ này đã tìm được kẻ bị tình nghi nhiều hơn, huống hồ khi công chúa qua đời, Lữ Tích Thúy đang bị giam, không có khả năng gây án, nên sai tôi đến thương lượng với Thôi thiếu khanh xem có nên cho Lữ cô nương về nhà chờ thẩm vấn không, chứ cứ giữ cô ta mãi như vậy có phần không ổn lắm.”
“Ồ, chuyện này đơn giản mà.” Thôi Thuần Trạm quay sang bảo viên tri sự bên cạnh mang một tờ đơn đến để Hoàng Tử Hà điền vào, rồi đích thân cùng cô đi thả Lữ Tích Thúy.
Dọc đường đi qua mấy gian phòng bỏ không, Hoàng Tử Hà thuận miệng hỏi: “Không biết Tiền Quan Sách bị giam ở đâu?”
“Hắn ta ấy à? Chuyển đến đại lao bộ hình rồi.” Thôi Thuần Trạm thản nhiên đáp: “Nhân chứng vật chứng đầy đủ, sáng nay hắn đã cung khai rồi.”
Hoàng Tử Hà sững sờ: “Khai rồi ư?”
“Đúng thế.” Bị đôi mắt trong veo như soi thấu tất cả của cô nhìn chằm chặp, Thôi Thuần Trạm chột dạ ngoảnh đi, né tránh ánh mắt cô, hạ giọng nói: “Dương công công, vụ này… kết thúc rồi. Phá án nhanh như thế, chứng cứ lại rõ ràng, thánh thượng và Quách thục phi đều hài long, Đại Lý Tự lập được công lớn, bộ Hình cũng có cái mà ăn nói, không phải kết cục tốt nhất hay sao?”
Hoàng Tử Hà đứng lặng dưới mái hiên mờ tối, hồi lâu mới cất tiếng: “Tiền Quan Sách… Làm thế nào mà khai?”
“Làm thế nào, công công còn không biết ư?” Thôi Thuần Trạm dán mắt nhìn xuống nền gạch xanh dưới mái hiên, thở dài bất lực: “Bộ Hình phái một tay lệnh sử(*) lợi hại nhất đến, đem theo cả bộ đồ nghề. Nghe nói hắn đã tra tấn hơn một trăm hai mươi người, không kẻ nào không khai nhận, Tiền Quan Sách cũng… chẳng phải ngoại lệ.”
(*) Chức vụ phụ tá cho huyện lệnh. Lệnh sử có thể làm nhiều công việc, viên lệnh sử được nói tới ở đây là đến tra khảo.
Hoàng Tử Hà nhíu mày: “Hắn nhận cả việc giết công chúa ư?”
“Nhận rồi. Chiều qua nhận giết Tôn ghẻ, đến tối nhận Ngụy Hỷ Mẫn, sáng sớm nay thì khai nhận sát hại công chúa.”
Hoàng Tử Hà thấy lòng lạnh buốt, thẫn thờ thốt lên: “Quả là thủ đoạn ghê gớm.”
“Bản án đã được cấp tốc sao chép lại, trình lên hoàng thượng, hẳn lát nữa trong cung sẽ có ý chỉ truyền ra.”
Thì ra hôm nay Thôi thiếu khanh ăn trưa xong còn chưa về nhà, là vì phải đợi ý chỉ.
Hoàng Tử Hà trầm ngâm, chợt nghe sau lưng có tiếng xích sắt xủng xoảng, rồi Tích Thúy được dẫn ra. Bị giam mấy ngày, nàng có phần tiều tụy ngơ ngác, trông thấy Hoàng Tử Hà mới gượng gạo mỉm cười.
“Lữ Tích Thúy, hôm nay ngươi được phủ Quỳ vương bảo lãnh, tạm thời cho về phường Phổ Ninh. Trước khhi bản án kết thúc, nếu bộ Hình và Đại Lý Tự cần thẩm vấn, sẽ cho triệu đến, rõ chưa?”
“Thưa, rõ.”
Hoàng Tử Hà giúp nàng gấp hết chăn màn Trương Hàng Anh đem đến, ôm theo ra khỏi Đại Lý Tự.
Vừa rời Đại Lý Tự, Tích Thúy đã trông thấy Trương Hàng Anh đứng đợi bên ngoài, tức thì lộ vẻ mừng rỡ xen lẫn buồn thương, nức nở gọi: “Trương nhị ca!”
Trương Hàng Anh vội đặt đứa bé xuống, chạy như bay lên thềm, ấp chặt hai tay Tích Thúy trong lòng bàn tay mình áp lên ngực, đăm đăm nhìn nàng hồi lâu mới nghẹn ngào bảo: “A Địch, chúng ta… về nhà thôi.”
Những người đứng đó thấy hai người như vậy đều mỉm cười đầy thấu hiểu. Ngay cả đứa bé được chị dâu Trương Hàng Anh dắt cũng giơ tay vẫy vẫy Tích Thúy: “Tỷ tỷ… Tỷ tỷ…”
Rồi, nó đột ngột quay đi, gập người xuống gọi với ra ngoài cửa nha môn: “Ca ca, ca ca!”
Thấy đứa nhỏ sắp vùng ra, anh trai Trương Hàng Anh vội chạy đến bế xốc nó lên, quay đầu nhìn ra đường.
Chỉ thấy một nam tử dáng người dong dỏng vừa đi ngang qua gốc du bên đường, nghe đứa bé gọi, liền quay đầu nhìn sang bên này.
Con phố hết sức bình thường, chỉ vì một cái ngoái đầu này mà sang bừng lên.
Ánh mắt Hoàng Tử Hà sững lại trên mặt hắn, hơi thở cũng ngưng một nhịp. Nắng hè chói chang, nóng như lửa đốt, còn lòng cô đau đớn như nghẹt thở.
Giữa ngày hè nóng bức, người kia lại toát ra khí chất thanh tĩnh mát lạnh, không vướng bụi trần, dáng dấp cao gầy như một cây trúc non, tỏa hào quang nhàn nhạt.
Hắn mỉm cười tiến lại, giơ tay ôm lấy đứa nhỏ cứ nhoài người về phía mình, đùa với nó: “Ra là A Bảo, còn nhớ ca ca ư?”
Hoàng Tử Hà lặng lẽ lùi lại một bước, nấp sau gốc đại thụ ở cửa Đại Lý Tự, tránh phá vỡ bầu không khí.
Người nhà họ Trương nhận ra hắn là ân nhân đã đưa đứa bé về nhà, vội chạy lại cảm tạ.
Vũ Tuyên giơ tay che nắng cho đứa bé, rồi ẵm nó đến dưới bóng cây. Chu Tử Tần vội sán đến, ngưỡng mộ hỏi: “Không biết huynh đài tên họ là gì? Lần trước nghe Trương nhị ca tả huynh là một nhân vật như thần tiên, ta còn không tin, hôm nay tận mắt chứng kiến mới thấy quả không sai!”
Vũ Tuyên nghe nói chỉ cười đáp: “Chuyện vặt ấy mà, đâu đáng nhắc đến.”
Rõ ràng là hắn không định tiết lộ tên họ, xong Chu Tử Tần vẫn bám nhằng nhẵng: “Ta tên Chu Tử Tần, nhà ở phường Sùng Nhân, cạnh mộ Đổng Trọng Thư, chẳng hay huynh đài tên họ là gì, sống ở đâu? Ta có khá nhiều bạn bè trong kinh, chắc chắn họ sẽ rất mến huynh, sau này chúng ta có thể hẹn nhau ngâm thơ làm văn, nghe nhạc uống rượu, du sơn ngoạn thủy, đi chơi xuân, đánh mã cầu… Phải rồi, tôn tính đại danh huynh đài là gì vậy, ta phải xưng hô thế nào đây?”
Gặp phải hạng người dai dẳng thế này thực chẳng có cách nào thoát nổi, hắn đành đặt đứa bé xuống, chắp tay hành lễ: “Tại hạ Vũ Tuyên, là học chính Quốc Tử Giám.”
“Gì cơ? Huynh là học chính Quốc Tử Giám?” Chu Tử Tần giật nảy mình, “Bất công hết chỗ nói! Sao năm xưa ta ở Quốc Tử Giám, toàn gặp phải mấy lão đầu râu tóc bạc! Nếu bấy giờ có một học chính như huynh, thì ta đâu đến nỗi phải trốn học đi chọc tổ chim chứ?”
Vũ Tuyên giải thích: “Tại hạ mới được tiến cử vào kinh chừng một tháng thôi. May mắn lọt mắt xanh của tế tửu Quốc Tử Giám nên tạm thời được phân giảng dạy phần Chu Lễ.”
“Huynh giỏi thật đấy! Trẻ thế này mà đã làm học chính Quốc Tử Giám rồi! Ta đến giờ còn chưa thuộc hết Chu Lễ nữa!” Nói đến đây. Chu Tử Tần chợt sững ra, hỏi lại: “Vũ Tuyên… học chính Quốc Tử Giám ư?”
Hắn gật đầu, không nói gì thêm.
Nhìn vẻ tò mò pha lẫn kinh ngạc của Chu Tử Tần, Hoàng Tử Hà biết gã đang nghĩ đến lời đồn đại về quan hệ khác thường giữa Đồng Xương công chúa và Vũ Tuyên lâu nay vẫn xôn xao kinh thành.
Nỗi buồn âm thầm len vào lòng, cô mệt mỏi tựa vào thân cây, lặng lẽ lắng nghe hơi thở của mình.
Vũ Tuyên không để ý tới ánh mắt lạ lùng của Chu Tử Tần, chỉ cười cúi xuống xoa đầu A Bảo rồi cáo từ hai anh em họ Trương: “Tôi còn có việc ở Quốc Tử Giám, phải đi trước đây.”
Trương Hàng Anh vội kéo Tích Thúy lại giới thiệu: “Đây là… vợ chưa cưới của tôi, chúng tôi sắp thành hôn, tới khi ấy mời huynh đến uống ly rượu mừng, huynh không được từ chối nhé.”
Vũ Tuyên nhìn Tích Thúy rồi gật đầu cười, không nói gì.
A Bảo cứ nắm chặt lấy tay hắn, ríu rít gọi: “Ca ca, ca ca…”
Vũ Tuyên bèn quay lại, ngồi xuống nhìn vào mắt A Bảo mỉm cười dỗ dành: “Ngoan nào, A Bảo thích ăn gương sen đúng không? Để ca ca đi tìm xem, nếu thấy sẽ mua về cho A Bảo, được không nào?”
A Bảo nghiêng đầu nghĩ ngợi, rồi buông tay ra, gật đầu lia lịa: “Được, A Bảo muốn hai cái cơ.”
“Ba cái cũng được.” Vũ Tuyên cười, xoa đầu A Bảo, đứng dậy hành lễ cáo từ rồi quay người đi thẳng, sau khi ngoặt vào một con hẻm thì khuất bóng.
Chu Tử Tần ngưỡng mộ bình phẩm: “Đúng là khéo dỗ trẻ con.”
Hoàng Tử Hà dựa vào gốc cây, nói khẽ như tự lẩm bẩm: “Đúng thế… rất giỏi gạt trẻ con, từ xưa đến giờ vẫn vậy.”
Trong nháy mắt, cô chợt thấy thoáng qua quang cảnh một buổi chiều hè, hoàng hôn rực rực rỡ, gió sen lồng lộng. Vũ Tuyên cúi xuống còn cô ngước lên, thấy rõ hình bóng mình in trong đáy mắt sâu thẳm mênh mang của hắn, có điều, ảo ảnh ấy chỉ vụt qua rồi biến mất.
Cô hít một hơi thật sâu, xác nhận mình đã bình tĩnh lại, mới từ sau gốc cây đi ra.
Chu Tử Tần vừa thấy cô đã liến thoắng khoe: “Sùng Cổ! Vừa nãy công công đi đâu thế? Có thấy người vừa rồi không? Ta sống sở Trường An hai mươi năm nay, chưa từng gặp ai phong tư trác tuyệt, khí độ thanh cao như thế, nếu công công không thấy thì thực đáng tiếc!”
Hoàng Tử Hà đang không biết trả lời thế nào thì một thót ngựa từ phía cung Đại Minh chạy tới, người trên ngựa nhảy xuống lao thẳng vào trong: “Thánh thượng có khẩu dụ, Đại Lý Tự thiếu khanh Thôi Thuần Trạm ở đâu?”
Thôi Thuần Trạm lật đật chạy ra tham kiến: “Công công, không biết thánh thượng hạ ý chỉ thế nào?”
Vị công công nọ tên Phùng Nghĩa Toàn, hầu hạ bên ngài ngự, giọng sang sảng như chuông đồng, vừa cất tiếng đã vang khắp trong ngoài nha môn: “Thánh thượng có chỉ, tội phạm giết hại Đồng Xương công chúa bị lăng trì tùng xẻo, tịch thu gia sản, cả nhà bất luận già trẻ lớn bé đều xử trảm.”
Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần nhìn nhau, không giấu được vẻ ngạc nhiên.
Trương Hàng Anh và Lữ Tích Thúy nắm chặt tay nhau, đều cảm thấy tay người kia dấp dính mồ hôi lạnh.
Chu Tử Tần ghé tai Hoàng Tử Hà hỏi nhỏ: “Chúng ta còn điều tra nữa hay thôi?”
Hoàng Tử Hà hỏi lại: “Công tử nói xem?”
“Chân tướng vụ án còn chưa rõ, sao có thể bỏ qua?” Chu Tử Tần bừng bừng nhiệt huyết, siết chặt hai tay đặt lên ngực.
Hoàng Tử Hà gật đầu: “Đi thôi.”
“Đi đâu?”
“Tới phường Đại Ninh, nhà Tôn ghẻ.”

Q.2 – Chương 21: Hồi 19: Than Thở Trăm Năm

Lúc Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần đến nhà họ Tôn, đã thấy một người đàn ông trung niên cao to thuần hậu bồn chồn đứng đó đợi. Nhác thấy bóng họ, ông ta vội bước lên đón: “Dương công công phải không? Tiểu nhân là Chử Cường, người làm ở tiệm ngựa Tiền Ký, lần trước chính tôi cùng các anh em dưới quyền sửa nhà cho Tôn ghẻ.”
“A, là cai thầu Chử.” Trong lúc Hoàng Tử Hà chào hỏi ông ta, Chu Tử Tần đã nhanh nhẹn gỡ giấy niêm phong trên cửa ra.
Đồ đạc bên trong vẫn y nguyên như lần trước, chỉ là mấy hôm đóng kín cửa, không khí trong nhà càng hầm hập như nung, mùi hôi xộc nên nồng nặc.
Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần lại rà soát cửa sổ và nền đất một lượt, rồi bảo Chử Cường: “Các vị làm khá thật, cửa sổ rất chắc chắn.”
“Thưa vâng, thế nên tiệm Tiền Ký mới lấn sang lĩnh vực sửa sang nhà cửa chưa lâu, nhưng đã có tiếng trong kinh, mọi người đều tín nhiệm!” Chử Cường tự đắc vỗ vào ván cửa sổ bằng gỗ bản: “Công công xem, nếu cài chốt vào thì gậy sắt cũng không đánh bật ra được! Cái then này chấp cả bốn năm trai tráng cũng đừng hòng xô gãy!”
Hoàng Tử Hà gật đầu tán đồng, rồi đứng dậy đi một vòng quanh nhà.
Phòng ốc vẫn lộn xộn ngổn ngang, tường treo đầy bùa chú, tượng Phật, tượng gỗ. Chử Cường chỉ những thứ này nói: “Lúc chúng tôi tới đã thất mấy thứ này rồi. Tôn ghẻ có tật giật mình nên đem treo khắp nơi trong nhà, nói là sợ trời phạt!”
Hoàng Tử Hà hỏi: “Ông biết hắn ta không có tiền, lại chẳng phải hạng tử tế gì, sao còn nhận lới sửa nhà giúp?”
“Ôi chao, chẳng vẫn nghe đồn tên Tôn ghẻ này rủng rỉnh tiền của ư, lão Lữ ở tiệm nhang đèn kể rằng đã được hắn bồi thương rất nhiều tiền, nên mới tha cho đấy. Ai ngờ tên khốn này đền tiền xong thì chẳng còn xu nào nữa, hại tôi bị ông chủ Tiền mắng như tát nước vào mặt, giờ người chết rồi, nợ biết đòi ai!” Chử Cường hối hận ra mặt, hậm hực nhận xét: “Lão Lữ cũng chẳng tử tế gì, vốn đã đi theo để đặt đế đèn, vừa thấy là nhà Tôn ghẻm lão liền biến sắc, trỏ mặt họ Tôn chửi cho một chặp rồi đi thẳng, chẳng thèm đặt đế đèn nữa, thế mà không hề hé răng bảo cho tôi biết Tôn ghẻ đã hết tiền!”
Chu Tử Tần không hứng thú với việc tranh chấp tiền nong, nhân lúc hai người trò chuyện, gã lần lượt gỡ hết những tấm bảng phổ độ chúng sinh trên tường, tranh Quán Âm ban con treo trên đầu giường và mấy lá bùa nhăng cuội xuống xem, nhưng chẳng thấy lỗ hổng nào trên bức tường phía sau cả, liền hậm hực ra mặt.
Hoàng Tử Hà phân tích: “Mặt tường bằng phẳng như thế, làm sao có lỗ hổng bên trong được?”
“Biết đâu đấy.” Chu Tử Tần miệng nói, chân đã giẫm nên bậu cửa, định gỡ tấm bảng sắt Mục Liên cứu mẹ trên đỉnh khung cửa xuống, nào ngờ gỡ mãi không được,gã tiện tay gõ gõ mấy cái, phát hiện ra đó là một chiếc hộp dài rỗng không, gắn vào tường.
Chử Cường vội ngăn lại: “Ồ, cái đó không gỡ xuống được đâu, hộp sắt đặt trong tường đó là cái giá đỡ khung cửa đấy.”
“Để làm gì vậy?” Chu Tử Tần hỏi.
Chử Cường giải thích: “Ban đầu là ông chủ Tiền nhà chúng tôi học được cái này ở chỗ mấy thương nhân Tây Vực, nghe nói bên đó họ thích đặt một chiếc hộp sắt rỗng, chạm trổ hoa văn rất đẹp, dài bằng chiều rộng cửa lên đỉnh khung cửa, coi như đặt một miếng giảm xóc giữa khung cửa và bức tường, như vậy khung cửa sẽ không bị biến dạng. Về sau trong kinh dẫn dần thịnh hành, chúng tôi đến xưởng rèn đặt làm hơn một trăm chiếc, chưa đầy năm đã sắp hết tới nơi. Cái này là tôi chọn bừa, hình khắc bên trên hình như là… Mục Liên cứu mẹ phải không?”
“Hình như thế.” Chu Tử Tần kê ghế đứng lên cao ngang tầm chiếc hộp quan sát rồi nhận xét: “Đúng là chạm rỗng, tiếc rằng cứ đen sì, nếu thêm ít sơn vào có phải đẹp không.”
Hộp sắt dài bằng chiều rộng khung cửa, cao chừng hai tấc. Mặt hướng vào trong chạm rỗng hình Mục Liên cứu mẹ, mặt hướng ra ngoài thì đặc ruột, vẽ hoa văn cát tường, xong đã nứt rạn đen sì, nhìn rất xấu xi.
“Đương nhiên là phải sơn rồi… Ô, rõ ràng lúc gắn lên, tôi gắn cái mới cho hắn kia mà, kẻ nào lại đổi thành thứ đen kịt như đã dùng mấy năm vậy?” Chử Cường ngẩng lên nhìn chiếc hộp đèn sì, nhíu mày: “Sao thế nhỉ, mới mấy hôm mà đã ám khối đen sì thế này rồi? Lúc trước có hoa văn sặc sỡ mà.”
Chu Tử Tần nhìn qua lớp hoa văn chạm rỗng vào bên trong hộp, cũng cau mày: “Bẩn quá… Toàn là tro than.”
Hoàng Tử Hà lật đật bê ngay một chiếc ghế kê cạnh ghế của Chu Tử Tần rồi trèo lên nhìn vào trong hộp. Chỉ thấy lớp sơn bên ngoài cháy đen như bị lửa thiêu, bên trong hộp toàn tro, ở góc còn có mất vết ngón tay quẹt qua.
“Có người thò ngón tay qua lỗ hổng, lấy thứ bên trong ra.” Hoàng Tử Hà nhận xét, rồi ngoái lại hỏi Chử Cường: “Cái hộp này mở ra được không?”
“Hộp bằng sắt mỏng ấy mà, muốn mở thì lấy kéo cắt ra là xong.”
Chu Tử Tần tìm được một cây kéo gỉ ngoèn, bèn cắt rời hoa văn Mục Liên cứu mẹ ra, trong hộp chỉ có một cái khung sắt và lớp tro dày, trên lớp tro còn in hằn một vài vết tích.
Chu Tử Tần trỏ một vết khá lớn nhận xét: “Nhìn cái này này, có vẻ vật bị lấy ra là hình tròn.”
Lại trỏ một vết dài mảnh: “Nhìn cái này, thì có vẻ là thứ gì đó làm bằng sợi sắt mảnh.”
Hoàng Tử Hà nhíu mày, săm soi dấu vết hình tròn khá lớn kia: “Nhìn độ lớn này, công tử có thấy là không thể móc một vật hình tròn to như thế qua lỗ hổng bé thế này không?”
Chu Tử Tần dùng ngón tay ước lượng độ lớn của vật tròn, rồi lại gí ngón tay đo chiều rộng lỗ hổng trên mặt hộp sắt mà mình vừa cắt rời ra, ngỡ ngàng nhận xét: “Đúng thật… Chỗ lỗ hổng lớn nhất cũng vẫn nhỏ hơn kích thước vật kia! Công công xem, dài mất là mấy đám mây này, phải đến hai ba tấc ấy, nhưng lại hẹp bề ngang…”
“Bởi vậy thứ đó nhất định không phải hình tròn, chỉ là cong cong thôi.” Vừa nói cô vừa quệt ít tro trong hộp ngửi thử, không giấu được nụ cười: “Linh lăng hương.”
Giữa gian phòng tranh tối tranh sáng, không khí lởn vởn bụi bặm, nụ cười vui sướng của cô vì vạch trần được âm mưu chợt bừng lên rạng rỡ, khiến Chu Tử Tần nhìn mà ngẩn ngơ.
Hoàng Tử Hà rút khăn tay ra, quệt ít tro đen trong hộp gói lại. Ngẩng lên thấy Chu Tử Tần vẫn đờ đẫn nhìn mình, cô buột miệng hỏi: “Sao thế?”
“Ờ…” Chu Tử Tần vội nhìn lảng đi nơi khác, luống cuống quệt vội ít tro, chống chế: “Ta cũng lấy một ít về kiểm nghiệm xem có phải linh lăng hương không.”
Rời phường Đại Ninh, Chu Tử Tần đi về hướng Tây Nam, còn Hoàng Tử Hà đi về hướng Đông Nam, mỗi người một ngả.
Đi đến phường Hưng Ninh, Hoàng Tử Hà chợt thấy rất nhiều người chậy rầm rập trên đường, có kẻ còn la lớn: “Mau tới Thập Lục trạch đi! Chậm là hết đó!”
Hoàng Tử Hà không hiểu chuyện gì, đương ngỡ ngàng chợt thấy một bà lão đang chạy thì bị đám đông xô ngã nhào, miệng kêu ôi chao. Cô vội chạy tới đỡ bà ta lên, hỏi: “Các vị chạy đi đâu vậy?”
“Ối chao, nghe nói thánh thượng và Quách thục phi đang rải tiền khắp phố ở khu Thập Lục trạch, gần phủ công chúa ấy. Chúng tôi đi nhặt tiền chứ đi đâu nữa!”
Hoàng Tử Hà chẳng hiểu đầu đuôi ra sao, đành chạy theo dòng người.
Đến nơi, thấy cả đám đông đang vây chặt cửa phủ,ai nấy đều lom khom nhặt gì đó dưới đất, cô đành níu một người đang nắm chặt vật vừa nhặt được trong tay hỏi: “Đại ca, nghe nói thánh thượng và Quách thục phi đang rải tiền, đúng không?”
“Rải tiền cái gì? Đúng là phàm tục!” Người trông như ăn sĩ nọ xòe tay ra cho cô xem. Trong lòng bàn tay ông ta là một đóa hoa cài đầu bằng bạc khảm trân châu, tinh xảo hoa mỹ, hẳn là đồ trang sức trong cung.
“Vừa rồi thánh thượng và Quách thục phi giá lâm phủ công chúa để xem điệu Than thở trăm năm mà Lý Khả Cập mới dựng, gấm đoạn trải dài suốt dọc đường thánh giá đi từ trong cung Đại Minh tới đây, mấy trăm người vừa ca vừa múa, hoa cài đầu rơi lả tả, những kẻ này đều kéo đến để nhặt đó.”
Hoàng Tử Hà sực hiểu ra, bèn lắng tai nghe, quả nhiên lẫn trong tiếng lao nhao của đám đông, vẫn loáng thoáng nghe thấy tiếng ca múa tờ bên trong vẳng lại.
Cô tránh cửa lớn, lánh đến nơi vắng người, quả nhiên nghe rõ mồn một tiếng mấy trăm người đồng ca. Âm điệu bi ai uyển chuyển khiến cô đứng xa xa nghe mà cũng thấy nao nao trong dạ, chạnh lòng buồn thương vô cớ.
Hoàng Tử Hà dựa vào tường, lặng lẽ ngẩng đầu nhìn trời. Chiều hạ lặng gió, tiếng ca sầu thảm từ xa đưa lại như cứa vào lòng, khiến nước mắt cô cứ thế lăn dài.
Tự thấy mặt mình nhạt nhòa nước mắt sẽ rất khó coi, cô lần tìm khăn tay để lau, nhưng lại sực nhớ ra khăn tay đã dùng gói mấy dúm tro tàn khi nãy. Cầm trong tay gói tro linh lăng hương, còn đang bần thần, Hoàng Tử Hà chợt thấy một chiếc khăn tay trắng muốt chìa ra từ phía sau.
Cô ngoái lại, mở to mắt, nhìn qua màn lệ nhạt nhòa.
Là Vũ Tuyên.
Hắn vận chiếc áo thiên thanh, đứng giữa con hẻm xám nhờ, màu sắc rất thanh nhã, dung mạo rất thuần tịnh.
Cô chầm chậm đưa tay nhận lấy chiếc khăn, ấp lên mặt.
Nước mắt nóng bỏng thấm vào lần vải mềm mịn, chẳng còn dấu vết.
Rồi như vừa bị rút cạn sức lực, Hoàng Tử Hà bất giác dựa người vào tường, vùi mặt trong chiếc khăn tay hắn đưa, thật lâu chẳng chịu ngẩng lên.
Trong chiếc khăn là mùi hương của hắn, nhẹ nhàng mà hư ảo, là đóa sen chớm nở ngày hạ, là nhụy mai rơi rụng mùa đông, là lửa nóng, cũng là băng giá trong giấc mơ của cô.
“Ta trông thấy muội, từ lúc ở Đại Lý Tự.” Giọng hắn nhẹ nhàng cất lên, tuy còn hơi mơ màng, nhưng vẫn rành rọt lọt vào tai cô: “Muội nấp sau gốc cây, tránh mặt ta. Cũng phải, dù gặp mặt, thì có thể nói gì đây?”
Qua giọng nói chậm rãi ấy, cô nghe được rất rõ nỗi bi ai và lưỡng lự trong lòng hắn.
Hắn cũng như cô, hắn đang hồi tưởng lại những ngày đầm ấm bên nhau, những điều không thể quên, cũng không thể chết.
“Ta đã gặp cô nương ấy, muội cứu cô ấy từ Đại Lý Tự ra đúng không?” Vũ Tuyên ngẩng lên nhìn những đóa mây trắng đến lóa mắt trên đầu, giọng chậm rãi mà xa xăm, “Dọc đường về, ta cứ nghĩ mãi. Nhớ lại năm xưa, chỉ vì một câu cần cân nhắc trên hồ sơ, muội cũng lặn lội ngàn dặm, đi suốt ngày đêm lật lại bản án giúp người dưng. Dù giờ đây phải gánh đủ thứ tiếng xấu, bị dồn vào chân tường, muội vẫn dốc sức giúp đỡ người khác. Vậy mà kẻ thân thiết với muội nhất trên đời là ta lại khăng khăng cho rằng muội là hung thủ, thực… uổng phí tình cảm bấy nhiêu năm nay.”
Hoàng Tử Hà cắn môi nín lặng, nhưng bờ vai run bần bật đã bán đứng cô.
Vũ Tuyên thở dài, dịu dàng giữ lấy vai cô.
Trước đây, họ từng thân mật hơn thế này nhiều. Nhưng lâu ngày không gặp, lần đầu tiên chạm lại vào nhau, Hoàng Tử Hà bất giác nghiêng người né tránh, khiến bàn tay Vũ Tuyên đang vươn ra bị hẫng.
Hồi lâu, hắn mới lặng lẽ rút tay lại, nói khẽ: “Muội không nên nói với ta nhưng lời ấy, cũng không nên làm những việc đó, nếu không ta đời nào tin muội gây ra chuyện tày đình như vậy, bất luận thế nào cũng không tin.”
Hoàng Tử Hà gập chiếc khăn lại, vẻ mặt bình thản, trừ khóe mắt hơi đỏ thì chẳng còn gì khác thường.
Cô hỏi ngược lại: “Muội đã… nói gì với huynh? Muội đã làm gì?”
Hắn nhìn cô chăm chú, giọng rất khẽ, xong lại hết sức rành rọt: “Đêm trước khi cả nhà muội qua đời, lúc muội từ Long Châu trở về, ta đến tìm, thấy… muội đang nhìn chằm chằm gói tỳ sương trong tay, vẻ mặt rất lạ.”
Hoàng Tử Hà tròn mắt ngạc nhiên nhìn Vũ Tuyên: “Gì cơ?”
“Đêm hôm đó, chính hôm muội vừa từ Long Châu trở về ấy. Ta còn nhớ muội gửi cho ta một bức thư, viết rằng vụ án ở Long Châu là vì cô con gái bị người nhà chia uyên rẽ thúy, bèn bỏ cỏ đoạn trường vào thức ăn, đầu độc chết cả nhà. Muội còn bảo, nếu đôi ta lâm vào cảnh ngộ ấy, chẳng rõ muội có vứt bỏ người nhà, bước lên con đường không thể quay đầu hay không.” Ánh mắt Vũ Tuyên nhìn cô đầy đau đớn, “Đọc được câu đấy, ta rất lo lắng, thấy muội vừa về lại lấy tỳ sương ra xem, liền khuyên muội vứt đi, nhưng muội chỉ cất vào tủ khóa lại rồi nói, biết đâu thứ này có thể giúp đôi ta được ở bên nhau.”
Hoàng Tử Hà ngỡ ngàng nhìn Vũ Tuyên, như nhìn một người xa lạ: “Muội nhớ chuyện ở Long Châu, cũng nhớ nội dung bức thư ấy, nhưng muội không nhớ mình từng lấy tỳ sương ra… càng không nhớ mình đã nói câu đó!”
Vũ Tuyên nhìn xoáy vào cô, ánh mắt sắc như dao, nhưng chỉ thấy mặt cô đầy vẻ ngạc nhiên và đau xót, chẳng có gì sơ hở.
Mặt Vũ Tuyên hơi tái đi, hắn day day thái dương, hơi thở cũng nặng nề vì kích động, khó nhọc nói: “A Hà, xem ra, đúng là ta hiểu lầm hành động khi đó của muội rồi… Có điều lúc đó muội cầm gói tỳ sương, nét nặt rất đáng sợ, mà ngay tối hôm ấy, cả nhà muội lại chết vì tỳ sương… Muội bảo ta làm sao tin muội đây?”
“Không thể nào!” Hoàng Tử Hà run rẩy cắt lời, “Sau khi mua tỳ sương về, muội lập tức khởi hành đi Long Châu, tới tận lúc về cũng chưa động vào nó! Sao huynh lại thấy muội cầm gói tỳ sương được?”
Vũ Tuyên nhìn cô chằm chằm, con người tiêu sái thanh tinh như hắn, lúc này cũng lộ vẻ kinh hoàng, cứ lẩm bẩm mãi mấy chữ: “Không thể nào? Không thể nào…”
Nóng và lạnh, máu me và quạnh hiu, mệnh vận không thể đoán trước cùng ý trời khôn lường đều đổ sụp lên người họ.
“Dương Sùng Cổ.”
Phía sau chợt vang lên một giọng nói lạnh lùng đến gần như vô tình, phá vỡ bầu không khí im phắc như chết giữa hai người.
Hoàng Tử Hà ngoái lại, thấy Lý Thư Bạch đang đứng đầu ngõ bất động nhìn cả hai. Ánh sáng từ sau lưng y hắt lại, không trông rõ nét mặt y, chỉ thấy đường nét gương mặt toát lên áp lực vô hình, không thể trốn thoát.
Cuối cùng, cô nhìn thấy đôi mắt trong veo sâu thẳm của y, bỗng sực tỉnh khỏi trạng thái mơ màng ngơ ngẩn, nhận ra mình đang đứng giữa một con ngõ vắng tanh. Khúc Than thở trăm năm sâu thẳm vẫn vọng lại từ đằng xa, giục người rơi lệ, tiếng nhạc văng vẳng giữa bầu không, tựa hồ lấn át cả mây trời, khiến mấy ngừng trôi.
Vũ Tuyên phía đối diện dường như cũng đã định thần lại, tuy trán còn xâm xấp mồ hôi lạnh, nhưng vẻ mặt đã bình thản như thường.
Hắn cúi đầu hành lễ với Lý Thư Bạch rồi quay người bỏ đi, trước khi đi còn ngước nhìn cô.
Hoàng Tử Hà cũng lặng lẽ nhìn hắn, trên gương mặt tái nhợt là vô vàn ưu tư phức tạp, khiến cô ngập ngừng, muốn nói lại thôi.
Vũ Tuyên khẽ hỏi: “Lần trước muội nói muốn về Thục tra rõ chân tướng ư?”
Hoàng Tử Hà gật đầu: “Muội nhất định sẽ về.”
“Vậy ta ở Thành Đô đợi muội.”
Ánh mắt Vũ Tuyên đăm đăm nhìn vào mắt cô, hệt như lần đầu gặp gỡ, hồi ấy cô còn chưa hiểu tình yêu là gì, nhưng khi nhìn vào đôi mắt đắm đuối của hắn, cô đã thấy bóng mình in trong đó.
Chẳng ai biết được, trong khoảnh khắc ấy, cô đã từ một cô bé trở thanh thiếu nữ.
Lúc Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà bước vào phủ Đồng Xương, đội múa Than thở trăm năm đã giải tán.
Trên nền đá sáng lóa dưới nắng, châu ngọc vương vãi khắp nơi càng lấp lánh chói mắt. Thi thể Đồng Xương công chúa đã nhập quan, nhưng trong phòng vẫn đặt đầy nhưng khối những khối băng lớn có nhỏ có.
Bên cạnh còn một cỗ áo quan nhỏ hơn, đặt thi thể Vân nương, bà vú của công chúa, vết hằn vẫn rành rành trên cổ, vẻ mặt nhăn nhó đến tuyệt vọng, cùng công chúa đi vào giấc ngủ vĩnh hằng.
Hoàng đế và Quách thục phi ngồi giữa đại sảnh, các cung nữ và hoạn quan phía sau đều đang lau nước mắt. Ngài ngự trông hết sức giận dữ, cơn giận của nỗi tuyệt vọng không thể phát tiết, tích tụ lại mà thành.
Vừa nhác thấy Lý Thư Bạch dẫn theo Hoàng Tử Hà bước vào, mấy hoạn quan và cung nữ bên cạnh hoàng đế liền thở phào nhẹ nhõm. Thấy Lý Thư Bạch đưa mắt nhìn Vân nương, hoàng đế nói: “Công chúa một mình dưới đó thì lạnh lẽo quá, nên trẫm cho Vân nương xuống tiếp tục hầu hạ công chúa.”
Dù sao người cũng đã chết, nên Lý Thư Bạch chỉ lặng thinh, ngồi xuống bên cạnh hoàng đế.
Quách thục phi bưng mặt nức nở: “Còn mấy thị nữ và hoạn quan nữa, những người khác thì thôi, nhưng mấy kẻ đó chuyên hầu hạ bên cạnh công chúa, công chúa xảy ra chuyện, chúng cũng phải chịu trách nhiệm!”
Hoàng đế nghĩ ngợi hồi lâu rồi chậm rãi nói: “Lần trước Dương công công đã xin tha cho chúng, trẫm nghĩ cũng có lý, cứ tạm gác chuyện đó lại đi.”
“Hoàng thượng thương hại chúng, nhưng thiếp lại lo Linh Huy ở dưới đó cô đơn!” Quách thục phi khóc nấc lên, càng thương tâm khôn xiết: “Linh Huy từ bé sợ nhất là cô đơn, lúc nào cũng cần có người bên cạnh, vậy mà giờ phải xuống dưới đó một thân một mình, không có người hầu hạ, kẻ làm mẹ như thần thiếp làm sao yên lòng đây…”
Nghe tiếng khóc thảm thiết của bà ta, Hoàng Tử Hà chỉ thấy một luồng khí lạnh từ gan bàn chân theo cột sống chạy thẳng lên đầu. Lý Thư Bạch cũng đang đưa mắt nhìn cô, cả hai đều thấy dụng ý của Quách thục phi trong mắt nhau.
“Thục phi đừng nói nữa, trẫm đau lòng lắm.” Hoàng đế thở dài, nhưng không phản đối, chỉ quay sang nói với Lý Thư Bạch: “Vừa rồi, trẫm đã truyền gọi tên Vũ Tuyên, học chính Quốc Tử Giám mà công chúa yêu quý lúc sinh thời đến.”
Quách thục phi ngồi bên vẻ mặt phức tạp, khẽ khàng đặt tay lên mu bàn tay hoàng đế. Xong ngài ngự dường như không hề nhận thấy, vẫn tiếp tục nói: “Trẫm cũng nghe được lời đồn đại trong kinh, Linh Huy từng đề nghị Vũ Tuyên dạy học cho mình, nhưng hắn nhiều lần cự tuyệt, về sau công chúa phải đích thân có lời với tế tửu Quốc Tử Giám, hắn mới chịu đến phủ công chúa giảng Chu Lễ. Bấy giờ trẫm chỉ cười cho qua, nhưng giờ nghĩ lại thì thương Linh Huy đang trẻ trung mơn mởn, lại phải thui thủi một mình dưới đó, nó thích nghe Vũ Tuyên giảng Chu Lễ, lẽ nào trẫm không thể chiều theo nó?”
Tim Hoàng Tử Hà giật thót, nhưng rồi cô sực nghĩ mình vừa gặp Vũ Tuyên đi ra, xem chừng hoàng thượng đã tha cho hắn rồi.
“Trẫm quả thật định giết hắn.” Hoàng đế thẫn thờ giây lát mới ngẩng lên thở hắt ra, “Nhưng sau khi gặp mặt, chẳng hiểu sao lại từ bỏ ý định đó.”
Lý Thư Bạch không đáp, chỉ hơi nghiêng đầu nhìn sang cỗ áo quan của công chúa.
“Có lẽ trẫm già rồi, không đành lòng bẻ gãy cây ngọc.” Đoạn hoàng đế quay sang hỏi Lý Thư Bạch: “Tứ đệ đã gặp Vũ Tuyên bao giờ chưa?”
“Thưa, thần đệ gặp rồi. Quả là thanh tú thuần tịnh, tuyệt thế vô song.” Lý Thư Bạch hờ hững đáp.
Quách thục phi ngẩn người ra hồi lâu, rồi đột ngột đứng phắt dậy, chạy đến cạnh quan tài Đồng Xương công chúa, vịn vào mép áo quan khóc lóc.
Trái lại, Lý Thư Bạch vẫn thản nhiên như thường: “Hoàng thượng không giết hắn là phải. Nếu không, để hắn bầu bạn cùng công chúa ở dưới đó, thì phò mã phải làm sao?”
Hoàng đế gật đầu, nhắm nghiền mắt lại vẻ mết mỏi.
Hoàng Tử Hà đứng hầu phía sau, im lặng lắng nghe. Chiều mùa hạ râm ran tiếng ve. Cô nghe thấy giọng hoàng đế yếu ớt lẫn trong tiếng ve inh ỏi: “Sáng mai, Đại Lý Tự sẽ xét xử công khai vụ này. Trẫm đã hạ lệnh, sau khi thẩm vẫn, lập tức đưa phạm nhân tới pháp trường, lăng trì tùng xẻo.”
Lý Thư Bạch trầm tư hỏi: “Vụ này đã có kết luận rồi ư?”
“Nhân chứng vật chứng đủ cả rồi.”
“Nếu bắt được hung thủ, cũng an ủi được vong linh công chúa trên trời.” Lý Thư Bạch ngoái lại liếc Hoàng Tử Hà rồi nói: “Thần đệ giữ chức trong Đại Lý Tự, sáng mai cũng sẽ có mặt.”
“Trời nóng quá, Linh Huy cũng không thể để lâu, trẫm quyết rồi, sau khi hung thủ chịu hình phạt, sẽ tạm thời quàn linh cữu công chúa vào Trinh lăng của phụ hoàng, đợi khi nào lăng công chúa xây xong, sẽ cho an táng.”
“Thế là ổn nhất.” Lý Thư Bạch tán đồng, xong chỉ thấy hoàng đế ngả người dựa vào lưng ghế, ngửa mặt nhìn trời bất động, thậm chí mắt cũng không hề chớp, hơi thở mỗi lúc một nặng nề.
Y làm thinh hồi lâu rồi cáo từ hoàng đế, cũng Hoàng Tử Hà rời khỏi phủ công chúa.
Chiều mùa hạ, cả kinh thành chìm trong nóng nực, đường phố cũng vắng ngắt.
Trong thùng đá lạnh trên xe đặt một khối đá lớn đẽo hình núi tiên, trời nóng quá nên những hình thần tiên và cây cỏ đều tan chảy cả, chỉ còn thấy dáng dấp ngọn núi mà thôi.
Nước đá tan chảy tí tách nhỏ xuống lòng thùng.
Dù ngồi ngay cạnh khối đá, Hoàng Tử Hà vẫn thấy nóng bức, mồ hôi rịn ra ướt cả lưng. Cảm giác được cái nhìn chăm chú của Lý Thư Bạch, cô càng căng thẳng tột độ.
Rơi vào cảnh này, quả là biết mình không biết người, đáng mất khả năng khống chế cục diện. Cuối cùng, để tránh kết cục bi thảm, cô đành nghiến răng lên tiếng trước: “Nô tài muốn thỉnh giáo vương gia một chuyện.”
Ánh mắt chăm chú của y toát lên vẻ ngạc nhiên: “Gì cơ?”
“Có cách nào khiến người ta sinh ra ảo giác, trông thấy một việc không hề xảy ra không?” Lý Thư Bạch lắc đầu: “Không có.”
“Nhưng vừa rồi gặp Vũ Tuyên, huynh ấy có nói, vào hôm cha mẹ tôi qua đời, từng thấy tôi cầm gói tỳ sương, vẻ mặt hết sức quái dị.”
Khi thốt ra hai tiếng Vũ Tuyên, lòng cô như dậy sóng, nhưng rồi, cơn sóng lại loang ra thành từng gợn lăn tăn, dần dần tan biến.
Lý Thư Bạch thoáng trầm tư: “Có lẽ chuyện đó có thể giải thích vì sao hắn cứ khăng khăng cho rằng ngươi là hung thủ. Bởi hắn đã chính mắt chứng kiến ngươi có cử chỉ khác thường ngay trong ngày hôm đó.”
“Nhưng tôi thực sự không làm gì cả!”
“Là hắn nhớ lầm, hay là ngươi quên mất?” Lý Thư Bạch vặn lại.
“Huynh ấy nhớ lầm rồi.” Hoàng Tử Hà đáp ngay không hề do dự.
“Cũng có thể còn một khả năng nữa, là hắn nói dối.”
“Nhưng… huynh ấy nói dối người trong cuộc để làm gì?” Hoàng Tử Hà ngỡ ngàng hỏi.
“Ngươi là người trong cuộc còn không hiểu, làm sao ta hiểu được?” Lý Thư Bạch lạnh lùng, “Huống hồ, chẳng phải các người đã hẹn gặp ở Thành Đô ư? Đến lúc đó đối chất lại là rõ.”
Nghe giọng điệu lạnh băng của y, Hoàng Tử Hà đành nín lặng ngồi nghe nước đá nhỏ xuống tí tách, xe ngựa cũng từ từ dừng lại, đã đến phủ Quỳ.
Vừa bước xuống xe, hơi nóng bên ngoài đã tạt thẳng vào mặt Hoàng Tử Hà như một con sóng hữu hình, khiến cô lảo đảo.
Lý Thư Bạch phía sau vội giơ tay ra đỡ cô.
Hoàng Tử Hà vừa đứng vững, đang định cảm tạ thì y đã buông tay, xăm xăm băng qua cô đi thẳng vào trong.
Cô đứng nhìn theo bóng y giây lát rồi quay người đi về phía tàu ngựa.
Lý Thư Bạch không hề quay đầu, nhưng như có mắt sau gáy, lạnh lùng hỏi: “Đi đâu?”
“Cung Thái Cực.” Cô ngoái lại đáp, “Tôi muốn xem thử có thể cứu mấy hoạn quan và thị nữ bên cạnh công chúa hay không.”
“Dương công công vẫn khỏe chứ?”
Vương hoàng hậu vừa ngủ trưa dậy, vẫn còn uể oải. Hoàng hậu da băng xương ngọc, áo lụa như mây quấn quanh mình, ngồi giữa đại điện thâm u, hoàn toàn không bị ảnh hưởng bởi cái nóng hầm hập ngày hè.
Trái lại, Hoàng Tử Hà cưỡi ngựa dãi nắng chạy đến nên trông rất lôi thôi, tóc mái bết vào trán, mồ hôi lấm tấm hai cánh mũi, quần áo vừa sửa sang vội vàng bên ngoài điện, vẫn còn xộc xệch.
Vương hoàng hậu giơ tay cho tất cả người hầu lui xuống, rồi cầm khăn gấm trên bàn đưa cho cô: “ Công công vội đến tìm ta như vậy, có chuyện gì chăng?”
Hoàng Tử Hà cung kính nhận lấy, thấm mồ hôi trên mũi, sẽ giọng thưa: “Chúc mừng hoàng hậu nương nương sắp quay về cung Đại Minh.”
Vương hoàng hậu nhìn xoáy vào cô, thấy không có vẻ giả trá mới mỉm cười nói: “Gác Bồng Lai gần hồ, mát hơn ở đây nhiều, nếu chóng về được thì tốt quá.”
Hoàng Tử Hà gật đầu: “Nô tài biết nương nương nhất định đã chuẩn bị về cung, nhưng có thể giúp nương nương về sớm dăm ngày, cũng là chức trách của nô tài.”
“Ngươi nói xem, sao phải vội vã đến đây thông báo chuyện này?” Vương hoàng hậu ngả người trên sập, phe phẩy cây quạt tròn họa hình thiên nữ rải hoa.
“Quách thục phi có một bí mật, có thể đã bị mấy hoạn quan và thị nữ hầu hạ bên cạnh Đồng Xương công chúa biết được, nên giờ chỉ muốn bọn chúng phải chôn theo công chúa.”
Vương hoàng hậu dùng quạt che miệng, nhưng không che được đôi mắt cong cong: “Xem ra, hẳn là một bí mật quan trọng.”
“Thực ra… chỉ là một câu nói thôi.” Cô thì thào, “Nô tài còn một chuyện, xin hoàng hậu đồng ý.”
“Chuyện gì?”
“Việc này liên quan đến một người nữa, là học chính Quốc Tử Giám Vũ Tuyên… người quen cũ của nô tài. Nô tài tin rằng bí mật này chỉ cần bẩm báo với hoàng hậu là đủ để dạy bảo Quách thục phi, không cần thiết làm toáng lên cho mọi người đều biết.”
Vương hoàng hậu cười: “Đương nhiên rồi, bản cung đã dung dưỡng được Quách thục phi trong cung bấy nhiêu năm, về sau cũng muốn ả ta tiếp tục làm trợ thủ cho ta.”
Hoàng Tử Hà cúi đầu khẽ đáp: “Thưa, đúng vậy.”
“Vậy thì, bí mật của Quách thục phi là câu nói gì?”
Khung cảnh lần đầu gặp gỡ Vũ Tuyên chợt hiện ra như ảo ảnh, những đóa sen trong lòng cô lả tả rơi xuống, trôi bồng bềnh trên mặt hồ loang đầy những gợn nước lăn tăn.
Hôm đầu tiên dọn ra ở riêng, Vũ Tuyên không ngủ được, đành chạy đến đứng trước cửa nhà cô cả đêm, mặc cho tuyết phủ khắp người, những bông tuyết trên mi tan ra, chảy dài như nước mắt.
Vào ngày xảy ra thảm án, hắn ôm một ôm hoa mai giùm cô, những đóa mai đỏ rực như lửa đặt cạnh nụ cười của hắn, còn tươi thắm hơn máu đào.
Cả những mảnh vụn lá thư bị hắn xé nát bỏ vào lò hương chùa Hưng Đường, từ từ tan biến trong lửa, chỉ còn lại tàn tro.
Cô nhắm nghiền mắt, nói thật khẽ, như mê sảng: “Muốn theo trăng trôi chảy đến chàng.”
Ráng chiều như gầm phủ lên toàn bộ Trường An. Hoàng Tử Hà quay đầu về Tây, thấy bầu không thấp đến nỗi tưởng chừng chỉ giơ tay ra là chạm đến.
Sau ráng chiều lộng lẫy, là một ngày sắp trôi qua.
Hoàng Tử Hà quay về phủ Quỳ, vào phòng ngồi xuống, rút cây trâm trên đầu ra, vô thức vạch vạch lên giường, sắp xếp lại toàn bộ manh mối.
Xác định không còn gì lầm lẫn, cô mới cắm trâm lại chỗ cũ, ngồi trên giường ngẫm nghĩ một lúc, cuối cùng cũng phát hiện được cảm giác bất ổn này từ đâu đến…
Lý Thư Bạch không cho gọi cô.
Bình thường, khi cô về đến phủ, nhất định sẽ có người chạy ra báo, vương gia truyền ngươi đến.
Vậy mà hiện giờ, cô vừa nắm được một bước tiến quan trọng của vụ án, lại không biết phải bẩm báo tình hình với ai.
Hoàng Tử Hà thở dài, nằm vật ra giường, ngơ ngẩn ngẫm lại tình cảnh xảy ra hôm nay trong con ngõ cạnh phủ công chúa.
Vũ Tuyên nói đã trông thấy cô cầm gói tỳ sương, vẻ mặt quái dị.
Không có khả năng đó. Như cô nhớ thì, sau khi mua tỳ sương về, cô còn chưa kịp tiến hành vụ cá cược đã nghe được ở Long Châu xảy ra vụ thảm án giết chết cả nhà, bèn chạy ngay đến Long Châu điều tra, cuối cùng phát hiện hung thủ chính là con gái nhà đó, vì bị cha mẹ ngăn cấm tình duyên nên mới hạ độc vào đồ ăn, để cả nhà, bao gồm cô ta, cùng xuống suối vàng. Thấy vậy cô rất xúc động, bèn viết thư cho hắn. Hai ngày sau, cô về đến phủ Thành Đô. Cả ngày bôn ba vất vả, về tới nhà cũng đã hoàng hôn, ăn cơm xong, cô lập tức lên giường, ngủ say như chết, chẳng mộng mị gì. Sáng sớm hôm sau, lúc Vũ Tuyên đến cô cũng vừa trở dậy, hắn hỏi han chuyện cô kể trong thư, thấy cô không có gì khác lạ, bèn cùng ra sân sau ngắm hoa mai, mãi đến khi bà và chú cô đến mới cáo từ ra về.
Bấy giờ cô còn chưa hề mở ngăn tủ đựng tỳ sương ra, sao có thể cầm nó lên xem được chứ?
Là hắn nhớ lầm, hay chính cô nhớ lầm đây?
Hay là Vũ Tuyên bịa đặt? Nhưng nhìn vẻ mặt hắn không có gì giả trá, hơn nữa, hắn nói dối cô thì được tác dụng gì chứ?
Hoàng Tử Hà thấy cả người rời rã, mệt mỏi đến cùng cực, bất giác năm ngửa ra giường, thẫn thờ nhìn lên trần nhà.
“Nghĩ gì mà đờ người ra thế?” Một giọng nói vang lên ngay bên cạnh.
Cô đang mơ màng, vô thức lẩm bẩm gọi: “Vũ Tuyên…”
Vừa buột miệng, cô bỗng sởn da gà, mồ hôi lạnh túa ra, lập tức lật người ngồi phắt dậy, nhìn về phía Lý Thư Bạch đang đứng trước cửa.
Trời đã nhá nhem, sắp sập tối đến nơi, ánh hoàng hôn nhạt nhòa phủ lên đường nét gương mặt y, càng khó trông rõ vẻ mặt.
Cô cuống quýt leo xuống giường bước ra đón y: “Nô tài đang nhớ đến mấy câu huynh ấy nói.”
Cũng chẳng hiểu sao cô phải vội vã giải thích như vậy, tiếc rằng Lý Thư Bạch vẫn thản nhiên như không, chỉ nhìn xoáy vào cô, hờ hững “ừm” một tiếng.
Hoàng Tử Hà lấy làm ấm ức, tại sao cô đứng trong phòng, bị ráng chiều soi rõ mồn một nét mặt, còn y lại đứng ngược sáng, khiến cô cố thế nào cũng không trông rõ được y, càng không biết trong đôi mắt thăm thẳm kia ẩn giấu điều gì.
Lý Thư Bạch chẳng buồn để ý tới cô, quay lưng đi thẳng ra ngoài.
Hoàng Tử Hà thấp thỏm đi theo đến đài Chẩm Lưu. Dọc đường y cứ im lìm, khiến cô càng căng thẳng.
Mãi tới khi bước vào bên trong, cô mới đánh bạo lên tiếng: “Nếu gia có chuyện cần truyền, cứ bảo bọn Cảnh Dục gọi tôi là được mà…”
Nào ngờ y phớt lờ câu này, hỏi ngay sang chuyện khác: “Ngươi đến cung Thái Cực, hoàng hậu phản ứng thế nào?”
“Chắc hẳn nương nương sẽ sai người triệu Quách thục phi đến, dù sao thời cơ cũng chín muồi rôi.”
“Ừm, hoàng thượng lạm sát kẻ vô tội vì Đồng Xương công chúa, hôm nay trong triều cũng có mấy vị đại thần khuyên can, xong đều bị thánh thượng trách phạt. Các thái phi trong cung vì chuyện này mà lo lắng không yên. Nhưng ai dám trách móc hoàng thượng? Đánh đổ tất cả tội lỗi lên đầu Quách thục phi thôi.”
Lúc này, cả triều đình và hậu cung đều đồng lòng nhất trí, mong Vương hoàng hậu trở về kiềm chế Quách thục phi, thậm chí dân chúng trong kinh thành cũng xôn xao bàn tán.
“Có lẽ ông trời giúp Vương hoàng hậu, trong lúc quan trọng nhất thì Đồng Xương công chúa, chỗ dựa vững chắc nhất của Quách thục phi lại qua đời, khiến trong triều ngoài nột náo loạn cả lên.” Hoàng Tử Hà khẽ nhận xét.
Lý Thư Bạch lắc đầu: “Vương hoàng hậu đi được đến ngày hôm nay, hoàn toàn không phải nhờ may mắn. Kẻ chống lưng cho bà ta quả không thể xem thường.”
“Là nhà họ Vương ư?”
“Phải, mà cũng không phải.” Lý Thư Bạch nhìn về phía con cá nhỏ đang lặng lẽ lặn xuống đáy bình lưu ly, giọng chậm rãi: “Một kẻ mạng họ Vương, xong lại ly khai nhà họ Vương, mới thực sự là bàn tay âm thầm thao túng cả triều đình này.”
Trước mắt Hoàng Tử Hà chợt hiện ra nam nhân đứng trên lầu gác ở cung Thái Cực, nhìn cô chòng chọc từ xa.
Áo tía đai ngọc, mắt như rắn độc.
Y từng ấn tay cô vào chậu cá, để A Già Thập Niết mút mát máu dính trên tay.
Cô sực hiểu ra, lẩm bẩm gọi cái tên đó: “Vương Tông Thực.”
Lý Thư Bạch chỉ nhếch môi: “Nếu không nhờ Vương Tông Thực chống lưng, ta sao có thể đi đến ngày hôm nay, ngồi vào vị trí này?”
Hoàng Tử Hà nín lặng.
Mười năm trước, tiên hoàng qua đời, Vương Tông Thực là trung úy trong Tả thần sách hộ quân, đã giết chết bọn Vương Quy Trường, Mã Công Nho, Vương Cư Phương mưu đồ làm phản, đích thân dẫn đội nghi trượng tới nghênh đón hoàng đế vào cung, là công thần hàng đầu trong việc đăng cơ của đương kim thánh thượng.
Sau khi bước lên ngôi cửu ngũ, hoàng đế mới hiểu ra, ngai vàng vốn không dễ ngồi.
Gần trăm năm nay, triều đình phần nhiều do hoạn quan nắm giữ, những triều thần chết trong tay chúng nhiều không đếm xuể, thậm chí có cả hoàng đế. Tiên hoàng phải giả ngây giả dại, ẩn nhẫn nhiều năm, cuối cùng mới lật đổ được hoạn quan Mã Nguyên Chí từng phò trợ mình lên kế vị, nhưng đương kim thánh thượng chẳng cách nào lừa được Vương Tông Thực luôn luôn phòng bị, cũng chẳng có khả năng chống lại.
May sao, ba năm trước Từ Châu đại loạn, nhờ Quỳ vương Lý Thư Bạch dẹp yên, uy hiếp thế lực của lục đại tiết độ sứ, kinh thành thập ty hầu như đều nghe theo lệnh y, cuối cùng hoàng thất mới vực dậy được thế lực. Mấy năm nay, nhờ Quỳ vương kiềm chế quân Thần sách, triều đình và hoàng đế mới được yên lòng.
Nhìn gương mặt bình thản của y, Hoàng Tử Hà thầm nghĩ, lúc tiên hoàng băng hà, y mới mười ba tuổi, bị đuổi ra khỏi cung Đại Minh, là tình cảnh thế nào? Trong sáu năm làm Thông Vương mờ nhạt, y đã sống ra sao? Mười chín tuổi đại thắng, vang danh bốn biển, hiển lộ tài năng, từ bấy gánh trên vai toàn bộ sự tồn vong của hoàng thất Đại Đường, y đã nghĩ những gì?
Y mang vô số trọng trách, lúc nào cũng phải tận tâm kiệt lực, chẳng được một ngày thảnh thơi. Có lúc, cô đã vắt óc nghĩ xem y thích gì, nhưng giờ ngẫm lại thì, ý thích đối với y là một thứ quá chừng xa xỉ, cả cuộc đời y có lẽ chỉ mang nặng trách nhiệm với hoàng thất Lý Đường, chẳng lúc nào được sống cho mình nữa.
Bởi vì y họ Lý, y là Quỳ vương Lý Thư Bạch.
Hoàng Tử Hà lặng lẽ nhìn y, đúng lúc y ngoái lại, ánh mắt đôi bên giao nhau thật lâu.
Cuối cùng cô cụp mắt xuống trước, còn y vẫn nhìn cô chăm chú: “Bí mật của Quách thục phi bại lộ, ngươi thử nghĩ Vũ Tuyên sẽ có kết cục thế nào?”
Cô cắn môi đáp khẽ: “Vương hoàng hậu sẽ không tiết lộ đâu, lộ ra thì hoàng hậu có lợi lộc gì chứ? Cách làm thông minh nhất là cảnh cáo Quách thục phi, biến phi thành một trong những người ra mặt đề nghị hoàng hậu hồi cung.”
“So với Vương hoàng hậu, Quách thục phi quá khờ khạo. Chỉ có một đứa con gái mà dám vọng tưởng dựa vào lòng sủng ái của hoàng thượng với công chúa, lật đổ một Vương hoàng hậu đã sinh một trai một gái, còn đích thân nuôi nấng thái tử; huống hồ, sống giữa chốn cung đình phải cẩn trọng từng li từng tí, vậy mà dám ngang nhiên viết thơ tình gửi cho người, để rồi bị kẻ khác nắm thóp.” Lý Thư Bạch lạnh lùng nhận xét, nghĩ ngợi giây lát rồi hỏi: “Ngươi khẳng định người tư tình với Vũ Tuyên là Quách thục phi chứ không phải Đồng Xương công chúa từ bao giờ?”
“Thưa gia, từ khi nhìn thấy hai câu thơ dang dở ở vườn Tri Cẩm.” Hoàng Tử Hà ngước lên nhìn ra cửa sổ, thấy sắc trời đang tối dần, từng ngọn đèn lồng lần lượt được thắp lên, “Đó không phải nét chữ Đồng Xương công chúa, như vậy kẻ ở vườn Tri Cẩm ngày hôm đó mới thực sự là hung thủ giết hại Đậu Khấu. Công chúa vốn đã định cho Đậu Khấu chuyển ra ngoài ở, vậy mà vì bảo vệ kẻ đó, đành để phò mã hiểu lầm rồi sinh ra oán hận mình… Người được công chúa dốc sức bao che như vậy, đương nhiên chỉ có… mẹ ruột mình, chính lá Quách thục phi. Nét chữ của phi, giống hệt nét chữ trên bức thư bị Vũ Tuyên thiêu hủy.”
Trời tối dần, khiến ngọn đèn trong phòng càng rực lên, soi sáng hai người, chỗ sáng càng thêm sáng, chỗ tối càng thêm tối.
“Hơn nữa, hai câu trong thư, ‘cùng nghe ngóng lúc nay chẳng thấy, muốn theo trăng trôi chảy đến chàng’ cũng không phải lời lẽ của công chúa. Công chúa muốn gì được nấy, đã đến thẳng Quốc Tử Giám tìm tế tửu đòi Vũ Tuyên đích thân tới giảng bài cho mình, sao có thể viết cho huynh ấy những câu thơ ai oán, cứ như gần trong gang tấc mà biển trời cách mặt như thế được?”
Lý Thư Bạch mỉm cười, nhìn con cá nhỏ đang bất động như say ngủ: “Ngoài phố đồn đại Quách thục phi liên tục ra vào phủ công chúa là vì có tư tình với phò mã Vi Bảo Hoành; lại có lời đồn rằng, Đồng Xương công chúa ép học chính Vũ Tuyên của Quốc Tử Giám vào phủ giảng bài, làm mất mặt phò mã, nhưng có mấy ai rõ chân tướng sự thực đâu.”
“Gia phát hiện ra chuyện này từ bao giờ?”
“Sớm hơn ngươi.” Y ngồi xuống bàn, mắt vẫn không rời con cá, vẻ mặt bình thản, “Khi trâm Cửu loan biến mất, ngươi đến gác Thê Vân tra xét, ta đứng ở lan can bên ngoài, nhìn xuống dưới thấy Quách thục phi dúi cho Vũ Tuyên vật gì đó. Về sau, ngươi nói rằng đó là một phong thư, cũng kể cho ta biết câu thơ còn sót lại.”
Hoàng Tử Hà ngập ngừng, nhưng cuối cùng vẫn hỏi: “Sao gia không nói với tôi?”
“Ta cho rằng việc đó chẳng liên quan gì tới ngươi, cũng chẳng liên quan tới vụ án.”
Hoàng Tử Hà nín lặng, hồi lâu mới lên tiếng: “Bất kể thế nào, Vũ Tuyên với tôi cũng là chỗ quen biết nhiều năm, tôi nên biết chuyện của huynh ấy…”
“Vậy cần gì ta kể? Hắn đợi ngươi ở Thành Đô kia mà, ngươi cứ tự đi mà hỏi hắn.”
Từ khi quen biết đến giờ, lần đầu tiên Lý Thư Bạch gay gắt cắt lời cô như thế. Hoàng Tử Hà ngạc nhiên ngước mắt nhìn y, khẽ khàng thưa: “Vương gia đã nói khi nào chuyện này kết thúc, sẽ lập tức đưa tôi đi mà.”
“Nóng lòng quá không chờ nổi nữa chứ gì?” Y cười nhạt.
Hoàng Tử Hà ngỡ ngàng: “Lẽ nào phải ở lại kinh thành ít lâu nữa ư?”
“Nếu đã nóng lòng như thế, sao không theo Vũ Tuyên về Thục quách, còn đòi ta đưa đi làm gì?”
Hoàng Tử Hà bối rối, chẳng hiểu sao y lại đột ngột trở mặt, chỉ biết phân trần: “Vụ án đó đã có phán quyết, nếu không có gia giúp đỡ, nô tài rất khó lật lại bản án. Trước đây chúng ta đã thống nhất rồi kia mà, lẽ nào bây giờ gia lại nuốt lời?”
“Bản vương chưa bao giờ nuốt lời.” Mặt Lý Thư Bạch đã lạnh càng thêm lạnh, y quay đi không buồn nhìn cô, lạnh lùng nói: “Ngươi nói đúng, chúng ta vốn chỉ là quan hệ hợp tác, giúp đỡ lẫn nhau mà thôi. Đợi khi nào phá được vụ án gia đình ngươi, hai ta cũng đường ai nấy đi, không nợ nẫn gì nhau nữa.”
Hoàng Tử Hà cảm thấy lời lẽ của y có gì đó rất khó chấp nhận, nhưng theo giao hẹn ban đầu giữa hai người thì đúng là như vậy.
Ngẩng đầu lên, bắt gặp gương mặt lạnh băng của Lý Thư Bạch, lòng cô rối như tơ vò, bất giác nhích lại gần y một bước: “Bất luận ra sao, xin vương gia đừng quên giao hẹn, dẫn tôi về Thục điều tra huyết án của gia đình, rửa sạch oan khuất…”
Vừa nói, Hoàng Tử Hà vừa với tay về phía y, khi cánh tay vươn qua mặt bàn, cô chợt thấy cổ tay lành lạnh, thì ra chiếc bình lưu ly đặt ở góc bàn đã vô tình bị kéo theo, rơi xuống nền gạch xanh vỡ tan tành, nước bắn tung tóe, con cá đỏ giãy đành đạch trên mặt đất.

Q.2 – Chương 22: Hồi 20: Lấy Lá Đựng Cá

Hoàng Tử Hà thoáng sững ra, rồi lập tực ngồi thụp xuống, dùng tay vốc cá lên.
Lý Thư Bạch nuôi con cá này đã lâu, nó chính là sắc màu tươi sáng duy nhất trong cuộc đời tất bật mà tẻ nhạt của y, để y ngắm nhìn những lúc được thảnh thơi hiếm hoi.
Bởi vậy, khi nâng nó trong lòng bàn tay, Hoàng Tử Hà cũng hơi hối hận.
Cô không thể để nó chết, không thể chính tay làm hỏng màu sắc tươi sáng duy nhất của y.
Nước trong chậu rửa bút đã nhuốm màu mực, trà trong ấm lại nóng, cá không sống nổi. Hoàng Tử Hà quay phắt người chạy vụt ra ngoài, đài Chẩm Lưu xây bên bờ hồ, bốn bề rợp những hoa sen, xuống mấy bậc thềm là chạm vào mặt nước.
Cô nhúng hai bàn tay đang khum khum giữ cá xuống nước, thấy nó lại quẫy đuôi lật mình lại, mới thở phào nhẹ nhõm ngước nhìn y.
Lý Thư Bạch đứng trong phòng, cặp mắt sâu thăm thẳm dõi theo cô, chỉ thấy cô bưng cá trong tay, đang lặng lẽ nhìn y.
Quỳ vương thoáng khựng lại, rồi với lấy một chiếc tước(*) bằng đồng điếu trên giá đồ cổ, bước đến cạnh cô.
(*) Một loại chén cổ dùng để uống rượu, có ba chân, rất thịnh hành trong giới quý tộc trước thời Tần.
Nhưng đúng vào lúc Hoàng Tử Hà bưng cá lên định thả vào tước, con cá bỗng hoảng hốt búng mình vọt ra khỏi tay cô, lao thẳng xuống nước.
Một vòng sóng gợn loang ra, con cá vừa rơi xuống đã lẩn mất hút.
Hoàng Tử Hà kinh hãi ngồi thụp xuống bên hồ, còn kịp trông thấy Lý Thư Bạch tái mặt.
Hồ rộng mênh mông, lại trồng đầy sen, trong khi con cá chỉ bé bằng đốt ngón tay. Dù nhổ hết sen trong hồ rồi rút cạn nước đi, cũng không cách nào tìm được một con cá bé như thế.
Hoàng Tử Hà thấy đôi mày Lý Thư Bạch cau rúm lại.
Y luôn mang chiếc bình lưu ly có con cá nhỏ này theo bên mình. Lần đầu gặp gỡ, y đã nói, nó liên quan tới một bí mật mà ngay hoàng thượng cũng không thể hỏi tới. Vậy mà, chính tay cô lại làm mất nó.
Hoàng Tử Hà đứng bên bờ, vốc nước trong tay đổ ướt cả vạt áo, cô nơm nớp ngẩng lên nhìn Lý Thư Bạch, xong y chẳng buồn nhìn cô, cũng chẳng nói năng gì, hồi lâu mới quay người đi vào.
Còn lại một mình Hoàng Tử Hà đứng đó, gió lay sen động, tà dương rực rỡ, khiến mọi vật trước mắt cô nhòa hẳn đi.
Hồi tưởng lại bốn năm trước, cũng vào một ngày hè thế này, cô chân trần lột xuống hồ hái sen, nghe thấy tiếng cha gọi bèn ngoái đầu lại, bắt gặp Vũ Tuyên đứng phía sau cha, giữa ráng chiều vàng rực, đang lặng lẽ nhìn mình.
Nụ cười cùng ánh mắt đăm đăm của hắn trong khoảnh khắc ấy đã thay đổi cả cuộc đời cô.
Cô bỗng thấy cả người bải hoải, bèn ngồi phịch xuống, thẫn thờ nhìn ra mặt hồ.
Hôm ấy, cha dẫn Vũ Tuyên về nhà, nói rằng hắn là trẻ lang thang, mồ côi cha mẹ, nương náu trong ngôi chùa đổ. Một người bạn cũ của cha mở trường dạy học, thấy có đứa ăn mày thường mon men đến đứng ngoài cửa sổ nghe giảng, hỏi câu nào hắn cũng đối đáp trôi chảy, khiến người ta phải tấm tắc. Lại hỏi hắn học chữ từ đâu, hắn nói lúc trước nhặt được một cuốn sách, nghe người ta nói là Kinh Thi, gặp đúng lúc thầy giáo ở trường bắt đầu giảng Kinh Thi, hắn bèn chiếu theo những gì thầy giáo dạy, học thuộc các chữ trong bài, học hết chữ trong Kinh Thi, hắn lại xin những sách cũ người ta vứt đi, dựa vào vốn chữ học được từ Kinh Thi mà bập bõm đọc hết tứ thư ngũ kinh. Tiên sinh kia nghe nói cũng rung động trước thiên tài của hắn, bèn kể với cha cô, cha cô vừa gặp Vũ Tuyên đã động lòng tiếc tài, liền dẫn hắn về nhà.
Đúng thế, một thiếu niên lưu lạc giữa đời như Vũ Tuyên, ai lại không rủ lòng thương xót?
Hoàng Tử Hà ngồi trên thềm, gục mặt vào đầu gối, lặng lẽ nhìn phiến lá sen xoay trong gió.
Gió đã se se, trời sắp sập tồi. Gió thổi đến đâu, cuốn theo lớp lớp lá sen lay động đến đó, nhìn như muôn ngàn đợt sóng.
Lòng cô cũng xáo động như sóng, khó mà dẹp yên được.
Vũ Tuyên nói, ta đợi muội ở Thành Đô.
Nhưng người đã hứa sẽ dẫn cô tới Thành Đô, giờ lại đang nổi giận.
Hơn nữa còn rất tức giận.
Cô bất giác thở dài.
Tuy cô biết Lý Thư Bạch sẽ không vì thế mà nuốt lời, nhưng cô không muốn y cáu giận vì mình.
Bởi…
Cô nhớ y từng nói, trí nhớ của cá chỉ bằng bảy cái búng tay, bất kể đối tốt hay xử tệ với nó nhường nào, thì sau bảy cái búng tay, nó cũng quên hết.
Nhưng cô không phải giống cá dễ dàng lãng quên người khác chỉ sau bảy cái búng tay.
Cô nghĩ, lẽ ra lúc đó nên thưa với y rằng mình không phải cá, dù bảy tháng, bảy năm, bảy mươi năm cũng không quên những người đã khắc cốt ghi tâm.
Nghĩ đoạn, cô đưa ngón tay lên miệng cắn thật mạnh.
“A Già Thập Niết thích nhất máu người. Nghe nói Quỳ vương cũng nuôi một con, Dương công công nhớ đem bí quyết này mách lại với vương.”
Trong cung Thái Cực, Vương Tông Thực từng nói với cô như vậy.
Cắn rách ngón tay, một giọt máu đỏ tươi tức thì ứa ra, nhỏ xuống mặt nước dưới chân.
Trời đã nhá nhem, cuối chân trời ngả màu tím sẫm, cô đang vớt vát chút ánh sáng cuối ngày đề dụ con cá kia ra.
Máu tươi nhỏ xuống nước, loang ra, tan biến.
Cô đợi một lúc, thấy mặt nước không có động tĩnh gì, bèn nặn vết thương, nhỏ thêm hai giọt máu xuống.
Máu đỏ tan vào làn nước trong vắt, sóng chỉ hơi gợn lên.
“Ngươi làm gì vậy?” Sau lưng vang lên một giọng thanh thanh lạnh lùng.
Cô không ngoái lại mà cúi đầu chăm chú quan sát mặt nước, đáp khẽ: “Nô tài đang thử xem nó còn ở quanh đây không.”
“Dù còn, chẳng lẽ ngửi mùi máu ngươi nó lại bơi ra sao?”
Hoàng Tử Hà không đáp, bởi dưới bóng chiều nhập nhoạng, cô đã trông thấy con cá nhỏ từ sau một gốc sen, chầm chậm bơi về phía mình.
Qua nhiên nó vẫn nấp quanh đây.
Cô chậm rãi nhúng tay xuống nước, lập tức máu từ vết thương loang ra thành một sợi dây mỏng nhanh, phất phơ trong nước, tan thành hư vô.
Nhưng con cá nhỏ kia lại như bị sợi dây vô hình ấy lôi kéo, bơi về phía tay cô.
Cô từ từ nâng dần tay lên, tới khi sắp nhấc khỏi mặt nước thì thình lình ụp hai bàn tay lại, giữ chặt con cá nhỏ bên trong, rồi vui vẻ quay lại gọi y: “Gia mau đem cái gì ra đựng cá đi.”
Nụ cười của cô bừng lên rạng rỡ trong ánh sáng rơi rớt cuối ngày, khiến Lý Thư Bạch ngẩn ngơ.
Y lặng lẽ chìa cái tước đồng khi nãy ra, để cô bỏ cá vào.
Cô giơ đôi tay ướt sũng lên, cúi nhìn con cá nhỏ trong lòng chiếc tước đồng cổ kính. Thoạt tiên, nó còn hốt hoảng quẫy đuôi, nhưng chỉ lát sau liền bắt đầu bơi nhởn nhơ, xem chừng đã quen với hoàn cảnh lạ lẫm này.
Cô thò ngón tay vào trêu nó, mắng yêu: “Nguy hiểm quá, suýt nữa để mày chuồn mất rồi.”
“Sao ngươi biết nó thích mùi máu?” Lý Thư Bạch chăm chú nhìn gương mặt nghiêng tươi cười của cô, giọng trầm xuống.
Hoàng Tử Hà ngẩng lên, thành thật đáp: “Vương công công, Vương Tông Thực bảo cho tôi biết.”
Lý Thư Bạch bất giác nhíu mày: “Sao ngươi lại quen hắn ta?”
“Tôi từng gặp ông ta trong cung Thái Cực hai lần. Hôm Đồng Xương công chúa qua đời, hai tay tôi dính đầy máu công chúa, Vương công công bèn nhúng tay tôi vào chậu cá của ông ấy, ngay lập tức, lũ cá lao đến liếm sạch máu tươi…” Kể đến đó, cô vẫn không nén nổi cảm giác ghê tởm, sởn cả gai ốc.
Lý Thư Bạch làm thinh thật lâu rồi cầm lấy chiếc tước đồng, lặng lẽ nhìn con cá bên trong: “Ta nuôi con cá này mười năm rồi.”
Hoàng Tử Hà ngạc nhiên hỏi lại: “Mười năm rồi ư?”
Nuôi mười năm mới lớn bằng ấy, hơn nữa còn chưa chết.
“Phải, mười năm rồi. Vào đúng hôm phụ hoàng băng hà. Ngươi đoán xem ta tìm thấy nó ở đâu?” Lý Thư Bạch ngước lên nhìn cô, ánh mắt đầy thâm ý: “Giữa vũng máu phụ hoàng khạc ra. Nó quẫy mình vùng vẫy trong máu. Bấy giờ ta đang bưng một bát nước, dùng khăn bông thấm nước lau miệng cho phụ hoàng. Nào ngờ Chiêu vương, bấy giờ còn bé, lại nhặt con cá lên, bỏ vào bát nước trên tay ta.”
Ánh mắt y dần trở nên xa xăm, như đang nhìn xuyên qua mười năm thời gian, trông thấy một bản thân bơ vơ năm ấy.
“Ta vội đặt bát nước lên bậu cửa sổ, mãi tới sau khi phụ hoàng qua đời, hoàng thượng đăng cơ, ta chuẩn bị rời khỏi cung Đại Minh, mới sực nhớ đến nó, bèn tới tẩm cung của phụ hoàng xem thử, thì thấy nó vẫn nhởn nhơ bơi lượn trong bát. Mọi chuyện xảy ra trên đời chẳng liên quan gì tới nó, dù trời có sập xuống, nó cũng chỉ cần một bát nước, là đủ sống thảnh thơi như thường.”
Y hơi nghiêng tước đồng, lớp gỉ đồng làm làn nước bên trong nhốm màu xanh lục, khiến con cá đỏ rực càng thêm nổi bật.
“Ta đem nó ra khỏi cung, về phủ đệ của mình. Mười năm, ta từ Quỳ vương trở thành Thông vương rồi lại thành Quỳ vương, từ một thiếu niên ngờ nghệch đến bây giờ, thật chẳng ngờ, kẻ bầu bạn bên mình lâu nhất, lại là con cá này.” Y lặng lẽ nhìn con cá đang bơi trong nước, loài sinh vật dễ dàng quên sạch mọi thứ chỉ trong bảy cái búng tay này, sống thực thảnh thơi thoải mái.
Không có tri giác, nên chẳng có lo phiền.
Hoàng Tử Hà cũng đang chăm chú nhìn nó, nói khẽ: “Tôi nghe nói… tiên hoàng uống lầm đan dược, không lâu thì qua đời.”
“Phải.” Lý Thư Bạch xưa nay vốn hờ hững với mọi người xung quanh, cuối cùng cũng thở dài một tiếng, ngẩng lên nhìn cô, cặp mắt y thật sâu, thật tối, “Tại sao lúc hấp hối phụ hoàng lại khạc ra con cá này? Câu hỏi này đã đeo đẳng ta suốt mười năm nay. Giống như lá bùa không thể xuất hiện kia vậy, khiến ta nghĩ nát óc mà không sao hiểu nổi, cũng chẳng thể sống yên. Bây giờ… lại xuất hiện bức tuyệt bút của phụ hoàng, cùng ba mảng mực không thể lý giải ấy nữa.”
Hoàng Tử Hà cúi đầu nhìn vết thương trên tay, nói khẽ: “Vương Tông Thực cũng có A Già Thập Niết.”
“Hắn ta cứ ở riết trong nhà, hiếm khi giao du với người ngoài, nhưng lại rất thích nuôi cá, đặc biệt là những giống quý hiếm, có A Già Thập Niết cũng chẳng có gì lạ.”
Lý Thư Bạch đứng dậy, đặt chiếc tước đồng lên giá, chậm rãi nói: “Lúc tiên hoàng băng hà, Vương Tông Thực cũng ở bên cạnh.”
Hoàng Tử Hà biết y có cùng ý nghĩ với mình, nhưng không nói ra. Dù sao có những chuyện, dẫu bên cạnh không người, cũng không nên phỏng đoán.
Lý Thư Bạch nhìn sắc trời ngoài cửa rồi đổi chủ đề: “Sáng mai ngươi định ăn nói thế nào với Đại Lý Tự?”
Cô trịnh trọng nhìn y: “Nô tài muốn thỉnh giáo vương gia một chuyện.”
Y không trả lời, chỉ nghiêng đầu liếc cô.
“Nếu người được phủ Quỳ vương bảo lãnh lại bỏ trốn, sẽ gây ra phiền phức thế nào?”
Nhìn vẻ mặt thận trọng pha lẫn lo âu của cô, Lý Thư Bạch khẽ cười: “Nếu không phải muốn cô ta trốn đi, thì ta bảo lãnh cô ta ra làm gì?”
Vỏn vẹn một câu như vậy, xong Hoàng Tử Hà lại trợn tròn mắt nhìn y, vừa kinh ngạc vừa kích động.
Gương mặt y thoáng qua một nụ cười hiếm hoi, tựa như gió đên xua hết mây mờ, để lộ vầng trăng tháng Năm vằng vặc giữa thinh không. Tuy chỉ thoáng qua, xong lại khiến cô bàng hoàng ngơ ngẩn, ngây người ra đó.
“Có điều chút chuyện vặt này tùy tiện động tay chẳng phải có thể tránh được ư? Sao phải khiến mình bị rầy rà?” Y nói thêm.
Hoàng Tử Hà chẳng buồn tìm hiểu cách làm của y, chỉ hỏi: “Vương gia… đã biết ai là hung thủ rồi ư?”
“Đoán được rồi, nhưng vẫn còn vài tình tiết nhỏ chưa khớp, coi như phá giải được một nửa đi. Còn ngươi?”
Cô nhoẻn cười tươi tắn: “Toàn bộ.”
Lý Thư Bạch ngạc nhiên nhìn nụ cười tự tin của cô, bỗng ngẩn ngơ: “Ngươi đoán được toàn bộ… ba vụ án không manh mối, di bút của tiên hoàng, cách tạo ra hiện tượng trời phạt cùng động cơ của mỗi người rồi ư?”
“Vâng.” Cô gật đầu đầy quả quyết, “Vụ án này kết thúc rồi.”
Vầng dương vừa lên đến đầu ngọn cây đã ra oai, chiếu khắp cả Đại Lý Tự, xem ra hôm nay lại là một ngày nóng bức.
Hôm nay, tam pháp ty hội thẩm. Ba vị trưởng quan của Ngự Sử Đài, bộ Hình và Đại Lý Tự dàn hàng ngang ngồi trên. Theo lệ, khi tam ty hội thẩm, Đại Lý Tự sẽ nêu chứng cứ, định án, bộ Hình phán quyết còn Ngự Sử Đài giám sát chung.
Đại Lý Tự xưa nay đều do thiếu khanh chủ trì. Thấy Hoàng Tử Hà theo sau Lý Thư Bạch, Thôi Thuần Trạm nhìn cô đầy ai oán, thiếu điều la lên: Xin công công đấy, hôm nay công công đừng lên tiếng, cứ kết án thế này đi!
Thượng thư bộ Hình Vương Lân, đương nhiên còn nhớ rõ Hoàng Tử Hà là kẻ đầu sỏ đẩy Vương hoàng hậu vào cung Thái Cực, nên chẳng buồn nhìn cô, chỉ khẽ gật đầu với Lý Thư Bạch.
Thị ngự sử trung thừa của Ngự Sử Đài là Tưởng Quỳ, đương nhiên hết sức coi thường vụ án mạng mà mình xui xẻo phải giám thẩm, chẳng qua vì trong số nạn nhân có một vị công chúa nên mới miễn cưỡng ngồi vào vị trí này, khoanh tay nhắm mắt dưỡng thần.
Mọi người có liên quan tới vụ này lần lượt tới đông đủ.
Phò mã và Ngạc vương ngồi một bên. Phò mã cứ ngây ra nhìn hoa văn trên chiếc hộp Ngạc vương mang theo, vẻ mặt bàng hoàng, dáng người gầy võ.
Bốn ả Thùy Châu, Lạc Bội, Trụy Ngọc, Khuynh Bích đứng phía sau, lộ vẻ lo âu ra mặt, chẳng biết kết cục bản thân sẽ ra sao.
Trương Hàng Anh và Lữ Tích Thúy sóng vai đứng dưới công đường, Tích Thúy trông rất võ vàng, sắt mặt tái mét. Trương Hàng Anh lặng lẽ nắm tay nàng trấn án.
Lữ Chí Nguyên đứng dưới bóng râm cách đó không xa, cúi đầu nhìn chằm chằm mảng rêu xanh dưới chân.
Tiền Quan Sách bị giải từ đại lao sang, rũ rượi dựa vào cột nhà, cả người rệu rã, run lên bần bật, mặt xám ngoét.
Bấy nhiêu người, chỉ có Chu Tử Tần vẫn phởn phơ như thường, vận một bộ đồ lòe loẹt, hớn hở vẫy Lý Thư Bạch và Hoàng Tử Hà lia lịa: “Tôi theo vụ này lâu nay nên tuy không được gọi vẫn đến dự thẩm, vương gia không trách tội chứ?”
“Tử Tần cứ tự nhiên, miễn là lát nữa nếu không được hỏi thì đừng lên tiếng.” Chỉ một câu của Lý Thư Bạch đã chặn đứng ý định gây rối của Chu Tử Tần, gã đành xị mặt gật đầu.
Đại Lý Tự kê ghế cho Lý Thư Bạch ngồi cạnh Ngạc vương. Hoàng Tử Hà và Chu Tử Tần đứng phía sau y, người trầm tư, kẻ dáo dác ngó nghiêng.
Lý Nhuận quay sang nhìn Hoàng Tử Hà, nở nụ cười ôn hòa quen thuộc: “Dương công công, chân tướng vụ án này đã rõ, hẳn công công cũng có thể thở phào nhẹ nhõm thảnh thơi đôi phần, sao trông vẫn trùng trùng tâm sự, muôn mối tơ vò thế kia?”
Hoàng Tử Hà ngượng ngùng cúi đầu: “Thưa vâng, đa tạ Ngạc vương gia quan tâm.”
Lý Nhuận lại quay sang khẽ hỏi Lý Thư Bạch: “Tứ ca dặn đệ mạng bức họa kia tới làm gì vậy?”
Lý Thư Bạch gật đầu: “Ừm, các thủ pháp trong vụ án này, xem ra đều bắt nguồn từ di bút của phụ hoàng cả đấy.”
Lý Nhuận nghi hoặc hỏi: “Nhưng… phụ hoàng qua đời mười năm nay rồi, sao giờ lại dính dáng đến một vụ án thế này?”
Lý Thư Bạch chưa kịp đáp thì thấy một đám hoạn quan sắp hàng từ ngoài cửa tiến vào, ra là hoàng đế đến.
Đi cùng ngài ngự còn có Quách thục phi. Người của Đại Lý Tự vội vã chạy ra sau bê ghế lên, để phi ngồi phía sau hoàng đế.
Đợi mọi người ai vào chỗ nấy, Thôi Thuần Trạm vỗ bàn, cả công đường tức thì lặng phắc.
Bản cung khai của Tiền Quan Sách đã được sao chép rõ ràng trình lên, chỉ đợi kí tên điểm chỉ.
“Tiền Quan Sách, ngươi giết hại Đồng Xương công chúa, Ngụy Hỷ Mẫn, Tôn ghẻ, chứng cứ rành rành, còn không mau thuật lại quá trình gây án, nhận tội chịu hình?”
Tiền Quan Sách béo tốt phương phi, sau mấy ngày bị hành hạ đã sọp hẳn đi, tuy vẫn còn mập mạp nhưng đã trở nên thất thần đờ đẫn, như một cái xác không hồn.
Chỉ thấy hắn tóc tai rũ rượi, mặc áo tù, ngồi bệt dưới đất như một chiếc bong bóng lợn.Nghe Thôi Thuần Trạm hỏi, hắn run rấy toan chống tay thẳng người dậy trả lời, xong hai tay đã phồng dộp, lại bị ngâm nước đến trắng bợt ra, mười ngón tay không còn một cái móng, đau đớn không sao chịu nổi, đành ngồi bệt tại chỗ rên rỉ: “Tội nhân… nhận tội…”
“Mau thành thật khai ra!”
“Tội nhân… thèm thuồng kỳ trân dị bảo ở phủ công chúa, nên đã mua chuộc hoạn quan thân cận công chúa là Ngụy Hỷ Mẫn, cùng nhau đánh cắp cóc vàng. Người nhà tội nhân không hay biết gì cả, vì tội nhân luôn giấu kín…”
Thôi Thuần Trạm chẳng thèm đếm xỉa tới lời họ Tiền phân trần, hỏi thẳng: “Ngụy Hỷ Mẫn làm sao mà chết?”
“Là vì… chia chác không đều nên hắn trở mặt, tội nhân sợ lộ chuyện, bèn… nhân lúc cùng đến chùa Tiến Phúc dự pháp hội, thừa cơ cây nên bắt cháy, xô hắn vào đống lửa…”
“Còn Tôn ghẻ?”
“Là vì…” Tiền Quan Sách đờ đẫn mấp máy môi, sắc mặt xám ngoét, hai hốc mắt trũng sâu, tăm tối: “Lúc tội nhân sát hại Ngụy Hỷ Mẫn, xui xẻo bị hắn bắt gặp, rồi vin vào đó để uy hiếp, tội nhân đành thừa cơ nạo vét đường nước, cho người dưới lui ra hết, lẻn vào giết chết hắn…”
Thôi Thuần Trạm liếc nhìn hoàng đế, thấy ngài ngự chăm chú lắng nghe mới hơi yên lòng, hỏi tiếp: “Vậy vì sao ngươi lại sát hại Đồng Xương công chúa?”
“Tội nhân… Tội nhân…” Tiền Quan Sách mấp máy môi, lấm lét liếc hoàng đế cùng mấy người ngồi phía sau, hồi lâu không dám nói tiếp.
Thôi Thuần Trạm đập bàn quát: “Nếu không muốn bản quan dùng hình, thì mau khai ra!”
“Là… tội nhân chưa dứt lòng tham, nghe nói công chúa mơ thấy cây trâm Cửu loan biến mất, nên lại lẻn vào phủ công chúa trộm cây trâm đi… nào ngờ hôm đó lúc đi trên phố, tội nhân nổi hứng rút ra xem, bị công chúa trông thấy, đuổi theo đến chỗ vắng, tội nhân nhất thời lỡ tay…”
Sắc mặt hoàng đế sa sầm, trừng trừng nhìn Tiền Quan Sách đầy căm hận và tuyệt vọng, lúc này đây, ngài ngự chỉ hận rằng mình không phải một người dân thường để xông tới đánh cho hung thủ giết hại con gái một trận nhừ tử, ít ra cũng trút được phần nào oán giận.
Quách thục phi nghiến răng đứng phắt dậy gào lên: “Xin hoàng thượng xử quyết hắn ngay tại công đường, báo thù cho Linh Huy!”
Hoàng đế nghiến răng, giơ tay ngăn phi lại: “Có tam pháp ty ở đây, cần gì chúng ta ra tay!”
Hoàng Tử Hà đứng sau lưng Lý Thư Bạch, chăm chú lắng nghe Tiền Quan Sách cung khai.
Tiền Quan Sách mình đầy thương tích, nửa như rên rỉ nửa như lẩm bẩm: “Tất cả… đều do một tay tội nhân gây ra, vợ con bạn bè không hề liên quan… tội nhân nhận tội…”
“Đã vậy thì ký tên điểm chỉ đi.” Thôi Thuần Trạm cầm bản cung do Đại Lý Tự ghi lại xem qua một lượt, rồi sai người đem xuống cho Tiền Quan Sách điểm chỉ.
Tiền Quan Sách nằm mọp dưới đất, gắng gượng nhỏm dậy đọc một lượt, rồi giơ bàn tay tưa tướp máu me cầm bút lên, nhắm nghiền mắt, chuẩn bị ký tên.
Đúng lúc này, chợt nghe “bịch…” một tiếng, phá vỡ bầu không khí yên tĩnh trên công đường.
Là Tích Thúy, có lẽ vì quá khiếp sợ, thân thể lại yếu sẵn, nên ngã lăn ra ngất xỉu.
Tay Tiền Quan Sách bất giác run bắn lên, vạch thành một vệt dài trên bản cung.
Hoàng Tử Hà đứng cạnh Tích Thúy vội giơ tay ra đỡ lấy nàng. Trương Hàng Anh lo lắng nhìn sang, chỉ thấy ánh mắt Tích Thúy đờ ra, cả người lạnh buốt, vội lên tiếng tâu trình: “Bẩm Thôi đại nhân, A Địch… Tích Thúy sau khi rời Đại Lý Tự thân thể suy yếu, e rằng không thể nghe thẩm vấn được nữa…”
Thôi Thuần Trạm nhìn gương mặt xám ngoét của Tích Thúy, cũng thấy không ổn, bèn quay sang dò ý hoàng đế.
Hoàng đế vẫn không rời mắt khỏi Tiền Quan Sách, hỏi: “Cô ta là ai?”
“Là nghi phạm ban đầu, nhưng giờ đã chứng minh được cô ta không liên qua tới vụ này. Vì khi công chúa bị sát hại, cô ta đang bị giam trong Đại Lý Tự.”
Ngài ngự liền xua tay: “Còn không mau cho những kẻ không liên quan ra ngoài đi.”
Trương Hàng Anh cả mừng, vội đỡ lấy Tích Thúy, toan dìu nàng ra ngoài, nào ngờ Thôi Thuần Trạm lại nói: “Trương Hàng Anh, ngươi có liên quan tới vụ này, không được tự ý rời khỏi công đường.”
Lý Thư Bạch liền ra hiệu cho Cảnh Hữu dìu Tích Thúy lui xuống.
Tích Thúy ngỡ ngàng, vừa nãy đang yên đang lành, Hoàng Tử Hà bỗng chạm nhẹ vào vai nàng, tứ thì nàng ngửi thấy một mùi hương lạ, rồi ngã xuống ngất lịm. Nhưng nàng chỉ ngất đi trong chốc lát, đã tỉnh táo lại ngay.
Tích Thúy nhìn sang Trương Hàng Anh, đang định lên tiếng bảo mình không sao, thì nghe Hoàng Tử Hà ghé tai nói khẽ: “Đi đi!”
Nàng tròn mắt ngạc nhiên, định quay lại nhìn Hoàng Tử Hà, hỏi xem cô nói vậy là ý gì, nhưng Hoàng Tử Hà đã băng qua nàng, đi đến trước công đường.
Tích Thúy được Cảnh Hữu dìu ra cổng. Nha sai canh cổng Đại Lý Tự trỏ Tích Thúy hỏi: “Công công, có chuyện gì thế?”
“Hình như cô ta mắc bệnh, hoàng thượng khẩu dụ, lập tức đưa ra ngoài.” Đoạn Cảnh Hữu buông nàng ra, tỏ ý: “Còn không mau đi đi?”
Tích Thúy đứng giữa trời nắng gắt, nhìn cổng lớn của Đại Lý Tự, chợt thấy choáng váng cả người.
Giọng Hoàng Tử Hà lại văng vẳng bên tai: “Đi đi!”
Nàng lưỡng lự, rồi quay ngoắt người rảo bước đi thẳng, hòa vào dòng người tấp nập qua lại trên đại lộ Chu Tước.
Đại Lý Tự đã sao lại một bản cung mới, đưa tới trước mặt Tiền Quan Sách.
Tiền Quan Sách nhìn bản cung, run rẩy cầm bút lên, giương cặp mắt khô khốc nhìn Thôi Thuần Trạm vẻ van nài.
Thôi Thuần Trạm gật đầu giục: “Ngươi nhận tội cho mau, có lẽ còn giữ được tính mạng của người nhà.”
Ánh mắt Tiền Quan Sách đầy tuyệt vọng, nghiến răng nhắm mắt lại, toan ký tên.
“Đợi đã.”
Chợt một giọng thâm trầm thong thả vang lên, phá tan bầu không khí yên tĩnh.
Thôi Thuần Trạm chỉ mong mọi chuyện suôn sẻ, đầu xuôi đuôi lọt, giờ hiểu ra mình không tránh khỏi trở ngại này, đành nhăn mặt nhìn lên thượng cấp ngồi trên.
Mọi người trên công đường cũng đổ dồn mắt về phía người vừa lên tiếng.
Kẻ này, đương nhiên là Quỳ vương Lý Thư Bạch.
Y ngồi thẳng người dậy, trầm ngâm hỏi: “Thôi thiếu khanh, vụ này do thiếu khanh điều tra, xong bản vương còn mấy điểm chưa rõ, mong thiếu khanh giải thích cho.”
Thôi Thuần Trạm suýt rơi nước mắt. Quỳ vương gia ơi là Quỳ vương gia, gia có biết vụ này liên quan đến tính mạng gia đình dòng tộc của hết thảy người trên kẻ dưới Đại Lý Tự hay không? Gia cũng có biết mình là người cao nhất trong Đại Lý Tự hay không chứ?
“Xin… vương gia cứ hỏi.”
“Nếu thoạt đầu phải thông qua Ngụy Hỷ Mẫn để đánh cắp cóc vàng, thì tại sao về sau chỉ một mình Tiền Quan Sách lại có thể trộm trâm Cửu loan đi? Hơn nữa ta nghe nói sau khi Đồng Xương công chúa gặp ác mộng, lo rằng có người lấy trộm trâm Cửu loan, nên đã cho cất giữ thật kỹ. Nếu không có Ngụy Hỷ Mẫn phối hợp, làm sao phạm nhân đánh cắp được cây trâm?”
Cả công đường lặng phắc như tờ, mọi người đều trầm ngâm nghĩ ngợi, không ai dám lên tiếng.
Hoàng đế nhìn sang Thôi Thuần Trạm: “Thôi thiếu khanh.”
Thôi Thuần Trạm không dám đáp lời, mồ hôi đã đầm đìa lưng áo: “Thần… Thần vẫn…”
Thấy hắn lúng túng, hoàng đế lại trỏ Tiền Quan Sách đang nửa quỳ nửa bò rạp dưới đất: “Ngươi nói xem!”
Tiền Quan Sách run cầm cập, quỳ mọp dưới đất, không thốt nổi lên lời.
Hoàng đế nghiến răng quát: “Còn không mau khai ra, trẫm sẽ tru di chín họ nhà ngươi!”
Tiền Quan Sách cuống lên, lập cập thưa: “Tội nhân… Tội nhân từng dẫn một đám thợ tới phủ công chúa sửa sang đường nước… Tội nhân theo đường nước lẻn vào…”
“Phòng công chúa ở trên đài cao, đồ ăn thức uống và nước nôi đều do thị nữ hoạn quan bưng lên, lấy đâu ra đường nước?” Hoàng đế giận giữ phản bác: “Thôi thiếu khanh giải thích xem, phạm nhân làm thế nào lấy cắp được trâm Cửu loan?”
Thôi Thuần Trạm chẳng biết đáp thế nào, đành đứng dậy nhận tội: “Là thần sơ ý! Thần chỉ mong sớm ngày bắt hung thủ đền tội để an ủi vong linh công chúa trên trời nên đã gấp rút tra án suốt đêm ngày, khiến tinh thần không minh mẫn, bỏ qua một đầu mối quan trọng như vậy! Khẩn xin hoàng thượng đợi cho một lát, để bọn chúng thần thẩm vấn lại.”
Đại Lý Tự thừa lập tức gọi mấy vị chủ sự và tri sự lại trao đổi. Ngự sử trung thừa Tưởng Quỳ từ đầu vẫn khoanh tay nhìn, giờ mới thong dong hỏi: “Thôi thiếu khanh, những việc phạm nhân đã làm, sao còn cần các ngài trao đổi nữa?”
Biết y thừa cơ đổ dầu vào lửa, xong Thôi Thuần Trạm cũng chẳng lấy làm điều, chỉ đáp: “Lúc trước là bộ Hình phái người đến cùng Đại Lý Tự thẩm vấn, nên chúng tôi e rằng có lẽ đôi bên chưa thật hiểu nhau, thành ra sơ suất chăng?”
Thượng thư bộ Hình Vương Lân đã toan đứng ngoài cuộc, giờ thấy mình lại bị kéo vào, đành chắp tay nói: “Quả có chuyện đó, nhưng ta bận rộn, đành chọn ra mấy kẻ được việc nhất trong bộ, dốc hết sức hỗ trợ, còn về những việc khác, bản bộ thiên về định tội theo luật và xử phạt, không thể giúp đỡ quá nhiều được.”
Nghe tam pháp ty đùn đẩy trách nhiệm cho nhau, kẻ nào kẻ nấy chỉ biết khuấy cho nước đục ngầu lên, hoàng đế ngán ngẩm quay lại, thấy Quách thục phi đang thẫn thờ ngồi đó, con gái qua đời mới mấy hôm mà phi dường như đã già thêm mấy tuổi, ngài ngự không khỏi chạnh lòng, cảm thấy chỉ có phi mới là người chung thuyền mưa gió với mình, bèn đứng phắt dậy quát lên: “Câm miệng hết cho trẫm!”
Mọi người lập tức nín thít.
Hoàng đế quét mắt nhìn khắp lượt, cuối cùng dừng ở Hoàng Tử Hà: “Dương Sùng Cổ!”
Hoàng Tử Hà vội thưa: “Có nô tài.”
“Ngươi là người được trẫm chỉ định hỗ trợ Đại Lý Tự, cảm thấy vụ này thế nào?”
“Tâu hoàng thượng, vụ này can hệ rất nhiều, một vài lời không thể giải thích tận tường được. Cái chết của công chúa cũng do đủ thứ mắt xích lần lượt móc nối vào nhau gây ra, có cái là trùng hợp, cũng có thứ là con người cố tình tạo nên, không thể tách ra mà giải thích. Nếu bệ hạ cho phép, nô tài xin được thuật lại mọi chuyện từ đầu đến cuối, bắt đầu từ vụ Ngụy Hỷ Mẫn.”
Hoàng đế gắng nén cơn giận, lạnh lùng nhìn cô: “Được, tam pháp ty đã không giải thích được thì ngươi thử nói xem sao!”
“Thưa vâng.” Hoàng Tử Hà khom lưng đáp, “Nô tài cho rằng, căn nguyên của chuỗi án mạng này khởi đầu từ việc một người con gái bị lăng nhục, nhưng thứ liên kết lại tất cả đầu mối lại là một bức tranh. Chính là bức ngự bút của tiên hoàng được người nhà họ Trương cất giữ, cũng có thể nói là tuyệt bút của tiên hoàng.”
Đoạn cô ra hiệu cho Trương Hàng Anh đưa bức họa ra, rồi tiếp tục giải thích: “Đến bây giờ, chúng nô tài vẫn không hiểu tại sao tiên hoàng lại vè ra bức tranh này, cũng như ý nghĩa thực sự của nó là gì. Nhưng có một điểm không thể nghi ngờ, là thủ pháp của hung thủ, hay có thể nói là cách chết của ba người trong vụ án này đều được mô phỏng theo hình vẽ trong tranh.”
Hoàng đế nhìn bức tranh, vẻ mặt phức tạp: “Đây là thủ bút tiên hoàng thực ư?”
“Tâu hoàng huynh, không còn nghi ngờ gì nữa.” Lý Thư Bạch đáp.
Ngài ngự nghe nói liền cầm lấy bức họa xem xét hồi lâu, đoạn thở dài hỏi: “Chẳng biết tiên hoàng để lại bức tranh này là ý gì?”
“Chuyện đó thì nô tài không rõ. Chỉ là, ba người chết trong vụ án này, Ngụy Hỷ Mẫn ứng với hình vẽ đầu tiên, bị sét đánh chết cháy. Hình vẽ thứ hai, là một người bị giam trong lồng sắt, báo hiệu cái chết của Tôn ghẻ. Hình thứ ba là loan phượng bổ xuống mổ người, ứng với…” Nói đến đây, cô ngước nhìn hoàng đế, ngừng lời. Ngài ngự cũng hiểu, cô đang muốn nhắc đến công chúa chết dưới trâm Cửu loan.
Hoàng đế săm soi bức tranh thêm một lúc thật lâu, rồi nghèn nghẹn hỏi: “Bứa họa tiên hoàng để lại từ mười năm trước, sao lại trùng hợp với ba vụ án mạng này được?”
“Tiên hoàng anh minh thần võ, nhưng nô tài trộm nghĩ, hẳn cũng không biết trước những vụ án của mười năm sau, càng không thể vẽ lại thành tranh để nhắc nhở hậu nhân được. Có lẽ bức tranh này có ý riêng của nó, nhưng trong vụ án này, lại được dùng vào một mục đích khác: để che đậy tội trạng của mình, đồng thời đổ tất cả nguyên nhân cho trời phạt, hung thủ sau khi xem bức họa này đã cố ý dựa vào nó mà gây án, hòng tạo ra một câu chuyện rùng rợn bưng bít tai mắt người đời, tránh khỏi bị pháp luật trừng phạt!”
Hoàng đế chậm rãi gật đầu: “Vậy chỉ cần tra xem nhưng kẻ nào từng trông thấy bức tranh, là có thể khoanh vùng hung thủ rồi.”
“Thưa phải, đây cũng là điểm hung thủ khéo quá hóa vụng. Một mặt, cách làm này khiến cho ba vụ án mạng trở nên mông lung mịt mờ, không biết phải bắt tay điều tra từ đâu; nhưng mặt khác, cũng xâu chuỗi cả ba vụ lại, khiến người ta hiểu ngay, hung thủ trong ba vụ chỉ là một người. Chúng nô tài chỉ cần tập hợp những điểm chung của ba nạn nhân lúc sinh thời là đoán được hung thủ ắt phải có liên quan mật thiết đến Lữ Tích Thúy, hơn nữa cũng từng xem qua bức tranh của nhà họ Trương.”
Mọi người trên công đường đều đổ dồn mắt vào Trương Hàng Anh.
Trước ánh mắt của mọi người, Trương Hàng Anh hết sức căng thẳng, luống cuống lùi lại một bước. Xong Hoàng Tử Hà chăm chú nhìn gã nói tiếp: “Đúng vậy, xét ra thì Trương Hàng Anh rất đáng nghi. Trong số những người có liên quan tới vụ việc của Lữ Tích Thúy, thì bản thân cô ta có thời gian gây án ở vụ Ngụy Hỷ Mẫn và Tôn ghẻ, nhưng khi công chúa qua đời, cô ta lại đang bị giam trong tịnh thất Đại Lý Tự, hoàn toàn không thể lẻn ra ngoài giết người rồi âm thầm trở về được.
“Lữ Chí Nguyên, có thời gian gây án khi công chúa qua đời, xong lúc Ngụy Hỷ Mẫn chết, ông ta lao lực quá độ mà ngất xỉu, được khiêng về nhà, có đại phu và hàng xóm chăm sóc, không thể lẻn từ phường Phong Ấp đến tận chùa Tiến Phúc giết người được. Khi Tôn ghẻ chết, ông ta cũng đang vùi đầu vào trong tiệm làm cây nến khác để cúng tiến cho chùa Tiến Phúc, rất nhiều chủ tiệm và khách khứa ở chợ Tây đều có thể làm chứng
“Chỉ có.. Trương Hàng Anh, trong cả ba vụ đều không có chứng cớ ngoại phạm. Hay nói cách khác, khi cả ba vụ án xảy ra, Trương Hàng Anh đều có mặt tại hiện trường.”
Thấy mọi ánh mắt đều đổ dồn lên mình, Trương Hàng Anh kinh hoàng lùi lại, vô thức phân bua: “Không… tôi, tôi không giết người mà…”
Chu Tử Tần cũng cuống quýt kéo tay Trương Hàng Anh phân trần: “Sùng Cổ, tuy Trương nhị ca có lý do ra tay, nhưng ta tin rằng huynh ấy không giết công chúa! Dù muốn giết người, huynh ấy cũng sẽ không dùng những cách ấy, con người ngay thẳng như huynh ấy, sao có thể bày ra nhiều kế sách thế được!”
Hoàng Tử Hà gật đầu với gã, rồi quay ra nói với tất cả: “Theo trình tự thời gian thì vụ án đầu tiên là Ngụy Hỷ Mẫn chết tại chùa Tiến Phúc. Nghi vấn lớn nhất trong cái chết của y là bấy giờ chùa Tiến Phúc người đông như nêm, khi sấm sét giáng xuống làm cây nổ nến, mọi người bỏ chạy tứ tán, người khác chỉ dính vài đốm lửa, riêng Ngụy Hỷ Mẫn cả người bắt lửa cháy bùng lên mà chết. Ai nấy đều nói chuyện này do trời giáng sấm sét trừng phạt, nhưng trời cao có bao giờ động lòng trước một phận người nhỏ nhoi? Theo nô tài thấy cái chết của y là do hung thủ cố tình sắp xếp, bất kể trời có giáng sấm sét hay không thì hôm ấy Ngụy Hỷ Mẫn cũng sẽ chết cháy.”
Lý Nhuận tròn mắt hỏi: “Nhưng… trừ thần Phật ra, lẽ nào trên đời thực sự có kẻ thao túng được được sấm sét đánh trúng người mình muốn giết ư?”
“Tân vương gia, nhìn bề ngoài rõ ràng là báo ứng, không mảy may sơ hở, tiếc rằng hung thủ vẫn để lại dấu vết tại hiện trường, chúng nô tài truy ra từ đó, mới lần ra rất nhiều điểm nghi vấn.” Nói đến đây, Hoàng Tử Hà nhìn lướt qua tất cả mọi người đứng trên công đường. Ngay cả hoàng đế và Quách thục phi lần này đến đây chỉ vì cái chết của Đồng Xương công chúa, cũng phải sinh lòng nghi hoặc, chăm chú lắng nghe.
Hoàng Tử Hà quay lại, gật đầu ra hiệu cho Chu Tử Tần.
Gần đây Chu Tử Tần phối hợp với cô cực kì ăn ý, lập tức vào kho vật chứng Đại Lý Tự lấy ra một sợi dây sắt, đưa cho cô: “Sợi dây sắt này được phát hiện ở chùa Tiến Phúc, có liên quan gì tới vụ án không?”
“Đa tạ công tử, đây chính là vật để hung thủ che đậy thủ pháp của mình, cũng là công cụ giết người.” Cô nhận lấy sợi dây, trò vào đầu đã cháy thành màu xanh đen, nói tiếp: “Cháy đến thế này, rõ ràng không thể do mấy đốm lửa vung vãi ở hiện trường được, mà phải bị thiêu đốt khá lâu. Bấy giờ tại chùa Tiến Phúc, nơi nào có lửa cháy thật lâu, khiến sợi dây thành ra thế này? Nô tài nghĩ, chỉ có hai cây nến lớn. Hơn nữa, người duy nhất có thể nhét thứ này vào trong nến, đương nhiên là…” Cô cầm sợi dây sắt, quay đầu nhìn về phía Lữ Chí Nguyên đang lặng thinh đứng ở cuối công đường.
“Lão Lữ, ta có chuyện muốn hỏi, lão nhét sợi sắt này vào nến để làm gì vậy?”

Q.2 – Chương 23: Hồi 21: Sinh Trai Sinh Gái

Mọi người nhìn sang Lữ Chí Nguyên, xôn sao bàn tán. Từ khi bước vào Đại Lý Tự, Lữ Chí Nguyên vẫn cúi đầu đứng trong góc. Ai nấy đều khinh bỉ Lữ Chí Nguyên, nên khi nhắc tới mấy người có quan hệ với Tích Thúy, mọi người chỉ nhìn lướt qua lão, chẳng ai để tâm.
Vậy mà giờ đây, Hoàng Tử Hà lại giơ sợi sắt hỏi lão.
Ánh mắt mọi người cũng theo đó mà đổ dồn đến.
Lữ Chí Nguyên đứng trong góc tôi công đường, ra sức giấu mình đi. Dáng người lão vẫn còng gập, mặc bộ đồ cũ kỹ, bóng tối khiến cho những đường nét trên gương mặt cũng thành ra sâu hoắm.
Rồi dường như vẫn chưa hiểu câu hỏi, lão chậm chạp ngước lên nhìn Hoàng Tử Hà, rề rà hỏi: “Công công bảo gì cơ?”
Thôi Thuần Trạm hùa theo: “Vừa nãy chẳng phải Dương công công nói vụ án này có liên quan đến thủ bút tiên đế do nhà họ Trương cất giữ ư? Đã được họ cất giữ, sao Lữ Chí Nguyên lại xem được?”
“Đương nhiên là xem được. Sau khi Ngụy Hỷ Mẫn chết, lão Lữ từng đến tìm Tích Thúy đòi tiền dưỡng dục, cô ấy bèn lấy bức họa này ra cho cha mình xem, đồng thời nói với lão nội dung của ba hình vẽ mà mấy người chúng tôi suy đoán được. Có điều bấy giờ lão Lữ không tin, nên cô ấy mới giận dữ đem tranh đi cầm lấy mười quan tiền đưa cho lão.”
“Bởi vậy… lão Lữ thực sự đã từng xem bức tranh này.” Chu Tử Tần khẳng định, xong vẻ mặt vẫn đầy hoài nghi: “Có điều… công công cũng nói lão ta đến vòi tiền mà, lẽ nào kẻ như vậy… lại giết người ư?”
“Hừ… đời nào. Lão đòi được tiền rồi, việc gì còn phải đi giết người báo thù cho con ranh ấy?” Lữ Chí Nguyên cười nhạt lắc đầu quả quyết, “Lão không hề bỏ thứ này vào nến, có lẽ là kẻ nào khác lén lút cho vào, hoặc nó vốn lẫn trong thẻ hương, cháy trong lư hương thành ra như thế, liên quan gì đến lão?”
“Nhưng bấy giờ lư hương lớn ở chùa Tiến Phúc không hề bị đổ, giả sử sợi sắt này lẫn trong đó thì làm sao rơi ra ngoài được? Còn như lời lão, có kẻ khác lén lút bỏ nó vào trong cây nến, lại càng không có khả năng.” Đoạn cô giơ đầu cong ra trước mặt lão, “Nếu sợi dây này thẳng tắp thì may ra còn có thể cắm thẳng vào tim nến, nhưng đầu cong này lại ở phía dưới, trừ lão có thể bỏ vào trong khi chế tạo, còn ai cắm nổi đầu cong này vào sợi bấc nến thẳng tắp bện chặt chứ?”
Lữ Chí Nguyên rề rà đáp: “Lão… già rồi, mắt mũi kèm nhèm, có lẽ lúc nào đó vô tình để lẫn một sợi sắt vào bấc đèn mà không biết. Dám hỏi công công, chút sai sót đó của lão phạm vào tội gì mới được chứ?”
“Lão vô ý để lẫn một sợi sắt vào thực ư? Dù thế nào ta cũng không tin, bởi hành vi tưởng chừng như vô ý đó, lại là khởi đầu, cũng là trọng điểm của cả vụ án.” Hoàng Tử Hà lắc đầu nói tiếp: “Lão Lữ, lão quả đã dốc nhiều tâm sức sắp đặt vụ này. Mấy ngày trước khi xảy ra chuyện, tiết trời oi bức, chỉ chực đổ mưa, lão cũng để ý thấy cây nến cao đến một trượng như thế, hẳn là ngang với đại điện, hễ cắm thêm một sợi sắt vào thì rất dề dẫn sấm sét. Vậy là lão thêm một sợi sắt mảnh vào tâm nến. Rồi đề phòng người khác phát hiện, lão lại khăng khăng đòi đích thân dựng nến. Như vậy, sau khi dựng xong, lão có thể rút một đầu sợi sắt giấu trong nến ra, tiện dẫn sấm sét. Hơn nữa, sau khi cất thang đi, những người phía dưới ai mà để ý trong ngọn nến đang cháy lại giấu một sợi sắt mảnh cơ chứ?”
“Thì ra… cái gọi là trời giáng sấm sét, lại do lão ta tạo ra ư?” Thôi Thuần Trạm trợn trừng cả mắt, “Vậy… chẳng phải lão quá may mắn ư, tự dưng sét lại đánh trúng ngay kẻ thù của lão!”
“Đương nhiên phải có nguyên do chứ, bằng không giữa bấy nhiêu người, sao thiên lôi lại chọn đúng Ngụy Hỷ Mẫn?” Hoàng Tử Hà đưa sợi sắt cho mọi người xem, “Sợi dây này vốn là trên thẳng dưới cong, không rõ các vị đại nhân có để ý hay không. Đoạn thẳng phía trên, không chỉ có vết cháy, mà còn dính ít tro than. Nhưng phần cong bên dưới lại không hề thấy vết cháy, lạ không cứ? Có lần nô tài từng quan sát lão Lữ làm tâm cho loại nến lớn này, sau khi dùng vải thô bọc kín sợi bấc, ngâm vào sáp lỏng, lão bèn móc một cây kim sắt đã nung đỏ vào đầu sợi bấc, rồi cắm vào thân sáp đã bắt đầu đông. Bởi vậy dù cây nến nổ tung thì dây bấc ghim sợi sắt có lớp vải bọc ngoài, lại có sáp nến bao bọc, sẽ rất khó bị nổ tan tác. Mà dù cho nổ tan tành thì sợi sắt ngâm trong sáp lỏng đã cháy âm ỉ một thời gian chắc chắn bị ám đen, cọ rửa không sạch nổi. Vậy mà đầu dưới của sợi sắt này vẫn trắng, là vì sao?”
Bọn Thôi Thuần Trạm, Vương Lân, Tưởng Quỳ chuyền tay nhau săm soi sợi sắt, trầm ngâm suy nghĩ.
Hoàng đế tuy tò mò về cái chết của Ngụy Hỷ Mẫn, xong còn canh cánh vụ án của con gái mình, bèn giục: “Dương Sùng Cổ, ngươi mau nói ra đi.”
“Thưa vâng. Theo nô tài đoán thì tâm cây nến lúc trước Lữ Chí Nguyên làm, chỉ dài bằng nửa sợi thép này thôi. Phần thẳng tắp ám đen phía trên là cắm vào tâm nến, còn nửa cây nến bên dưới thực ra không hề có ruột, chỉ có sợi sắt trần, nên không thể cháy được.”
Mọi người nghe xong đều ngạc nhiên ra mặt, Chu Tử Tần vội hỏi: “Lão tạo ra một cây nến lớn, lại rỗng ruột phân nửa như vậy làm gì?”
“Lão muốn dùng cây nến này giấu một vật. Đầu dưới sợi sắt bị bẻ cong, là để khỏi chọc vào vật đó.”
Chu Tử Tần vỗ trán reo lên: “Nhất định lão giấu lưu huỳnh và thuốc nổ trong nến rồi! Thế nên khi sét đánh xuống, sợi sắt dẫn sét làm cây nến bùng cháy, Ngụy Hỷ Mẫn đứng cạnh đó mới bén lửa!”
“Không đúng, ngay sau vụ cháy ta đã tới tra xét, đâu có ngửi thấy mùi lưu huỳnh và thuốc nổ ở hiện trường.” Thôi Thuần Trạm lập tức phản bác: “Huống hồ bấy giờ Lữ Chí Nguyên không có mặt, sao có thể đảm bảo khi cây nến phát nổ Ngụy Hỷ Mẫn đang ở gần đó, hơn nữa lửa lại bén ngay vào y chứ?”
Chu Tử Tần lúng túng gãi đầu, bối rối nhìn sang Hoàng Tử Hà.
“Trên đây là những chứng cứ mà chúng ta thấy được, nhưng vụ án này còn một chứng cứ vô hình nữa. Đó chính là: bấy giờ những người ở đó gồm có, Quỳ vương gia, Chu công tử, Trương nhị ca, Lữ Tích Thúy, và cả nô tài, năm người kẻ đứng gần, người đứng xa cây nến, nhưng trước khi nó phát nổ, không một ai trông thấy Ngụy Hỷ Mẫn cả.” Nói đến đây, Hoàng Tử Hà quay sang nhìn Lý Thư Bạch.
Lý Thư Bạch gật đầu khẳng định: “Bản vương quả thực không hề trông thấy Ngụy Hỷ Mẫn. Y là người bên cạnh công chúa, nến bản vương nhác thấy trong chùa Tiến Phúc, nhất định sẽ có ấn tượng mới phải.”
“Một người nhìn qua là nhớ kỹ như Quỳ vương gia mà không phát hiện ra Ngụy Hỷ Mẫn, còn có thể nói là y ở giữa đám đông chen lấn, đứng xa khó trông thấy được, nhưng Trương Hàng Anh và Lữ Tích Thúy bấy giờ ở ngay bên cạnh cây nến, hơn nữa họ Ngụy là kẻ góp phần tạo nên bi kịch của Tích Thúy, lại mặc y phục hoạn quan đỏ rực, sao hai người họ cũng không trông thấy?”
Trước ánh mắt ngỡ ngàng xen lẫn nghi hoặc của mọi người, Hoàng Tử Hà chốt lại kết luận quan trọng nhất: “Vì cây nến cao hơn một trượng, to bằng nửa người ôm, trừ phần sáp đã chảy phía trên và phần dưới cùng hơi nhỏ hơn ra, cũng còn cao đến tám thước, thân hình Ngụy Hỷ Mẫn chỉ năm thước rưỡi, thừa sức nhét vào trong!”
Trước phán đoán bất ngờ đến gần như điên rồ này, cả công đường lặng phắc, người kinh ngạc, kẻ thảng thốt, kẻ nghi ngờ.
“Sáp vốn đã đục, lại bị sơn phết màu đủ thứ màu lòe loẹt, thừa sức che kín thân người nên trong; để có không gian, lão Lữ đã bỏ phần ruột bên dưới đi, còn thừa lúc vẽ hoa văn trên thân nến mà đục thủng mấy lỗ nhỏ, để người bên trong vẫn có không khí; đồng thời bẻ cong một đầu sợi sắt để khỏi chọc vào đầu Ngụy Hỷ Mẫn, hơn nữa cũng có thể dẫn lửa vào trong, khiến cây nến tạo thành từ hỗn hợp những thứ dế cháy như chu sa, lưu huỳnh, dầu đen chóng nổ tung,”
Trương Hàng Anh, Chu Tử Tần, Lý Nhuận đều ngây ra nhìn Hoàng Tử Hà, rồi lại nhìn sang lão già còng gập, hèn hạ là Lữ Chí Nguyên, nghi ngờ ra mặt.
Lữ Chí Nguyên cúi nhìn nền gạch xanh dưới chân, cười nhạt: “Lão chẳng hiểu công công nói gì cả, bảo lão giấu một người sống sờ sờ trong cả cây nên ư? Còn đưa cả cây nến lẫn người đó đến chùa Tiến Phúc nữa? Suy nghĩ của công công kỳ quặc thật đấy!”
“Đúng là mới nghe thì hoang đường thật, nhưng trong tay ta lại có chứng cớ rành rành.” Hoàng Tử Hà quả quyết nói tiếp: “Thứ nhất, hôm giao nến cho nhà chùa, rõ ràng lão đã thức làm suốt đêm, mệt mỏi rã rời, tại sao không để người khác đi, mà lại khăng khăng phải đích thân đưa đến chùa Tiến Phúc, dựng nến xong xuôi mới chịu về?”
“Lão thành tâm cúng phật, dốc hết tâm huyết mấy tháng mới làm được đôi nến, để người khác đưa đi, lão không yên tâm!”
Hoàng Tử Hà chẳng buồn phản bác, mà tiếp tục nói: “Thứ hai, chùa Tiến Phúc phải mất nửa năm mới gom đủ sáp để tạo ra hai cây nến ấy, kết quả bị sét đánh nổ tung, cháy rụi trong nháy mắt. Nếu dùng sáp thường, lẽ nào có thể cháy sạch sành sanh, chỉ còn lại vẻn vẹn nửa vò mà lão cạo về thôi ư? Lão sợ số sáp còn lại quá ít, sẽ bị người khác phát hiện ra chuyện cây nên rỗng ruột, nên mới bỏ vào lượng lớn phẩm màu, hễ gặp lửa là cháy bùng lên, phi tang toàn bộ số sáp nến còn dư.”
Lữ Chí Nguyên nói mà chẳng buồn nhìn cô: “Công công thì biết gì? Lúc làm nến, để nhuộm màu, tất nhiên phải bỏ phẩm vào rồi.”
“Nhưng lão làm nến mấy chục năm nay, lẽ nào không biết nếu bỏ quá nhiều chu sa, lưu huỳnh, dầu đen vào, thì gặp lửa cả cây nến sẽ cháy bùng nên sao?” Đoạn Hoàng Tử Hà lắc đầu tiếp: “Huống hồ, lão còn phạm phải một sai lầm mà người thợ làm nến luôn phải tránh, chính là bỏ chu sa vào sáp nến.”
Lữ Chí Nguyên cười nhạt: “Ai bảo lão bỏ chu sa vào? Rõ ràng lão chỉ dùng phẩm màu thông thường, công công không bằng không cớ, sao lại tùy tiện gán tội cho lão?”
“Tuy mọi người ở đó không sao, nhưng ta có chứng cứ rành rành. Sau vụ cháy thì trời đổ mưa, nước mưa đã xối trôi số sáp nến còn lại xuống hồ cá, khiến tất cả cá trong hồ phóng sinh chết hết trong một đêm!” Hoàng Tử Hà nói, đoạn quay lại nhìn Chu Tử Tần đang há hốc miệng: “Bấy giờ Chu công tử từng nhặt một con về kiểm nghiệm, nguyên nhân chết là gì?”
“Trúng độc thủy ngân.” Chu Tử Tần đáp ngay.
“Đúng thế, đây chính là lý do tại sao khi làm nến không được dùng chu sa. Vì sau khi chu sa gặp lửa cháy bùng lên, sẽ tạo thành hơi thủy ngân, hơi thủy ngân tan vào không khí, ai hít phải sẽ trúng độc, sao có thể dùng được? Vậy mà để ngọn nến dễ bắt cháy, lão cả gan bỏ chu sa vào!” Hoàng Tử Hà nhìn xoáy vào Lữ Chí Nguyên, “Lúc trước khi ta đến tiệm của lão, từng thấy lão quết màu đỏ lên nến, cây nên đỏ ấy hẳn là không bỏ chu sa, cũng không tỏa ra khói độc. Thế thì tại sao lão lại nhất quyết phải bỏ chu sa, thứ vừa đắt đỏ vừa nguy hiểm vào cây nến ở chùa hôm ấy? Lão luôn miệng nói cái gì thành tâm cúng Phật, sao lại làm một cây nến độc hại như thế dâng lên pháp hội Phật môn? Lẽ nào không sợ nam phụ lão ấu ở chùa hôm ấy hít phải khói độc hay sao?”
Lữ Chí Nguyên cứng họng. Lão đứng ngược sáng, những nếp nhăn trên mặt hằn lên làm cả gương mặt thoắt chốc già sọm đi.
Lão há miệng, nhưng chẳng thốt nổi lời nào.
“Thực ra cũng không sao cả, đúng không nào? Từ đầu lão đã biết cây nến cháy không được bao lâu sẽ phát nổ, tới lúc đó mọi người bỏ chạy tứ tán, chút thủy ngân ấy không hại được ai cả.” Hoàng Tử Hà lắc đầu, “Nhưng dẫu sắp xếp cẩn thận đến đâu, lão vẫn để lộ sơ hở. Chùa Tiến Phúc mất nửa năm trời mới gom được chừng ấy sáp, vậy mà chỉ vỏn vẹn mấy ngày, lão đã tìm đủ lượng sáp để chế tạo một cây nến tương tự, không rõ lão lấy sáp ở đâu ra? Lão nói là do mình tích trữ nhiều năm nay, nếu vậy thì chùa Tiến Phúc cần gì phải đi khắp nơi thu mua nữa? Thực ra ngay từ đầu lão đã chẳng dùng hết số sáp kia, vì cây nến của lão vốn rỗng ruột!”
Thấy Lữ Chí Nguyên mặt mày tái ngắt, không còn lời nào để phân bua, Chu Tử Tần liền thắc mắc: “Sùng Cổ, ta vẫn có một điểm chưa hiểu! Tuy mấy hôm đó thời tiết oi bức chỉ chực mưa, nhưng nếu trời không đổ mưa thì lão ta định thế nào?
“Dù sợi sắt kia không dẫn được sấm sét thì lớp sáp bên dưới chẳng phải vẫn được trộn dầu đen và lưu huỳnh đó ư? Cây nến cứ cháy như vậy thêm một lúc nữa cũng sẽ phát nổ, lửa bùng lên thiêu chết Ngụy Hỷ Mẫn bên trong. Đến lúc ấy lão chỉ cần nói rằng trong lúc làm nên có sơ suất, khiến cây nến phát nổ, vô tình làm bị thương người khác là xong.”
Thôi Thuần Trạm cau mày: “Đúng là… Ngụy Hỷ Mẫn bị giấu trong cây nến, Liễu Chân pháp sư đúng lúc ấy đang giảng đến việc báo ứng thì sấm sét rền vang, sợi sắt dẫn sét làm nổ cây nến, nhìn bề ngoài cứ như trời giáng thiên lôi trừng phạt vậy. Trong lúc hoảng loạn chen lấn như thế, mọi người sẽ chỉ cho rằng kẻ bén lửa là người đứng gần cây nến mà thôi.”
Chu Tử Tần vẫn chưa hết nghi hoặc: “Bấy giờ chẳng phải Ngụy Hỷ Mẫn đã lăn lộn kêu gào ư, sao một người sống sờ sờ lại chịu ngồi yên trong cây nến chừng ấy thời gian?”
“Công tử quên linh lăng hương rồi ư? Tiền Quan Sách nghe Lữ Chí Nguyên nói mới nhập một lô linh lăng hương thượng hạng, bèn mua tặng cho Xương Bồ ở phủ công chúa để tạ ơn. Xương Bồ là người dưới, theo quy củ trong phủ, hễ có thứ gì quý phải dâng lên công chúa xem trước. Công chúa sau khi thành hôn vẫn chưa sinh con, đời nào lại dùng thứ không tốt cho việc hoài thai như thế. Trái lại, Ngụy Hỷ Mẫn một là tham lam, hai là mắc chứng đau đầu, đối với y, linh lăng hương chính là bảo bối, bèn điềm nhiên chiếm dụng. Mỗi ngày dùng một lạng, đến ngày thứ bảy thì hết sạch, y bèn đến chỗ Xương Bồ đòi thêm, sau khi làm rộn cả một trận lại chạy tới nhà Tiền Quan Sách uy hiếp, Tiền Quan Sách bèn dẫn y tới tiệm của Lữ Chí Nguyên. Ấy là đêm trước pháp hội ở chùa Tiến Phúc. Ngụy Hỷ Mẫn đi cả đêm không về, để rồi đến ngày hôm sau, kẻ xưa nay không tin thần Phật như y thình lình xuất hiện tại chùa, vừa xuất hiện đã bén lửa cháy bùng lên, chết trong tiếng kêu gào thảm thiết.” Hoàng Tử Hà nhìn xoáy vào Lữ Chí Nguyên, chậm rãi tiếp: “Lữ Chí Nguyên tính toán mọi chuyện rất kín kẽ; một là theo quy củ phủ công chúa, bất cứ kẻ nào có được vật gì quý giá đều phải dâng lên cho chủ nhân xem trước; hai là lợi dụng Tiền Quan Sách đưa linh lăng hương cho họ Ngụy; ba là ước lượng chính xác liều dùng cho bệnh nhân mắc chứng đau đầu, khiến mấy ngày sau y phải tới xin thêm. Mọi chuyện đều nằm trong dự kiến của lão, Ngụy Hỷ Mẫn tự đâm đầu vào lưới, hơn nữa còn mất tích trong tiệm nhang đèn của lão. Ta đoán hẳn đêm ấy lão đã dùng linh lăng hương trong tiệm, khiến Ngụy Hỷ Mẫn ngủ thiếp đi, mãi tới hôm sau khi cả người bén lửa mới tỉnh dậy.”
Ánh mắt mọi người đều đổ dồn vào Lữ Chí Nguyên, thân hình già nua gầy gộc của lão bất động như gốc cây cằn cỗi nhiều năm, nhuốm đầy sương gió, nhưng cũng đầy cứng cỏi.
Hoàng Tử Hà hùng hồn nói tiếp: “Cái chết của Tôn ghẻ, lão cũng không thoát khỏi liên quan đâu.”
“Không, vụ Tôn ghẻ có lẽ Dương công công đoán sai rồi.” Trương Hàng Anh nhìn Lữ Chí Nguyên nãy giờ vẫn lặng thinh không nói, biện bạch, “Tôn ghẻ chết đúng vào giữa trưa… Bấy giờ tôi và A Địch đều đến nhà hắn định ra tay, nhưng không tìm được cơ hội, mà cũng không hề gặp… lão Lữ ở phường Đại Ninh, hơn nữa về sau có rất nhiều người làm chứng, cũng lúc ấy lão ta đang ở cửa tiệm chợ Tây làm nến, tôi không tin lão ta sát hại Tôn ghẻ.”
“Đương nhiên lão ta không cần tới đó, bởi từ khoảnh khắc gọi người tới sửa nhà, Tôn ghẻ đã chết chắc rồi.” Đoạn Hoàng Tử Hà ngoái lại ra hiệu cho Chu Tử Tần lấy chiếc hộp sắt gỡ từ cửa nhà họ Tôn xuống cho mọi người xem, “Trên cửa chính nhà họ Tôn có gắn một chiếc hộp sắt, loại đang thịnh hành trong kinh như thế này, bấy giờ người thợ sửa nhà cho Tôn ghẻ đã gắn cho hắn một chiếc hộp mới, nước sơn còn tươi rói, nhưng sau khi xảy ra vụ án, sơn đã tróc hết ra.”
“Chiếc hộp sắt này… là Tiền Quan Sách làm mà!” Thôi Thuần Trạm chỉ ngay vào Tiền Quan Sách đang quỳ mọp dưới đất.
Ánh mắt mọi người một lần nữa dồn vào họ Tiền.
Tiền Quan Sách đã tái ngắt mặt mày, rũ ra như một cái xác không hồn, lúc này chợt nhìn Hoàng Tử Hà, rồi lại nhìn sang Lữ Chí Nguyên, cặp mắt đờ đẫn cuối cùng cũng trợn trừng lên, chẳng biết lấy đâu ra sức lực, hắn lồm cồm bò dậy gào lên: “ Oan uổng… Oan uổng quá! Tiểu nhân không hề giết người! Cái hộp sắt đó… mua từ lò rèn Lưu Ký, sau khi lấy một lô hàng về, tiểu nhân cũng chỉ xem qua thôi!”
Chu Tử Tần cuống lên, kéo tay Hoàng Tử Hà hỏi: “Theo công công thì cái hộp sắt này liên quan gì đến cái chết của Tôn ghẻ?”
Hoàng Tử Hà hỏi lại: “Lý chính phường Đại Ninh từng nói, lúc ông chủ Tiền đạp cửa xông vào nhà họ Tôn thì một luồng khí đen từ trong nhà xộc ra, mọi người đều cho rằng đó là sát khí của oan hồn Tích Thúy, công tử có nhớ không?”
“Ta nhớ, đúng là lý chính từng nói vậy.” Đoạn Chu Tử Tần nhìn sang Trương Hàng Anh, gãi đầu bối rối: “Nhưng Tích Thúy chưa chết, lấy đâu ra sát khí với chẳng oan hồn?”
“Là thế này, có người đốt cháy thứ bên trong hộp sắt đặt trên cửa, khi cánh cửa bị đạp tung, tro bụi cũng lả tả rơi xuống, mà không khí trong nhà bị bịt kín mấy hôm, nên cửa vừa mở ra, tro than tức thì theo luồng khí xộc ra ngoài, tạo thành cái gọi là sát khí đen.” Hoàng Tử Hà lại trỏ lớp sơn đã cháy đen, bong tróc mà nói, “ Nhưng trong phòng không có dấu vết đồng lửa, chỉ có chút tro than còn sót lại bên trong chiếc hộp này mà thôi. Bởi thế, tôi cho rằng, hung thủ đã ra tay từ đây.
“Sau khi phát hiện xác chết Tôn ghẻ, Đại Lý Tự lập tức niêm phong căn nhà, không một ai chạm vào cái hộp này được nữa, nên khả năng duy nhất là sau khi nhà cửa được sửa sang lại, vào khoảng thời gian từ đêm hôm trước đến trưa ngày hôm sau, có kẻ đã đốt thứ gì đó trong chiếc hộp này. Thứ đó, như tôi phán đoán, nhất định là linh lăng hương. Vì tối hôm chúng tôi tới tra xét, Vương đô úy, con trai Vương thượng thư cũng đi theo, vừa vào nhà, đô úy đã ngửi thấy mùi linh lăng hương. Vương đô úy vốn nổi dang kinh thành về phân biệt mùi hương, hẳn không thể ngửi lầm được. Hơn nữa tôi dám chắc loại linh lăng hương này giống hệt thứ đã khiến Ngụy Hỷ Mẫn hôn mê, nên Tôn ghẻ bị đâm hai nhát mà vẫn nằm yên không nhúc nhích, cứ thế chết đi.”
Thôi Thuần Trạm vội gặng: “Nhưng Lữ Chí Nguyên làm sao lẻn vào căn phòng kín như thế để giết Tôn ghẻ được? Lẽ nào… lão cũng biết đường nước ngầm chạy qua đó?”
“Vụ này chẳng liên quan gì tới đường nước cả, nếu hung thủ lẻn vào theo đường nước, nhất định nền đất sẽ có dấu vết đào xới, dù bị những người chạy theo Tiền Quan Sách tới xem náo nhiệt san phẳng, thì cũng không thể lèn chặt, phẳng phiu như thế được. Huống hồ Lữ Chí Nguyên lúc đó đang dở tay trong tiệm, làm gì có thời gian bò vào nhà người ta bằng đường nước?” Hoàng Tử Hà bảo Chu Tử Tần vạch lớp hoa văn chạm trổ trên hộp ra, nói tiếp: “Các vị thấy đấy. giữa đám tro tàn vẫn còn hai đầu ngón tay quẹt qua. Khi chúng tôi chứ xem xét đến, ai mà để tâm tới cái hộp chìm nghỉm trong lớp lớp bùa chú tranh vẽ chất chồng trên tường nhà họ Tôn chứ? Càng không ai ngờ trong hộp còn cất giấu đồ vật. Tôi nghĩ, kẻ duy nhất có khả năng thò ngón tay vào lấy thứ bên trong ra, ắt là hung thủ. Nhưng hung thủ muốn lấy cái gì?”
Mọi người đều nhìn chằm chằm vào lỗ hổng nhỏ trên mặt hộp, vắt óc ngẫm nghĩ, nhất thời cả công đường lặng phắc, chỉ mình Trương Hàng Anh ngẩn ngơ nhìn cha của Tích Thúy như nhìn một người xa lạ, bản thân Lữ Chí Nguyên cũng thẫn thờ đứng đó, chẳng nói chẳng rằng, tựa hồ tất cả những gì Hoàng Tử Hà nói không liên quan gì đến lão.
Sau một khắc im lặng ngắn ngủi, Lý Thư Bạch chậm rãi cất tiếng: “Là một cái lẫy đàn hồi.”
“Đúng vậy, chính là loại lẫy đàn hồi thường gắn vào cung nỏ. Khi nó cọ vào lớp tro, sẽ để lại một đường cong khá lớn, nhưng dù lỗ hổng này có nhỏ hơn thế chăng nữa, chỉ cần xoay vài lần là lấy ra dễ dàng.” Hoàng Tử Hà nhìn sang Lữ Chí Nguyên, nói như than thở: “Lão Lữ năm xưa từng tòng quân, hơn nữa lại gia nhập đội cung nỏ.”
“Lẽ nào Lữ Chí Nguyên… đặt một cây nỏ vào bên trong ư?” Chu Tử Tần sững người.
“Không, chỉ cần hai cái lẫy là đủ.” Hoàng Tử Hà trỏ chiếc hộp giảng giải, “Phết lân tinh lên mặt hộp hướng ra ngoài, đặt linh lăng hương đằng sau, phía sau lớp linh lăng hương lại dùng sáp nến ghim chặt một cái lẫy, bên trên gài hai lá sắt mỏng tẩm độc.”
“Ta nghĩ ra rồi! Tôn ghẻ lở loét khắp người, nên lúc ngủ phải nằm nghiêng, mà lão Lữ lại ở trong đội cung nỏ nhiều năm, thừa sức căn chỉnh lẫy theo độ lớn của góc giữa giường và cửa chính rồi dùng sáp nến cố định lại, ngắm chuẩn kẻ luôn nằm nghiêng trên chiếc giường ngổn ngang đủ thứ!” Chu Tử Tần sực hiểu ra: “Trưa hôm ấy… à có lẽ chẳng cần đến trưa, hễ ánh nắng mặt trời đủ nóng, rọi vào hộp, lân tinh bị hun sẽ đốt cháy linh lăng hương. Mùi hương an thần này ắt làm Tôn ghẻ thiếp đi, mà giường của hắn vừa khéo nằm đối diện với cửa chính. Đợi linh lăng hương cháy hết, ngọn lửa bắt đầu lan ra trong hộp, lớp sáp cố định lẫy nỏ tan chảy, hai lá sắt gài bên trên sẽ bắn ra, găm vào người Tôn ghẻ. Loại linh lăng hương này có thể khiến Ngụy Hỷ Mẫn ngủ mê mệt suốt đêm, bị đưa lên xe lắc lư tròng trành cũng không tỉnh, huống hồ Tôn ghẻ, có lẽ chẳng kịp cảm thấy gì đã ô hô ai tai rồi!”
“Đúng thế, khi biết Tôn ghẻ đang tìm người gia cố nhà cửa, Lữ Chí Nguyên đã nghĩ ra kế hoạch này. Trước hết lão chọn lấy một chiếc hộp sắt từ cửa tiệm của ông chủ Tiền, dù sao thì hình vẽ trên mặt hộp cũng tương tự như nhau, sửa lại vài chỗ bên trong rồi đóng lại như cũ, sau đó xách rương đồ nghề đi đến, vờ như đến nơi mới phát hiện ra là đặt giá nến cho nhà Tôn ghẻ, làm ầm lên một trận rồi đi thẳng. Những người ở đó không hề phát hiện, thực ra lão đã đánh tráo chiếc hộp sắt mình vừa cải tạo vào, đám thợ thuyền lại nhanh nhảu, chỉ lo gắn hộp vào vị trí mà chẳng buồn nhìn lại.”
“Nếu vậy thì tất cả thợ thuyền tại đó đều bị tình nghi tráo hộp, phải không nào?” Thôi Thuần Trạm xen vào, “Hơn nữa, chúng ta chỉ cần phát hiện hai lá sắt tây găm vào người hắn, là có thể chiếu theo góc độ bắn tới mà lần ra hung khí rồi. Nhưng Tử Tần và ngỗ tác của Đại Lý Tự chẳng tìm thấy lá sắt nào trên thi thể Tôn ghẻ cả!”
“Thưa phải, lá sắt tẩm độc sẽ vạch trần bí mật cái chết trong phòng kín của Tôn ghẻ, nếu vậy thì chẳng ai cho đó là trời phạt nữa. Bởi thế chiều hôm ấy hung thủ nhất định phải đến phường Đại Ninh, sắp xếp một vở kịch, làm toáng cái chết của họ Tôn lên, hơn nữa còn phải khiến mình trở thành người đầu tiên tiếp cận thi thể. Vậy là chiều hôm ấy, trong quán rượu gần nhà họ Tôn, Tiền Quan Sách lăm le đi tính sổ lại gặp ngay Lữ Chí Nguyên hằm hè muốn đòi nợ, cả hai cùng phá cửa nhà Tôn ghẻ. Lữ Chí Nguyên đưa búa để Tiền Quan Sách phá cửa. Cả hai xông vào trước nhất, Tiền Quan Sách ngà ngà say, vô ý lôi tuột thi thể xuống đất, còn Lữ Chí Nguyên vớ như không biết nội tình, bèn thừa cơ lật cái xác lại. Nhưng không ai trông thấy, một trong hai kẻ ở gần cái xác nhất đã âm thầm rút hung khí găm vào thi thể ra, rồi giả bộ sợ hãi, cùng người kia loạng choạng lùi ra cửa. Nhân lúc mọi người nháo nhào cả lên, kẻ chạy đi báo quan, người mon men đến gần quan sát, hung thủ cũng thừa sức lấy hai cái lẫy giấu trong hộp ra.” Nói đến đây, Hoàng Tử Hà nhìn khắp công đường một lượt: “Bởi thế, trong vụ Tôn ghẻ, kẻ tiếp cận thi thể đầu tiên chính là hung thủ.”
Cô ngoái lại, ánh mắt dừng ở Tiền Quan Sách vẫn quỳ mọp tại chỗ. Vẻ mặt họ Tiền chẳng biết là kinh ngạc hay mừng rỡ, chỉ thấy hắn nhìn Lữ Chí Nguyên, lớp mỡ trên mặt rung rung.
Lý Nhuận hỏi: “ Tiền Quan Sách và Lữ Chí Nguyên đều tiếp cận thi thể đầu tiên, đúng như ngươi nói, chỉ bọn họ mới có cơ hội âm thầm rút hung khí ra. Nhưng tại sao ngươi dám quả quyết hung thủ là họ Lữ chứ không phải họ Tiền?”
“Chẳng phải rất đơn giản ư? Thứ nhất, Tiền Quan Sách chưa có dịp nhìn thấy bức họa kia, nên không thể dựa theo hình vẽ mà giết người được. Thứ hai, chỉ có hai người họ tiếp cận thi thể trước nhất. Nhưng trong hai người, Lữ Chí Nguyên đang tỉnh táo, nếu Tiền Quan Sách lén đoạt lấy hung khí, nhất định lão sẽ phát hiện ra; còn Tiền Quan Sách lại ngà ngà say, Lữ Chí Nguyên có đoạt lấy hung khí, e rằng ông ta cũng chẳng biết.”
Lữ Chí Nguyên đứng yên tại chỗ, khom lưng, cúi đầu bất động. Cặp mắt lão vẫn nhìn dán vào miếng gạch xanh dưới chân.
Ánh nắng gay gắt từ ngoài cửa rọi vào, tuy mọi người trên công đường đều quay lưng ra cửa, nhưng hơi nóng vẫn hầm hập như thiêu đốt, khiến người ta nóng lòng sốt ruột.
Cuối cùng Lữ Chí Nguyên cũng lên tiếng, phá vỡ bầu không khí im lặng, tuy gương mặt lão tái nhợt đầy mệt mỏi, xong khi ngẩng đầu lên lại để lộ ánh mắt sắc sảo khác thường.
“Đúng thế. Lão đã giết Ngụy Hỷ Mẫn và Tôn ghẻ. Chẳng phải bọn chúng đều đáng chết ư?” Giọng lão khàn đặc, nhưng hết sức bình thản, “Có lúc lão cũng ngạc nhiên, không hiểu sao mọi chuyện mình bày ra lại suôn sẻ đến thế. Thực ra lúc làm xong phần vỏ nến bên ngoài, lão đã làm cả phần ruột bên trong, một khắc trước khi Ngụy Hỷ Mẫn đến, lão cũng đã nản lòng, quyết định từ bỏ kế hoạch, gắn phần ruột vào… Nào ngờ trời vừa sẩm tối thì y mò đến, ông trời rốt cuộc đã tác thành cho lão! Lão từng nghĩ, có phải trời cao cũng rủ lòng thương con bé, nên mới giúp lão thuận lợi giết chết bọn chúng hay không…”
“Nhưng khi giết công chúa, dường như lão khá vội vã, ta đánh bạo đoán rằng việc này không nằm trong dự tính của lão phải không? Hoàng Tử Hà hỏi khẽ.
Lời này thốt ra khiến cả công đường lặng phắc, mọi người thậm chí không dám thở mạnh.
Hoàng đế tức thì biến sắc, đập bàn đứng phắt dậy, trừng trừng nhìn Lữ Chí Nguyên, mắt vằn tơ máu, gầm lên: “Đồng Xương… Đồng Xương cũng là ngươi… ra tay ư!”
Lữ Chí Nguyên cúi đầu bất động, chỉ đáp lấp lửng: “Thảo dân chưa từng bước chân vào phủ công chúa, cũng chưa bao giờ thấy mặt công chúa.”
Hình bộ thượng thư Vương Lân từ nãy lặng thinh, giờ mới lên tiếng: “Dương công công, bản quan thấy việc này còn nhiều nghi vấn. Ngươi chớ quên công chúa đã bỏ mình dưới trâm Cửu loan, mà trước khi công chúa qua đời, cây trâm này từng biến mất một cách bí ẩn. Ta nghĩ ông chủ một tiệm nhang đèn, hẳn khó mà lẻn vào phủ công chúa đánh cắp nó được?”
Quách thục phi cũng gật đầu nghẹn ngào nói: “Đồng Xương hết mực nâng niu cây trâm ấy, lần này vì gặp giấc mộng lạ nên càng trân trọng giữ gìn, ai ngờ… ai ngờ vẫn có kẻ bày ra đủ mưu ma chước quỷ lấy cắp nó…”
Hoàng Tử Hà lắc đầu: “Nô tài cho rằng, muốn lấy cắp cây trâm Cửu loan giữa trùng trùng vòng vây canh gác, chỉ cần một cách hết sức đơn giản.”
Hoàng đế trỏ cô gằn giọng: “Nói mau!”
“Miêu tả bằng lời thì hơi khó, xin Đại Lý Tự chuẩn bị cho nô tài một chiếc rương cùng hai ổ khóa một to một nhỏ, nô tài sẽ tái hiện lại cách làm cây trâm không cánh mà bay.”
Thôi Thuần Trạm lập tức cho người khiêng đến một chiếc rương, Hoàng Tử Hà liền bảo họ kê sát vào tường, rồi mượn Ngạc vương chiếc hộp đựng mảnh giấy bông, rút cây trâm ngọc trên đầu ra, dùng khăn tay gói lại đặt vào hộp.
Sau khi mời mọi người xem kỹ, cô bèn nhờ Lý Nhuận khóa hộp lại, rồi bỏ hộp và rương, khóa lại bằng một ổ khóa khác, cất chìa đi.
Xong xuôi, cô trỏ chiếc rương hỏi bọn Thùy Châu: “Lúc cất trâm Cửu loan vào kho, công chúa cũng là như vậy đúng không?”
Các ả đều rơi nước mắt thưa: “Chính là thế, không sai một bước.”
Hoàng Tử Hà gật đầu, quay sang nói với tất cả: “Các vị thấy đấy, nô tài chưa hề chạm một ngón tay vào vật trong rương, xong thực ra đã lấy được thứ bên trong rồi.”
Lý Nhuận ngạc nhiên: “Không thể nào! Ngươi luôn đứng cách ta hai bước, làm sao ra tay được?”
“Nếu không tin, xin Ngạc vương gia đưa chìa khóa, nô tài sẽ mở ra cho gia xem. Giống như lúc trước công chúa giao chìa khóa cho thị nữ, sai họ đi lấy trâm vậy.” Đoạn cô ngoái lại cười bảo đám thị nữ đang im thin thít: “Đương nhiên phải có vài người đi cùng, để giám sát lẫn nhau.”
Cùng lúc, cô đi đến trước chiếc rương, ra hiệu cho bốn ả thị nữ đứng ra sau mình, hỏi: “Trong nhà kho kê hàng dãy giá, các cô lúc ấy đứng vào đâu?”
Các ả nghĩ ngợi rồi lần lượt ai vào chỗ nấy, đứng sau lưng cô.
“Vì bị những chiếc giá xung quanh choán chỗ nên các cô chỉ có thể đứng phía sau, nhìn thấy lưng ta, nhưng không thấy được tay ta làm gì, đúng không nào?” Vừa nói, cô vừa quay mặt vào tường, mở rương, lấy chiếc hộp bên trong ra, đóng nắp rương lại, đặt hộp lên nắp, rồi lại mở hộp, kêu lên: “Cây trâm biến mất rồi!”
Nghe cô nói, không chỉ mấy thị nữ, mà tất cả mọi người trên công đường đều xúm lại. Chỉ thấy Hoàng Tử Hà đứng trước chiếc rương mở toang, tay bưng hộp không, ngoái đầu nhìn họ.
Trụy Ngọc sợ đến tái mét mặt: “Đúng thế! Cây trâm Cửu loan chẳng phải cũng biến mất thế này ư! Thùy Châu, Thùy Châu, tỷ nói có phải không?”
Thùy Châu đứng đờ ra bất động, không trả lời.
Hoàng Tử Hà lạnh lùng nói tiếp: “Cách này chỉ có người mở rương mới thực hiện được thôi.”
Chu Tử Tần sực hiểu ra, vội hỏi: “Nói vậy là khi công công mở hộp, đã tranh thủ giấu cây trâm vào tay áo hoặc ngực áo, rồi vờ như trong hộp không có gì ư?”
“Không thể nào!” Lạc Bội nói ngay, “Vừa được tin cây trâm biến mất, công chúa đã lập tức cho soát người tất cả, đừng nói là mấy người nô tỳ đi lấy trâm, mà toàn bộ thị nữ ở gác Thê Vân đều bị soát người, soát phòng. Cây trâm Cửu loan lớn như thế, nếu Thùy Châu lén giấu đi, ắt đã bị phát hiện từ sớm rồi.”
“Đương nhiên đâu thể giấu trong người.” Hoàng Tử Hà vén tay áo lên, để tất cả thấy bên trong không giấu vật gì cả, “Ta chỉ nhân lúc mở nắp rương ra lần thứ hai, nhét nó vào một chỗ mà người khác không chú ý đấy thôi.”
Đoạn cô kéo chiếc rương lùi ra xa khỏi tường một chút, tức thì mọi người đều trông thấy, cây trâm được khăn tay gói lại, bỏ vào hộp do Ngạc vương chính tay bấm khóa, đang nằm sờ sờ trong khe hở giữa tường và rương.
Giữa những tiếng ồ à kinh ngạc, Hoàng Tử Hà mở khăn tay ra, rút cây trâm gài lại lên đầu rồi đậy nắp hộp lại đưa trả Ngạc vương: “Trong khi tất cả đang bị soát người, soát phòng, chẳng ai nghĩ đến việc kéo rương ra khỏi tầng giá cuối cùng, nhìn xem có gì trong kẽ hở phía sau nó không. Mà trong kho ở gác Thê Vân, cũng chỉ riêng chiếc rương này được lót vải bên dưới, ắt hẳn do Thùy Châu sắp đặt từ trước, sợ khi thả cây trâm xuống sẽ phát ra tiếng, nên trải sẵn vải ở đó đề phòng, phải không nào?”
Thùy Châu thẫn thờ lắng nghe, cuối cũng hai đầu gối mềm nhũn ra, cả người sụp xuống.
Quách thục phi chồm lên quát: “Thùy Châu! Hóa ra là ngươi! Hừ… Hằng ngày công chúa đối với ngươi không bạc, vậy mà… ngươi lại dám mưu sát công chúa!”
“Nô tỳ không dám! Nô tỳ chỉ… chỉ giấu trâm Cửu loan đi thôi, nô tỳ… nô tỳ cũng là bị người ta ép buộc…” Thùy Châu khóc nức lên, lắc đầu quầy quậy, “Nô tỳ sao dám ra tay với công chúa chứ? Dù có một vạn lá gan, nô tỳ cũng không dám!”
Phò mã Vi Bảo Hoành vốn đã tiều tụy thất thần, lúc này sắc mặt càng thêm khó coi, gần như xám ngoét. Hắn lảo đảo đứng dậy, mấp máy môi, nhưng chẳng thốt nổi lời nào.
“Ngươi mau khai thật cho trẫm!” Hoàng đế rảo bước đi tới, chỉ mặt Thùy Châu quát, “Ngươi là người hầu bên cạnh Linh Huy, thường ngày công chúa coi trọng nhất là ngươi, tại sao ngươi lại cố ý đánh cắp trâm Cửu loan, để công chúa lo âu thành bệnh hả?”
“Là vì… là vì…” Thùy Châu run rẩy lắp bắp, xong chẳng cất nổi lên lời, chỉ biết nức nở quỳ sụp dưới đất, gần như ngất lịm đi.
Hoàng Tử Hà ngoái lại nhìn Tiền Quan Sách đang quỳ dưới đất run như cầy sấy, chậm rãi nói: “Đương nhiên là vì Tiền Quan Sách, cha của cô.”
Thùy Châu vẫn phủ phục dưới đất khóc lóc, không dám ngẩng lên.
Tiền Quan Sách giật bắn mình, từ từ quay cái cổ béo xệ sang nhìn Thùy Châu đang co rúm người dưới đất khóc lóc thảm thiết, khóe môi run bần bật, nhưng mãi không nặn ra nổi một chữ.
“Rốt cuộc là chuyện gì vậy? Nói rõ ra cho trẫm nghe.” Hoàng đế khoát tay trỏ Hoàng Tử Hà, cao giọng.
“Thưa vâng. Nô tài nghĩ chuyện này phải kể từ mười năm trước.” Thấy Tiền Quan Sách ngỡ ngàng, Thùy Châu khóc đến lịm người đi còn hoàng đế đang đứng sừng sững trước mặt chờ đáp án, Hoàng Tử Hà đành thuật lại: “Bấy giờ ông chủ Tiền túng quẫn quá, đành đem bán con gái Hạnh nhi cho một hoạn quan. Sau khi vào cung, Hạnh nhi được đổi tên thành Thùy Châu, phái đến hầu hạ công chúa. Vì thông minh lại cần mẫn, sau mười năm rèn giũa, Thùy Châu trở thành người quan trọng nhất bên cạnh công chúa. Khi cô ấy, dưới sự nâng đỡ của công chúa, sắp được gả cho một quan viên quan trẻ tuổi tiền đồ xán lạn thì người cha đã vứt bỏ cô ấy lại xuất hiện. Mà triều ta xưa nay, tuy cũng có rất nhiều quan viên thông gia với thương nhân, nhưng trong con mắt nhà chồng cô ấy, một cô gái con nhà buôn bán và một thị nữ được công chúa xé giấy bán thân cho, lại đích thân ban hôn, ai danh giá hơn?”
Tất cả mọi người nín lặng, chăm chú nhìn Thùy Châu run rẩy phủ phục dưới đất.
Cuối cùng Thùy Châu cũng ngẩng lên, nước mắt ròng ròng. Ả gắng mở to mắt nhìn kỹ cha mình, tiếc rằng nước mắt cứ tuôn ra, không sao nhìn rõ được, đành thổn thức lẩm bẩm: “Đúng thế… Tôi chịu đựng suốt mười năm qua, cuối cùng cũng đến ngày mở mày mở mặt, nhưng ông… sao ông lại đột nhiên xuất hiện, sao lại muốn cắt đứt tiền đồ gấm vóc mà công chúa trải sẵn cho tôi? Ông có biết nếu tôi nhận ông thì mối duyên lành kia cũng đi tong không! Dù người ta không từ hôn, thì một đứa con gái nhà buôn ngày sau ở nhà chồng làm sao ngẩng đầu lên được?”
Hoàng Tử Hà lặng lẽ nhìn ả, nói khẽ: “Nhưng mà, ông ấy luôn mong một ngày gặp lại được cô.”
“Đúng thế, đứa con gái bị mình bán đi, chẳng những chưa chết mà còn sống vẻ vang trong phủ công chúa, lúc ông ta hí hửng ôm con cóc vàng về khoe khoang với mọi người, có biết đâu tôi lo lắng đến mất ngủ cả đêm. Tôi rất sợ… rất sợ người ta phát hiện ra mình chỉ là con gái một nhà buôn.” Thùy Châu rũ rượi ngã ngồi xuống đất, trong mắt người ngoài, vẻ mặt và tư thế tuyệt vọng này của ả giống hệt họ Tiền không sai một mảy.
Bấy giờ Tiền Quan Sách mới ấp úng nỏi khẽ: “Nhưng… nhưng lúc gặp nhau, con vẫn vui vẻ cho ta xem cái bớt, ta còn nghe thấy tiếng con cười… còn nữa, cả con cóc vàng kia cũng là con tự biếu, ta đâu có đòi…”
Thùy Châu sững sờ ngồi ngây ra không đáp.
Hoàng Tử Hà liền hỏi: “Ông chủ Tiền không cảm thấy giọng cô ‘con gái’ trước đây và Thùy Châu hiện giờ khác nhau ư?”
Tiền Quan Sách rầu rĩ gật đầu: “Đúng thế… đúng là không giống lắm.”
“Người trò chuyện với cha, cho cha xem vết bớt, lại đem con cóc tặng cho cha, không phải con.” Thùy Châu vừa run rẩy nói, vừa lấm lét liếc hoàng đế và Quách thục phi: “Mà là… là…”
“Là Đồng Xương công chúa, phải không nào?” Thấy ả lắp bắp mãi không dám nói ra, Hoàng Tử Hà bèn tranh nói giúp, “Tuy ta không hiểu vì sao công chúa phải mạo xưng là con gái Tiền Quan Sách, nhưng ta từng trông thấy bên cạnh công chúa có một con chó sứ. Đó là thứ đồ chơi phổ biến ngoài phố, nhưng đặt trong phủ công chúa lại hết sức lạc lõng. Bấy giờ ta đã thấy lạ, thuở nhỏ công chúa từng bị mảnh sứ vỡ cứa đứt cổ tay, nên thánh thượng hạ lệnh không được để bất cứ đồ gốm sứ nào quanh công chúa, vậy thì con chó sứ kia từ đâu mà ra? Sau khi công chúa qua đời, kẻ nào lại ném vỡ nó hòng phi tang vật chứng?”
Thùy Châu thở gấp, nước mắt lã chã, xong cương quyết làm thinh không đáp.
“Giờ nghĩ lại hẳn là do ông chủ Tiền tặng, coi như trao đổi với con cóc vàng. Sau khi công chúa qua đời, người bên cạnh, ắt là Thùy Châu, bèn hủy nó đi để giấu giếm. Cách đơn giản nhất là ném từ cửa sổ xuống, sau đó vờ vô ý đi đến dưới gốc hợp hoan, đá mấy mảnh sứ vỡ vào đống lá hoa, thế là thần không hay quỷ không biết.” Hoàng Tử Hà lắc đầu, “Hơn nữa, ta nghĩ chỉ công chúa mới có thể khiến cả cô lẫn Xương Bồ dù phải nói dối, thậm chí dẫn lửa đốt mình cũng nhất quyết che dấu, cũng chỉ công chúa mới dám tùy ý lấy đồ vật được hoàng thượng ban thưởng đem cho người khác mà thôi.”
“Phải…” Thùy Châu cuối cùng cũng lên tiếng. Ả cúi gằm mặt cực thấp, không dám nhìn bất cứ ai, thấp đến nỗi gần như không nghe thấy ả nói gì. “Nô tỳ nghe Xương Bồ nói ông… ông chủ Tiền muốn tìm một đứa con gái có vết bớt trên tay, vì tay tôi sau khi bị bỏng đã không còn vết bớt nữa, bèn vờ như không biết. Nào ngờ lúc ấy công chúa tình cờ tỉnh giấc, nghe được chuyện này, bèn nói hằng ngày mình nhàn rỗi mãi cũng chán, sai nô tỳ dùng chỉ kẻ mày vẽ một cái bớt trên cổ tay, rồi bàn với nô tỳ làm thế nào để gạt ông ấy. Thấy công chúa hào hứng như thế, nô tỳ đành thuận theo, vẽ cho công chúa một cái bớt theo tri nhớ, rồi bày ra cách để công chúa đứng sau bình phong nói chuyện, chỉ nghĩ công chúa đùa giỡn ít lâu rồi thôi, nào ngờ trong lúc chuyện trò, họ ngẫu nhiên nhắc tới con chó sứ, ông… ông chủ Tiền lập tức đi tìm mua về, đôi bên thường xuyên qua lại, công chúa cũng đóng kịch mãi không biết chán…”
Một vị công chúa được sủng ái nhất trong triều lại mạo xưng một cô gái mồ côi bị bán đi từ nhỏ, mà cô gái này, thực trùng hợp, lại là thị nữ hầu hạ bên nàng. Nghe câu chuyện hoang đường này, cả công đường đều im phăng phắc.
Tiền Quan Sách sững sờ quỳ bên dưới, lúc này thân thể hắn không còn run lên nữa, tựa hồ đã trơ lì trước những vết thương chi chít khắp người. Hắn cứ đờ đẫn quỳ ở đó, nghĩ mãi mà không hiểu, vừa hoang mang, lại vừa bi ai.

Q.2 – Chương 24: Hồi 22: Lòng Này Ai Tỏ

“Nô tỳ biết chuyện này không thể tiếp diễn mãi được. Công chúa và Tiền Quan Sách rất hợp chuyện, tuy chưa kêu một tiếng cha, nhưng thoạt đầu công chúa lén gọi ông ấy là gã Béo Lùn, về sau biến thành lão Béo, rồi dần dần chuyển sang ông Béo… Nghe nói Tiền Quan Sách cũng nhiều lần khoe khoang về đứa con gái ở phủ công chúa và con cóc vàng. Ông ấy càng vui thì nô tỳ càng lo sợ… Sợ thân thế bại lộ, cuộc hôn nhân trong tầm tay sẽ bị ông ấy phá hỏng…” Thùy Châu cúi nhìn từng viên gạch xanh san sát nối nhau, không một khe hở, lẩm bẩm kể, “Cùng thời gian này, công chúa lại mơ thấy Phan Ngọc Nhi báo mộng đòi trâm. Sau đó thì Ngụy Hỷ Mẫn chết, phò mã xảy ra chuyện, công chúa lo nghĩ thành bệnh, nô tỳ cũng thức trắng đêm trong nom công chúa, chỉ sợ có điều gì sơ suất. Một hôm, nô tỳ tới Thái Y Viện lấy thuốc cho công chúa như thường lề rồi quay về, lúc xuống xe, chợt có người nhìn chằm chằm vào cổ tay nô tỳ hỏi: “Cô là Thùy Châu ư?”
Mọi người đều đổ dồn mắt vào cổ tay ả.
Thùy Châu khoác áo xô gai trắng, vết sẹo thấp thoáng trong tay áo. Ả vén tay áo lên, để lộ cánh tay chằng chịt sẹo bỏng, cúi đầu kể: “Nô tỳ nghĩ chắc hắn trông thấy cổ tay, nên mới khẳng định được thân phận của nô tỳ, bèn ngoái lại nhìn, thì… Nô tỳ không biết kẻ đó là ai, chỉ thấy hắn đội một chiếc mũ lá rách, che khuất nửa gương mặt, nửa còn lại bịt khăn đen kín mít, dù trời nóng hầm hập. Nô tỳ định lờ hắn đi, nào ngờ hắn thình lình gọi giật giọng: ‘Hạnh nhi, cha cô sắp chết rồi.’”
Ánh mắt ả lướt qua Lữ Chí Nguyên rồi dừng ở Tiền Quan Sách, giọng hoảng hốt: “Nô tỳ… Nô tỳ nghe vậy thì sợ đến giật bắn mình, chỉ e người khác phát hiện ra thân phận. Nhưng hắn bảo chỉ nói với nô tỳ mấy câu sẽ đi ngay, nên nô tỳ đành rời xe ngựa, theo hắn đến một góc vắng trong ngõ. Hắn nói: ‘Ta biết cô là Hạnh nhi con gái Tiền Quan Sách. Cha cô giết Ngụy Hỷ Mẫn vì Ngụy Hỷ Mẫn đến tìm ông ấy đòi linh lăng hương, đôi bên cãi vã, cha cô bèn dẫn lửa thiêu chết họ Ngụy tại chùa Tiến Phúc; ngay cả con ngựa của phò mã cũng là do cha cô trong lúc tới kiểm tra mấy con ngựa mình bán cho Tả Kim Ngô Vệ, sơ ý làm gãy móng ngựa, vô tình liên lụy đến phò mã; Tôn ghẻ cũng là do cha cô nhân lúc phá cửa xông vào ra tay hạ sát… Còn nữa, ta hỏi cô, cô có biết một khi quan phủ bắt giữ ông chủ Tiền thì thân phận cô cũng bại lộ hay không? Cuội đời cô sau này phải làm sao đây?’”
Tiền Quan Sách nhành miệng ra, lớp mỡ trên mặt rung rung, hắn run rẩy giơ tay lên như muốn vuốt ve cổ tay chằng chịt sẹo của con gái, xong Thùy Châu đã rụt phắt tay lại giấu sau lưng, như chạm phải lửa.
Bàn tay Tiền Quan Sách khựng lại trước ngực, thật lâu không buông xuống. Nhìn vẻ đau đớn trên gương mặt phì nộn của họ Tiền, mọi người thực không biết nên cảm thông hay ghê tởm nữa.
Giọng Thùy Châu lại nghẹn ngào cất lên, gần như khóc không ra tiếng: “Hắn… Hắn bảo nô tỳ rằng, cô tưởng cô giấu được chuyện ấy hay sao? Cha cô là bạn ta, ta phải giúp ông ấy, và cũng sẽ giúp cô. Nô tỳ, nô tỳ kinh hoàng tột độ, đành hỏi hắn, tôi phải làm sao đây?”
“Hắn bèn sai cô đánh cắp trâm Cửu loan, đúng không?”
“Phải… Hắn nói trong hai vụ án trước, và cả vụ việc của phò mã, ông chủ Tiền đều có thời gian gây án và chứng cứ có mặt tại hiện trường, nên hắn sai nô tỳ… giúp ông ấy tạo ra một chứng cứ không thể phản bác được.”
Phò mã Vi Bảo Hoành nhìn Thùy Châu trừng trừng, nghi hoặc hỏi: “Thế nên… ngươi bèn giết công chúa?”
“Không! Nô tỳ không hề!” Thùy Châu cắn nôi, giọng run lên, “Nô tỳ sao, sao có thể hại công chúa được… Kẻ kia nói rằng, việc này rất đơn giản, chẳng phải công chúa mơ thấy cây trâm biến mất ư, chuyện này có thể liên quan tới vụ án, mà.. ai cũng biết, ông chủ Tiền không có cơ hội đánh cắp trâm Cửu loan… Nô tỳ vẫn chần chừ không chịu, nói rằng trâm Cửu loan đã được chính tay công chúa cất vào rương khóa lại, nô tỳ không lấy được. Nhưng hắn… hắn bèn dạy cho nô tỳ cách làm vừa rồi, khi đi lấy trâm thì khéo léo giấu đi. Nô tỳ… thực sự chẳng còn đường nào nữa…”
Quách thục phi rít lên cắt lời ả: “Nói gì thì nói, trâm Cửu loan vẫn nằm trong tay ngươi đúng không? Ngươi lòng vòng phân bua nãy giờ, còn không mau khai ra rốt cuộc đã dùng nó sát hại công chúa thế nào?”
“Thục phi nương nương, nô tài hiểu nỗi lòng nương nương, nhưng sự việc phải nói từ đầu mới được, bằng không làm sao vạch rõ chân tướng?” Hoàng Tử Hà xen vào rồi thở dài: “Công chúa bị đâm trúng tim chết ngay, rất ít có khả năng giãy giụa. Vậy mà một cây trâm ngọc như trâm Cửu loan, vừa đâm vào ngực đã gãy đôi, thực khiến người ta kinh ngạc. Bởi vậy nô tài đoán rằng nó đã gãy lìa ngay khi bị thả từ nắp rương xuống, dù Thùy Châu cẩn thận trải vải lót bên dưới, có phải không?”
Thùy Châu khóc không ra tiếng, chỉ gật đầu, hồi lâu mới kể tiếp: “Nô tỳ thực không ngờ công chúa lại canh cánh bên lòng việc cây trâm biến mất, đến nỗi bệnh cũ tái phát, trị mãi không khỏi như vậy. Nhân lúc việc canh phòng và lục soát lơi lỏng đôi chút, nô tỳ lập tức chạy tới kho lấy trâm, định lén lút trả về cho công chúa. Nào ngờ… khi rút cây trâm từ sau cái rương ra, nó đã gãy đôi từ lúc nào!”
Nói đoạn, ả đưa mắt nhìn lướt qua mọi người trên công đường, rồi dừng ở Tiền Quan Sách, vẻ hoang mang: “Nô tỳ… nô tỳ bấy giờ sợ đến đứng tim, nắm chặt lấy cây trâm gãy đôi chẳng khác gì nắm lấy sợi dây thừng tròng vào cổ mình… Theo lời hẹn, tối hôm đó nô tỳ đem cây trâm đến cửa ngách giao cho người nọ, nhưng khi đưa cây trâm vào tay hắn, nô tỳ chợt thấy kinh hoàng tột độ, cảm giác như sắp bị người ta kéo xuống vực sâu vậy. Chẳng hiểu vì sao… no tỳ thình lình nắm chặt lấy đầu trâm hỏi, ông rốt cuộc là ai?”
Kẻ bịt mắt kia không đáp mà giật phắt lấy cây trâm, nào ngờ trâm đã gãy đôi nên hắn chỉ giật được phần đuôi, còn đầu trâm vẫn nằm trong tay Thùy Châu. Ả nắm chặt đầu trâm, quay ngoắt người chạy vào trong, kẻ kia không dám đuổi theo, bèn vội vã lẩn vào một con ngõ nhỏ cạnh đó chuồn thẳng.
Lạc Bội thất thanh chen vào: “Nhưng… nếu kẻ đó chỉ lấy được đuôi trâm thì vì sao giữa đám đông chen lấn, công chúa lại có thể nhận ra cây trâm Cửu loan từ khoảng cách xa như thế? Công chúa đâu thể nhân ra nửa cây trâm gãy từ xa thế được?”
Thùy Châu lắc đầu quầy quậy, khóc òa lên: “Không biết… Không biết nữa! Lúc công chúa bảo vừa thấy trâm Cửu loan, nô tỳ sợ đến nỗi tim suýt vọt ra ngoài, cứ ngỡ… cứ ngỡ công chúa đã phát hiện ra việc mình làm. Nào ngờ công chúa lại chỉ vào đám đông mà nói. Bấy giờ nô tỳ thầm nhủ, không thể nào, phần đầu trâm vẫn đang giấu trong ngực áo nô tỳ mà… Bởi vậy nô tỳ ra sức ngăn cản công chúa đừng đuổi theo, nào ngờ, lúc ấy tình hình hỗn loạn, cuối cùng công chúa vẫn… vẫn…”
Thùy Châu một lần nữa nghẹn lời, phủ phục dưới đất khóc rống lên.
Mọi người đợi được nhưng hoàng đế đã hết kiên nhẫn, phải nghiến răng nén giận, quát lớn: “Ngẩng lên! Nói rõ đầu đuôi cho trẫm nghe!”
Thùy Châu vừa đau đớn vừa sợ hãi, giơ tay ôm lấy ngực gắng nặn ra tiếng, giọng khản đặc, gần như không thể nói thành lời: “Thưa vâng, nô tỳ… nô tỳ và mọi người bổ đi tìm công chúa, chợt thoáng thấy bóng kẻ đó! Tuy không biết mặt hắn, nhưng nô tỳ vẫn nhớ rõ chiếc mũ lá… hơn nữa, còn thấy hắn kéo công chúa chạy đến bờ tường vắng vẻ… Nô tỳ liều mạng chen qua đám đông chạy đến, nhưng… nhưng đã muộn, lúc nô tỳ tới nơi, chỉ kịp trông thấy công chúa gục xuống…”
Nhắc đến cảnh tượng hôm ấy, sắc mặt Thùy Châu tái xanh, như thể lúc đó cây trâm đã đâm vào chính ngực ả, lấy đi mạng sống của ả vậy: “Nô tỳ… bang hoàng chạy đến thì thấy… thấy phần đuôi trâm găm trên ngực công chúa! Nô tỳ… kinh hãi tột độ, thầm nghĩ nếu mình bị tình nghi, ắt sẽ bị khám người, tới lúc đó đầu trâm sẽ là tội chứng nô tỳ mưu hại công chúa! Bởi thế nô tỳ liều mạng chạy tới, nhân lúc quỳ xuống ôm chầm lấy công chúa thì lén lút ném luôn phần đầu trâm giấu trong ngực áo vào bụi cỏ, hòng khiến người khác tưởng rằng… có kẻ cầm trâm Cửu loan đâm công chúa, trong lúc công chúa giãy giụa, cây trâm mới gãy đôi… Nô tỳ thực sự không giết công chúa mà! Chỉ là nô tỳ làm sai một chuyện, rồi sai càng thêm sai, cuối cùng dẫn đến kết cục thế này…”
Mọi người trên công đường lặng thinh, chẳng biết nên kinh ngạc hay nên than tiếc.
Hoàng đế cũng thở hắt ra, cả người bải hoải như bị rút cạn sức lực. Ngài ngự hướng mắt sang Hoàng Tử Hà: “Ả nói thật không?”
Hoàng Tử Hà đáp khẽ: “Muôn tâu, Thùy Châu nói thật. Lúc công chúa gục xuống, Thùy Châu cũng vừa mới chạy tới, bấy giờ Thùy Châu vừa bò vừa lết đến bên cạnh công chúa, đúng là không có cơ hội ra tay giết hại.”
Hoàng đế ngửa đầu ra sau, chẳng buồn nhìn Thùy Châu, chỉ xua tay ý bảo lôi ả xuống.
Đám nha dịch Đại Lý Tự lập tức trói gô hai tay Thùy Châu lại kéo ra ngoài. Thùy Châu bị lôi xềnh xệch ra ngoài, nhưng mắt vẫn trừng trừng nhìn Tiền Quan Sách, gào lên bằng giọng khan khan khản đặc vì khóc quá nhiều: “Tiền Quan Sách, cả cuộc đời tôi… từ đầu đến cuối, đều bị ông hủy hoại! Tôi có chết… cũng không tha thứ cho ông đâu!”
Nghe vậy, hoàng đế bỗng giơ tay ngăn đám nha dịch lại.
Thùy Châu rũ rượi gục xuống đất, giơ hai tay gào lên: “Ông xem, vết bớt trên tay tôi mất rồi, vì sao hả? Vì bảo vệ công chúa, tôi đã bị bỏng từ cổ đến tận khuỷu tay, vết bỏng lở loét ra, sốt cao mấy ngày không hạ, suýt thì mất mạng, mới được công chúa rủ lòng thương, điều đến làm thị nữ hầu hạ bên cạnh! Thuở nhỏ công chúa có một con chó sứ từ ngoài cung đưa vào, không cẩn thận đánh vỡ, bị mảnh vỡ cứa đứt tay, hoàng thượng và thục phi nương nương cho là tôi hầu hạ không chu đáo, phạt tôi quỳ trên mảnh sứ vỡ suốt đêm, đến lúc hôn mê ngã lăn ra mới được tha … Lúc đầu gối tôi tơ tướp máu, ông ở đâu hả? Lúc tôi bị bỏng, ông ở đâu hả? Lúc tôi sốt cao suýt chết, ông ở đâu hả? Ông bán tôi đi, lấy tiền khởi nghiệp, về sau cắn rứt lương tâm nên mới vờ vịt đi tìm, lại hủy hoại nốt chút hạnh phúc cuối cùng của tôi!!!!”
Lồng ngực ả phập phồng dữ dội, nước mắt lăn dài, nghẹn ngào thở gấp, không nói tiếp được nữa.
“Là cha…” Tiền Quan Sách nhìn con gái, ngập ngừng hồi lâu mới lên tiếng, giọng khản đặc. Vừa buột ra hai tiếng, hắn bỗng ngưng lại nghĩ ngợi rồi khó nhọc đổi giọng: “Là ta… không phải với con, Hạnh nhi… là ta có lỗi với con…”
Đến đây, Tiền Quan Sách cũng nghẹn lời, rồi bật khóc rống lên. Hắn vốn xấu xí, vừa béo vừa lùn, giờ lại khóc lóc thảm thiết khiến gương mặt nhăn nhúm lại, trông càng xấu xí tợn. Nhưng chẳng ai còn tâm tư mà chế nhạo, tất cả đều lặng thinh nhìn hai cha con họ.
Cuối cùng hoàng đế lên tiếng, phá tan bầu không khí im lặng: “Linh Huy sinh thời, ngươi một lòng hầu hạ. Giờ tuy phạm phải lỗi lớn, xong trẫm vẫn niệm tình khai ân, cho ngươi xuống dưới đó tiếp tục hầu hạ công chúa.”
Thùy Châu nghiên răng nhắm nghiền mắt lại, không nói gì thêm, cũng chẳng buồn nhìn mọi người trên công đường, mặc cho đám sai dịch lôi đi.
Thấy ả như vậy, Quách thục phi căm uất phản bác: “Thùy Châu là một trong những kẻ đầu sỏ gây ra cái chết của Linh Huy, giờ sau khi chết còn có thể theo hầu công chúa, sao bệ hạ lại rộng lượng với nó thế!”
Chẳng ai phụ họa, cũng chẳng ai đáp lời phi.
Ngay cả Tiền Quan Sách cũng chỉ đờ đẫn quỳ ở đó, trên gương mặt tái ngắt là hai hàng nước mắt ròng ròng, cơ hồ không bao giờ dứt.
Hoàng đế ra hiệu cho đám sai dịch đưa cả họ Tiền ra, rồi ngoái lại nhìn Hoàng Tử Hà, tay phải siết chặt thành nắm đấm, gân xanh nổi gồ lên, trông rất đáng sợ, hệt như những thớ thịt giần giật trên mặt ngài ngự hiện giờ: “Vậy, kẻ xui khiến Thùy Châu đánh cắp trâm Cửu loan rồi dùng nó sát hại công chúa, rốt cuộc là ai?
Hoàng Tử Hà lặng lẽ khom người hành lễ với hoàng đế, nghiêm trang nói: “Chỉ dựa vào nửa đoạn trâm gãy, đương nhiên công chúa không thể nhận ra trâm Cửu loan. Nhưng có một kẻ rất giỏi làm những rồng phượng hoa lá sống động như thật, trong một đêm, thừa sức tạo ra phần đầu trâm giả để gắn vào.”
Chu Tử Tần lắc đầu: “Sùng Cổ, không được đâu. Dù là thợ ngọc lành nghề nhất, làm quấy quá thật nhanh cũng phải mất mấy ngày mới xong một cây trâm, huống hồ lại là loại trâm cỡ lớn, nhiều chi tiết rườm rà như trâm Cửu loan. Hơn nữa, hắn tìm đâu ra khối ngọc chín màu như thế?”
Hoàng Tử Hà phản bác: “Cứ gì phải dùng ngọc? Dù sao công chúa cũng chỉ nhìn thoáng qua, lại giữa đám đông chen lấn, dùng một khối sáp phối màu thật khéo là đủ, trong chốc lát công chúa đâu thể nhận ra? Nếu dùng sáp nến làm một cây trâm ngọc, thì một đêm là thừa đủ.”
Cả công đường lặng ngắt như tờ, mọi ánh mắt đều dồn vào Lữ Chí Nguyên.
Quách thục phi vừa chậm rãi lắc đầu vừa cụp mắt xuống, nước mắt đau đớn và bất lực lăn dài.
Hoàng đế trừng trừng nhìn Lữ Chí Nguyên hồi lâu rồi loạng choạng lùi lại hai bước, ngồi phệt xuống ghê, không thốt lên lời, chỉ biết dùng ánh mắt căm hận găm vào người họ Lữ.
Còn Lữ Chí Nguyên chỉ thẫn thờ nhìn ra bầu không bên ngoài, lặng im không nói.
Từng nếp nhăn trên mặt lão chẳng khác những rãnh nứt chằng chịt vì xói mòn trên phiến đá. Lão dõi mắt nhìn ra ngoài, như đang nhìn theo đứa con gái càng chạy càng xa, xa khỏi lão, xa khỏi thành Trường An đáng sợ này mà không hề biết mọi chuyện lão đã làm cho nó.
Có lẽ, Tích Thúy sẽ vĩnh viễn không biết được người cha mà nàng từng oán từng hận đã làm những gì cho nàng.
Hoàng Tử Hà nhìn Lữ Chí Nguyên, lòng ngổn ngang trăm mối, xong cuối cùng vẫn lên tiếng: “Ta hiểu lão muốn báo thù cho con gái. Nhưng lão không nên kéo cả người vô tội vào, chỉ để che giấu cho mình.”
Thôi Thuần Trạm nhân đó dè dặt hỏi ý hoàng đế: “Tâu thánh thượng, có cần dùng hình để Lữ Chí Nguyên mau khai ra không?”
“Khỏi cần, thảo dân nhận tội… Chính thảo dân đã giết Ngụy Hỷ Mẫn, Tôn ghẻ và Đồng Xương công chúa.” Lữ Chí Nguyên cắt lời Thôi thiếu khanh.
Không khí trên công đường vốn đã ngột ngạt, nay cũng chẳng hề nhẹ nhõm đi nhờ hành động này của lão, trái lại càng bức bối hơn.
Hoàng Tử Hà thở dài: “Trong vụ này, tuy Đồng Xương công chúa cũng gián tiếp tạo nên bi kịch của con gái lão, nhưng công chúa chỉ vô ý, hơn nữa lại là người hiển quý, sao lão vẫn quyết ra tay?”
“Thực ra… thảo dân không định giết Đồng Xương công chúa. Đúng như công công nói, công chúa không cố ý hại con bé. Nhưng chẳng hiểu sao, chẳng hiểu sao Tích Thúy lại đến Đại Lý Tự đầu thú, nhận mình giết người. Thảo dân không thể trơ mắt nhìn tính mạng con gái nguy ngập trong sớm tối, càng không thể đi đầu thú để liên lụy tới nó!” Lữ Chí Nguyên ngẩng đầu hít một hơi thật sâu, rồi gắng gượng nói tiếp, “Bấy giờ thảo dân mới nghĩ đến Đồng Xương công chúa, cho rằng mọi chuyện đều từ công chúa mà ra, có lẽ cũng chỉ công chúa mới cứu được Tích Thúy. Thảo dân bèn xui khiến Thùy Châu trộm lấy trâm Cửu loan, nào ngờ ả chỉ đưa cho thảo dân nửa đoạn trâm gãy. Nhưng thảo dân từng trông thấy trâm Cửu loan, lại đoán chắc Thùy Châu không dám đem nửa cây trâm gãy trả cho công chúa, liền dùng sáp nến làm thành nửa đoạn trâm giả gắn vào, nhìn từ xa cũng khó mà phân biệt.”
Hoàng Tử Hà lại hỏi: “Dường như lão khá thông thuộc mọi chuyện trong phủ công chúa, là Đậu Khấu kể với lão phải không?”
“Đúng vậy, Đậu Khấu rất ít qua lại với nhà thảo dân, nhưng mẹ Tích Thúy dẫu sao cũng là chị ruột dì ấy. Đầu năm nay, lúc thảo dân đến viếng mộ Xuân Nương thì gặp dì ấy. Thảo dân biếu Đậu Khấu ít hương liệu, nhưng dì ấy nói theo lệ trong phủ công chúa, hễ được người ngoài tặng cho thứ gì quý hiếm, đều phải trình lên công chúa, bên cạnh công chúa còn có tên Ngụy Hỷ Mẫn rất tham lam, lại mắc chứng đau đầu, thấy hương liệu ắt sẽ chiếm làm của riêng, nhất là loại có tác dụng an thần.”
“Nhưng lão làm sao biết được chuyện công chúa nằm mơ đánh mất trâm Cửu loan?”
“Hôm ấy Ngụy Hỷ Mẫn đến tiệm, bị thảo dân dùng mê hương làm ngất đi rồi trói gô lại. Trong lúc mơ màng, y tưởng mình đã rơi xuống âm tào địa phủ, sợ đến nỗi hỏi gì cũng cung cúc khai nhận. Thảo dân mới hỏi vài câu, y đã kể ra giấc mơ của công chúa, còn nói mình từng bắt gặp công chúa lén hẹn Tiền Quan Sách, khiến thảo dân liên tưởng tới việc gần đây Tiền Quan Sách đắc ý khoe khoang con cóc vàng ở khắp nơi, lại nghe nói thị nữ Thùy Châu trong phủ công chúa có vết sẹo trên tay, chính ả cũng dốc sức giúp công chúa giả trang đóng kịch cho thật đạt, bèn đoán rằng có lẽ Thùy Châu chính là con gái ruột Tiền Quan Sách.”
Hoàng Tử Hà lặng lẽ gật đầu, nhưng hoàng đế đã giận giữ ngắt lời: “Đừng hỏi mấy chuyện vớ vẩn đó nữa! Trước hết mau khai ra ngươi giết hại công chúa thế nào!”
Lữ Chí Nguyên cúi đầu đáp: “Thảo dân đem theo cây trâm giả, nấp bên ngoai phủ công chúa rồi bám theo xe ngựa đến tận phường Bình Khang. Sau đó đường tắc, công chúa phải xuống xe, rồi bị thảo dân dẫn dụ tới chỗ vắng. Thảo dân nhận rằng mình đã giết Ngụy Hỷ Mẫn và Tôn ghẻ, đồng thời kêu oan cho Tích Thúy, van nài công chúa rón tay cứu nó. Xong công chúa chẳng buồn để mắt đến thảo dân, chỉ nhìn bụi cỏ cười nhạt. Thảo dân bèn quỳ sụp xuống đất nài xin công chúa lệnh cho Đại Lý Tự thả Tích Thúy ra. Tiếc rằng công chúa đang bực bội, vừa mở miệng đã bảo cha con thảo dân liều liệu cọ cổ cho sạch mà đợi, còn nói… còn nói chẳng những ngươi phải chết, mà con gái ngươi cũng đừng hòng sống sót!”
Nghe lão thuật lại phút cuối đời của Đồng Xương công chúa. Hoàng đế như thấy dáng vẻ kiêu ngạo ngang ngược của nàng hiển hiện ngay trước mắt. Đường nét sắc sảo mà mong manh, hệt như một tảng băng bất cứ lúc nào cũng có thể vỡ tan, xong vẫn hết sức cố chấp quật cường.
Lồng ngực bỗng đâu thắt lại, cơ hồ ngạt thở, ngài ngự siết chặt lấy tay ghế, trừng trừng nhìn Lữ Chí Nguyên, xong không rặn ra nổi một chữ.
“Bấy giờ thảo dân vô cũng hoảng hốt, nếu để công chúa đi thì cả thảo dân và Tích Thúy đều phải chết… Thảo dân đã giết hai kẻ thù, tuổi cũng cao, chẳng coi cái chết vào đâu nữa. Nhưng Tích Thúy… nó còn trẻ quá, như một nụ hoa mới nhú, sao có thể để nó chết chung với thảo dân?” Kể đến đây, Lữ Chí Nguyên kích động vung tay đấm ngực bồm bộp, như muốn nôn hết máu ứ bên trong ra, “Vào lúc ấy, vào lúc ấy, thảo dân chợt nghĩ… Những kẻ liên quan đến vụ này, đã chết mất hai… nếu công chúa cũng chết, trong khi Tích Thúy đang ở Đại Lý Tự, thì chẳng phải là bằng chứng chứng minh nó… vô tội sao?”
Cả công đường im phắc, chỉ có giọng khan đặc của Lữ Chí Nguyên, nhưng lại khiến mọi người chẳng biết trả lời thế nào.
“Nghĩ vậy, thảo dân bèn… đuổi theo, đâm nửa cây trâm vào ngực công chúa…”
Quách thục phi gào lên điên dại, như muốn lao xuống vồ lấy Lữ Chí Nguyên. Đám hoạn quan và thị nữ đứng cạnh vội kéo phi lại, nhưng không ngăn được phi òa lên thất thanh: “Bệ hạ, Linh Huy… Linh Huy lại bỏ mình dưới tay hạng ti tiện này! Bệ hạ…”
Hoàng đế dường như vẫn không nghe không thấy, chỉ ngây dại ngồi đó, mặc cho nỗi đau quá lớn nhấn chìm mình, đến mức không sao cử động được.
Hoàng Tử Hà nói khẽ: “Lão Lữ, cả thành Trường An đều cho rằng lão khinh bỉ con gái, đuổi con ra khỏi nhà, lại còn tham tiền vô sỉ… Nhưng ta biết, lão làm tất cả những việc đó để bảo vệ Tích Thúy. Thực ra, ngay từ khi cô ấy bị Tôn ghẻ làm nhục, lão đã quyết tâm báo thù. Lão biết Ngụy Hỷ Mẫn là hoạn quan phủ công chúa, phủ công chúa nhất định sẽ che chở cho y, có báo quan cũng vô ích, chỉ còn một cách duy nhất là tự mình ra tay giết chết bọn chúng!”
Cô dừng ánh mắt ở Trương Hàng Anh đang trợ trừng mắt ngạc nhiên, vẻ mặt bàng hoàng mà thê lương, thật lâu sau mới nói tiếp: “Nhưng lão hiểu, một khi chuyện này bại lộ, chẳng những lão phải chết mà con gái lão cũng bị liên lụy, không mất mạng thì lưu đày. Thế là từ ấy, lão bèn đuổi Tích Thúy đi. Lão ném cho cô ấy một sợi dây thừng, ép cô ấy đi tìm chết, thực ra là muốn mọi người thấy mình đã cắt đứt quan hệ với con gái, để cô ấy đi thật xa, khỏi dính dáng đến lão. Xong ta nghĩ nhất định lão đã lén bám theo cô ấy, bằng không sao có thể tìm đến đúng nhà họ Trương, để rồi bị Tích Thúy bắt gặp?”
Lữ Chí Nguyên nghiến răng, ấp úng: “Thảo dân… từng lén lút đến nhà họ Trương nhìn nó mấy lần, tuy đã hết sức cẩn thận, nhưng vẫn bị Tích Thúy phát hiện… Thảo dân đành lấy cớ đến đòi tiền sính lễ, nghĩ bụng nhà họ Trương chắc không lấy đâu ra từng ấy tiền, mong rằng Tích Thúy có thể rời khỏi kinh thành, cao chạy xa bay là tốt nhất. Nào ngờ nó ngốc nghếch đến thế, một mực cho rằng thảo dân là hạng sài lang, còn trộm bức tranh gia bảo nhà họ Trương đưa cho thảo dân, thay mười quan sính lễ. Thảo dân bảo không đáng, nó mới giảng giải, bức tranh đó mô tả ba cái chết. Thấy hình vẽ đầu tiên là một người bị trời giáng sấm sét trừng phạt, thảo dân nhớ ngay đến Ngụy Hỷ Mẫn vừa bị sát hại. Thế nên vụ đến Tôn ghẻ, nghe nói hắn cả ngày đóng cửa ru rú trong nhà không ra ngoài, lại được hình vẽ thứ hai gợi ý, thảo dân trộm nghĩ, tường đồng vách sắt kiên cố đến đâu cũng phải có sơ hở, huống hồ năm xưa thảo dân ở trong đội cung nỏ, học được chút tài vặt, vừa hay có thể áp dụng. Còn hình vẽ thứ ba…”
Nói tới đây, giọng lão đã khản đặc, không tiếp tục nổi nữa.
“Tích Thúy gặp phải chuyện đó… chúng ta đều xót xa. Có điều công chúa chỉ vô ý phạm sai lầm, cả nhà họ Tiền cũng là người vô tội, lão thực không nên kéo họ vào.” Hoàng Tử Hà thở dài, “Lão che giấu khéo quá, không chỉ lừa chúng ta, mà còn gạt được cả con gái ruột, ta rất khâm phục.”
“Có lẽ… vì thảo dân thường ngày cũng xử tệ với Tích Thúy.” Giọng Lữ Chí Nguyên khản đặc. Lão thẫn thờ nhìn dán vào một điểm hư không, như thấy con gái đứng ngay trước mặt, như những kẻ sắp lìa trần lưu luyến thứ duy nhất còn sót lại bên mình, dùng ánh mắt nâng niu ước lượng từng tấc trên gương mặt hư ảo của con gái. Hoàng Tử Hà nghe thấy lão lẩm bẩm như nói mớ: “Lúc nó chào đời đã chẳng được lão yêu thương… Tích Thúy sinh non, Xuân Nương sinh nó ra thì băng huyết qua đời, lão cứ ôm đứa con đỏ hỏn, ngồi bên giường đờ đẫn nhìn gương mặt Xuân Nương từ từ trắng bệch ra, rồi từ từ tím ngắt lại…”
Bấy giờ, lão cúi đầu nhìn đứa bé khóc oe oe trong lòng, thầm nghĩ, chính vì con nhãi nhăn nheo này mà vợ lão phải chết. Lão chỉ muốn ném ngay nó xuống đất, đổi lấy mạng sống cho Xuân Nương.
Nhưng đứa nhỏ sinh non nhỏ xíu, èo uột nằm trên cánh tay lão như một con mèo con lại không ngừng khóc oa oa, gương mặt bé tẹo hồng hồng nhăn nheo như con ếch, xấu xí vô cùng, cũng bấy bớt vô cùng, khiến lão đành ôm chặt lấy nó, vùi mặt vào bọc tã của nó mà khóc nức lên.
Lão nghèo khổ từ bé, lớn lên lại tòng quân suốt mười năm, hơn ba mươi tuổi mới gặp được một người bằng lòng gả cho mình. Sau khi kết hôn, đôi bên rất thắm thiết nồng nàn, nhưng Xuân Nương mãi chẳng hoài thai. Họ lễ bái cần khấn khắp nơi, cuối cùng cũng có một đứa con, nào ngờ đứa trẻ vừa ra đời đã cướp đi mạng sống của người mà lão ngỡ sẽ bầu bạn đến già.
Đáng ghét nhất, nó lại là con gái.
Con trai vứt vào bụi cỏ cũng lớn được, nhinh nhỉnh một chút là có thể dắt theo xuống suối bắt cá, lên núi bắn chim. Còn có thể uống rượu cùng lão, làm việc cùng lão, bừng bừng nhiệt huyết như lão, thế mới là đàn ông con trai. Rồi đến một ngày, nó sẽ cường tráng hơn, khỏe mạnh rắn rỏi hơn cả lão.
Nhưng lão chỉ có đứa con gái mong manh như một nụ tường vi, sểnh ra là bị gió xuân vùi dập. Lão đành nhờ thím Ngô hàng xóm tắm rửa cho nó, hậm hực đi giặt cái quần nó đái dầm, vụng về tết cho nó một bím tóc xấu xí… Tích Thúy lớn lên từng ngày, từ đứa trẻ sinh non nhăn nheo xấu xí như con ếch bị lột ra, dần dần trở thành thiếu nữ thanh tú xinh đẹp. Điều này càng khiến lão lo lắng, chẳng rõ cuối cùng kẻ nào sẽ bẻ mất nụ tường vi của lão, trồng vào chậu nhà người, rồi từ đó về sau, dẫu nó nở rộ hay héo tàn, lão cũng chẳng thể che chở nữa.
Ai bảo Xuân Nương chỉ sinh được một đứa con gái? Xem ra số mệnh đã định, chờ đợi lão là tuổi già cô quạnh đìu hiu. Tính tình lão càng lúc càng khó chịu, càng ngày càng hay quát mắng con bé, càng ngày càng ngưỡng mộ những nhà sinh được con trai.
Suốt mười bảy năm lão gà trống nuôi con, từ một hòn máu đỏ hỏn chưa đầy hai cân, nuôi đến thành một cô gái xinh đẹp ngoan ngoãn, vừa chăm chỉ lại biết quan tâm, nhọc nhằn vất vả biết là bao, người ngoài đâu thể tưởng tượng được. Lúc Tích Thúy sốt cao, lão từng trông nom nó suốt đêm này qua đêm khác chẳng hề chợp mắt, lúc Tích Thúy theo chúng bạn ra ngoài chơi, lão cũng từng đứng đầu đường đợi con bé về là lao vào mắng mỏ; khi đến viếng mộ Xuân Nương, thơ thẩn nhổ cỏ dại quanh một, lão thường rầm rì kể: con bé lớn lên giống bà như đúc…
Lão cũng từng tìm vợ, hòng sinh một đứa con trai, nào ngờ bà ta lại ngược đãi Tích Thúy sau lưng lão, cuối cùng lão đành mượn rượu giả điên đuổi đi. Bấy giờ lão ngoài năm mươi, cũng đã nguội lòng. Lão thầm nghĩ, có lẽ sẽ ở vậy tới già, một mình một bóng, đến khi chết thì dặn Tích Thúy chôn cất mình bên cạnh Xuân Nương, thế là cũng qua một đời uất ức và khiếp nhược.
Thời gian thấm thoắt, chỉ chớp mắt mà đứa bé gái nõn nà như cục bột, mới ngày nào ê a học nói, ngọng nghịu gọi cha, đã trở thành thiếu nữ biết cài lan trắng vào búi tóc, tha thướt yêu kiều, không ít gã trai trẻ phải mượn cớ mua nhang đèn lân la tới tiệm của lão để ngắm nó.
Lão vừa lo lắng, vừa mừng rỡ, kiếm cớ soi mói bắt bẻ đuổi hết bà mai này đến bà mai khác đi, vì cảm thấy chẳng ai xứng được với con gái lão.
Nào ngờ đứa con gái cả ngày ríu rít nói cười, chỉ tới phủ công chúa giao hương đèn một chuyến mà tan nát một đời.
Tôn ghẻ đi khắp nơi rêu rao chuyện đó, cả thành Trường An cũng rôm rả thảo luận về nỗi bất hạnh của con gái lão. Lão phải để mắt đến Tích Thúy từng giờ từng khắc, phát hiện được nó lén giấu một cái giá nến, định đi tìm Tôn ghẻ liều mạng, bèn giật lấy giá nến, cho nó một bạt tai chảy máu.
Đó là lần duy nhất lão đánh Tích Thúy, từ sau khi nó trưởng thành.
Chẳng ai biết, lúc ấy lòng lão đã quyết.
Lão phải bảo vệ con gái, phải lấy máu đền nợ máu, rửa sạch mối nhục cho Tích Thúy; lão phải xua tan cơn ác mộng của con bé, để nó được tái sinh.
“Con gái của hoàng đế chỉ cần bực bội là có thể tùy ý an bài số mệnh của con gái lão, đẩy con bé vào địa ngục, dựa vào cái gì chứ?” Đôi dòng nước mắt đục ngầu lăn dài trên gò má nhăn nheo của Lữ Chí Nguyên, nhỏ xuống nền gạch xanh. Lão nói rất khẽ, gần như lẩm bẩm một mình, “Lão nuôi nó mười bảy năm, mười bảy năm, từ một đứa bé đỏ hỏn thành đứa con gái chăm chỉ ngoan ngoãn… Cả đời này lão chỉ có một mình nó, lão là một thợ thủ công hèn mọn, không thể cho nó nhà cao cửa rộng, quyền thế nghiêng trời, vinh hoa phú quý… Nhưng dù liều cái mạng già này, lão cũng phải bảo vệ con bé sống một đời yên ổn!”
Hoàng Tử Hà chợt thấy máu nóng cuộn lên trong ngực, khóe mắt cay sè. Cô gắng kìm nước mắt, nhưng không ngăn được hình bóng cha mình hiện lên.
Thuở còn ở Thành Đô, có lần cô bị cha mắng mỏ, bèn giận dỗi bỏ cơm. Mẹ bưng canh đến dỗ cô ăn, xong cô cư nguây nguẩy ngoảnh mặt đi, nào ngờ lại bắt gặp cha đang đứng sau gốc cây ngoài sân, âm thầm quan sát mình.
Bị cô trông thấy, cha tức thì quay đi, vờ như chỉ tình cờ ngang qua, rồi thong thả đi tiếp.
Đến tận bây giờ cô vẫn nhớ hình ảnh cành cây đổ bóng xuống mình cha, tuy lúc ấy chẳng thèm để tâm, xong hồi tưởng lại thấy rành rành trước mắt, như thể cái bóng ấy không đổ xuống người cha, mà đã được vẽ vào tâm khảm cô bằng máu tươi.
Chẳng biết cô đã thẫn thờ bao lâu, đến khi Lý Thư Bạch chạm nhẹ vào người, mới định thần lại được.
Chỉ thấy Lữ Chí Nguyên quỳ dưới công đường, đã bị gông lại.
Thôi Thuần Trạm đập bàn, ngừng lại một lát mới hỏi: “Kẻ quỳ dưới kia, ngươi giết hại Đồng Xương công chúa, hoạn quan Ngụy Hỷ Mẫn ở phủ công chúa cùng Tôn ghẻ, người ở phường Đại Ninh trong kinh, nhân chứng vật chứng đầy đủ, có chịu nhận tội hay không?”
“Thảo dân nhận tội.” Giọng lão rành rõ, quả quyết.
Thôi Thuần Trạm nhìn ra phía sau, thấy hoàng đế vẫn ngồi bất động trên ghế, lồng ngực phập phồng dữ dội, bèn quay lại hỏi Lữ Chí Nguyên: “Ngươi còn gì để nói nữa không?”
Lữ Chí Nguyên lặng thinh.
Trương Hàng Anh đứng chếch phía sau lão mở to mắt, đợi lão ngoái lại nói với mình vài lời gửi gắm con gái.
Nhưng không hề, cuối cùng Lữ Chí Nguyên chỉ lặng lẽ lắc đầu.
Thôi Thuần Trạm lại nhìn hoàng đế, ngài ngự sắc mặt tái nhợt, nhưng hơi thở đã bình ổn hơn, mấp máy môi buống ra ba chữ: “Xử lăng trì.”
Thôi Thuần Trạm ngẩn người, còn chưa kịp cất giọng thì nghe “bịch” một tiếng, Lữ Chí Nguyên đã ngã lăn ra, mặt mày tím tái.
Trong tiếng xôn xao nhốn nháo, Chu Tử Tần chạy đến trước tiên, nhanh nhảu đặt tay lên mũi họ Lữ thăm hơi thở rồi vạch miệng lão ra, sững sờ.
Hoàng Tử Hà vội hỏi: “Sao thế?”
“Có lẽ lão đã giấu sẵn viên sáp độc trong miệng, chẳng biết cắn vỡ nó từ lúc nào, giờ thì… không cứu được nữa rồi.”
Hoàng Tử Hà thẫn thờ ngồi xuống, nhìn gương mặt tím ngắt của lão, nín lặng.
Chu Tử Tần liếc cô nói khẽ: “Thế này cũng tốt.”
Hoàng Tử Hà thở dài, đứng dậy hồi bẩm hoàng đế. Hoàng đế vừa nghe nói liền siết chặt tay ghế, gân xanh trên tay gồ lên, quát lớn: “Chết rồi ư? Chết như thế làm sao trẫm hả giận cho được!”
Quách thục phi khóc lóc: “Bệ hạ, chẳng phải hắn còn một đứa con gái đấy sao? Hạng ác độc này… phải khiến hắn chết không nhắm mắt!”
Hoàng đế nghe vậy thét to: “Con gái lão đâu? Lão ta trốn tội thì trẫm bắt con gái lão chịu thay!”
Chu Tử Tần sợ đến giật bắn người, may sao Hoàng Tử Hà phản ứng nhanh đã kéo giật gã lại, ra hiệu bảo gã đừng cử động.
“Bệ hạ…” Thôi Thuần Trạm run rẩy thưa, “Vừa rồi… cô gái ngất xỉu bị bệ hạ sai người đưa ra ngoài, chính là Lữ Tích Thúy con gái phạm nhân.”
Bấy giờ hoàng đế mới sực nhớ ra, đùng đùng nổi trận lôi đình, hiềm nỗi ý chỉ là do chính mình ban, ngài ngự chẳng có chỗ nào trút giận, đành giũ áo thật mạnh, quát lên: “Mau bắt về đây! Dù lật tung cả kinh thành, cũng phải bắt được ả!”

Q.2 – Chương 25: Hồi 23: Hoàng Hôn Đại Đường

Cổng Chu Tước, thành Trường An.
Dòng người nườm nượp nối nhau ra vào cổng thành. Già trẻ trai gái, sĩ nông công thương qua lại như thoi đưa.
Tích Thúy hòa vào dòng người, cúi đầu ủ rũ ra khỏi thành.
Đúng lúc nàng bước qua cổng thành, phía sau chợt có người thúc ngựa chạy đến la lớn: “Vệ binh canh cổng Chu Tước chú ý! Hoàng thượng có chỉ, lập tức truy lùng một cô gái trẻ tên Tích Thúy, cao năm thước hai tấc, mặc váy lụa xanh nhạt, nếu phát hiện đưa ngay về Đại Lý Tự!
Đám vệ binh nhất nhất vâng dạ, có người hỏi lại: “Cô ta phạm tội gì mà phải giao cho Đại Lý Tự vậy?”
Tích Thúy xách gấu váy lên, cắm cúi đi thẳng, những mong mình lẫn vào đám đông, không bị phát hiện ra.
Viên quan thông báo liền đáp: “Đại Lý Tự cái gì? Là khẩu dụ của thánh thượng đấy! Nghe nói cha ả liên quan tới cái chết của Đồng Xương công chúa nên thánh thượng muốn xử trảm cả nhà!”
Có kẻ ngông nghênh hỏi vặn: “Thánh thượng mất con gái nên không cho con gái hung thủ sống chứ gì?”
“Lời này mà cũng dám nói ra? Ngươi không cần mạng nữa à?” Bên cạnh có người quát khẽ.
Kẻ kia tức thì rụt cổ lại, không dám nói nữa.
Tích Thúy đứng giữa đám đông, nghe những lời xì xào bình luận xung quanh, lại ngỡ ngàng nhớ đến cha mình.
Người cha luôn hắt hủi vì nàng là phận gái, từng nói lúc nàng còn nhỏ xíu, con bé này thì được tích sự gì, lớn lên lại cuốn gói theo trai, để cha mày lủi thủi một mình thôi.
Khi nàng bị bọn trẻ khác bắt nạt, khóc lóc chạy về, cha lúc nào cũng hậm hực mắng: “Con gái con đứa chẳng được tích sự gì, chúng đánh cho cũng không dám đánh trả.” Nhưng mấy hôm sau gặp lại, đám trẻ đó không dám bắt nạt nàng nữa, đến tận bây giờ nàng vẫn không hiểu vì sao.
Nàng mồ côi mẹ, từ nhỏ đã bắc ghế đứng lên nấu cơm cho cha. Cha ăn nhưng chẳng bao giờ khen nửa câu. Một hôm nàng theo mấy cô bạn gái đi dâng hương, lúc về phát hiện mấy chiếc bánh thím Ngô hàng xóm đưa sang cha chẳng buồn động đến. Cha bảo nuốt không trôi.
Cha luôn muốn có con trai, coi nàng như tội nợ. Nhưng bấy nhiêu năm nay, đồ ăn thức mặc của nàng chẳng thua bè bạn nửa phân. Cha luôn nói con gái phải ăn mặc cho tươm tất, lúc gả đi mới đòi được thêm ít tiền sính lễ, xong có lúc nàng nghĩ, những đắng cay cơ cực cha chịu đựng mười mấy năm nay, có bao nhiêu sính lễ cũng chẳng bù lại được.
Cha nàng tính tình cộc cằn cố chấp, cả đời không nói được câu nào mềm mỏng, làm được việc gì nhẹ nhàng, càng không biết phải xây đắp một gia đình đầm ấm thế nào.
Nàng cứ thế lớn lên, có lúc cũng tủi thân vì mồ côi mẹ, có lúc cũng ao ước được như con nhà khác có cha chiều chuộng nâng niu, còn nàng, trừ cá tính quật cường cố chấp di truyền nguyên vẹn từ cha thì chẳng có gì.
Sau khi gặp chuyện, cha lúc nào cũng nghĩ cách đuổi nàng đi, bất kể nàng vật nài năn nỉ ra sao. Cuối cùng nàng bị cha tống ra cửa.
Nhưng khi Dương Sùng Cổ ghé tai nàng thốt ra chữ “đi” ấy, tựa như ảo giác, nàng chợt nghe thấy tiếng “cút” của cha khi ném cho nàng sợi dây thừng.
Lúc ấy nàng đau đớn đến không thiết sống, chỉ hận không thể chết ngay trước mặt cha, vậy mà giờ nhớ lại, nước mắt lại cứ thế trào ra, không thể ghìm giữ.
Tích Thúy chợt nghĩ, có lẽ từ lúc ấy, cha đã quyết thả nàng cao chạy xa bay, còn cha phải thay nàng rửa sạch tất cả thù hận, chính tay giết chết những kẻ làm hại nàng.
Dưới ánh nắng gắt, Tích Thúy vừa khóc vừa ngơ ngác bước đi.
Chẳng biết tương lai sẽ về đâu, cũng không rõ có thể đoàn tụ cùng người trong mộng nữa hay không, càng không biết cha mình rồi sẽ ra sao.
Phía sau chợt nhốn nháo, rồi một toán lính thủ thành chạy về phía nàng. Kẻ cầm đầu gọi to: “Này cô kia, cô mặc váy xanh đó, đứng lại!”
Tích Thúy biết mình đã bị phát hiện, trước mặt là đồng không mông quạnh, sau lưng là binh lính đuổi theo. Nàng có một thân một mình, còn có thể đi được đến đâu chứ?
Trời đất mênh mông, lòng đà nguội ngắt.
Tích Thúy dừng bước, chậm rãi quay đầu.
“Tên gì?” Toán lính quát hỏi.
Tích Thúy nhạt nhòa nước mắt, kinh hoàng nhìn họ, không dám lên tiếng.
“Mặc kệ tên với họ, cô ta mặc váy xanh, tuổi chừng mười bảy mười tám, lại đi một mình, cứ bắt về rồi tính!”
Toán lính xông đến toan bắt lấy nàng.
Tích Thúy nhắm nghiền mắt, chỉ thấy nỗi thê lương và bi ai vô hạn trào dâng, trước mặt tối sầm lại.
Đúng lúc toán lính tóm được cánh tay nàng thì một giọng nói ôn hòa mà trong trẻo vang lên: “Các vị bắt lầm người rồi.”
Mọi người đổ dồn mắt về phía tiếng nói kia, chỉ thấy một thiếu niên thanh cao tuấn tú như trúc như lan, cưỡi trên con ngựa nâu vàng. Hắn vận áo tay hẹp màu thiên thanh, y phục rất đỗi bình thường, thớt ngựa cũng rất đỗi bình thường, nhưng vừa trông thấy gã, ai nấy đều thấy cả thế gian sáng bừng lên, như vầng dương ló rạng.
Tích Thúy bất giác giật mình.
Là hắn…
Tuy mới gặp mặt một lần, nhưng ai mà quên được một kẻ xuất chúng nhường ấy? Huống hồ, hắn còn là ân nhân của nhà họ Trương. Chính là người tốt bụng đã ẵm A Bảo đi khắp các phường trong kinh tìm suốt hai ngày, cuối cùng mới đưa được nó về nhà.
Người lính dẫn đầu cũng nhận ra hắn, vội chắp tay chào hỏi: “Chẳng phải Vũ học chính đấy ư? Học chính biết cô ta à?”
Một tên lính bên cạnh hỏi nhỏ: “Vũ học chính này là ai thế?”
“Lần trước ngươi không ở đó à? Chính là Vũ Tuyên Vũ học chính ở Quốc Tử Giám từng theo Quách thục phi và Đồng Xương công chúa ra ngoài đạp thanh(*) ấy! Lúc chúng ta ngăn xa giá lại kiểm tra, nếu không nhờ Vũ học chính nói đỡ thì thục phi nương nương và công chúa điện hạ đã nổi trận lôi đình, trừng trị cả đội lính canh rồi!”
(*) Vào ngày tết Thanh minh tháng Ba, mọi người thường kéo nhau ra ngoài vừa là tảo mộ vừa là du xuân, gọi là hội Đạp thanh. Đạp thanh nghĩa là giẫm lên cỏ xanh.
“À à! Vũ Tuyên thì ta từng nghe nói…”
Chỉ huy lườm y, chặn đứng nửa câu sau rồi thản nhiên chắp tay hành lễ với Vũ Tuyên.
Vũ Tuyên cũng xuống ngựa đáp lễ, đoạn giải thích: “Cô gái này tôi biết, là thị nữ trong phủ công chúa. Giờ công chúa đã qua đời, cô ta bị đưa ra ngoài.”
Nói rồi hắn quay sang hỏi Tích Thúy: “Tuy nhà cô ở ngay ngoại ô, nhưng vẫn phải đi một quãng, sao chẳng thấy ai đưa?”
Nhìn vào đôi mắt trong trẻo của hắn, Tích Thúy sực hiểu ra, hắn đang cứu mình.
Chẳng biết nàng lấy đâu ra can đảm, ấp úng đáp: “Thì… thì đúng thế, hiện giờ công chúa… đã qua đời, trong phủ loạn cả lên, lấy đâu người đi đưa tôi nữa?”
“Tôi cũng tiện đường, để tôi đưa cô một đoạn.” Hắn chắp tay từ biệt toán lính rồi ra hiệu cho cô lên ngựa.
Viên thủ lĩnh vẫn ngập ngừng: “Vũ học chính, chuyện này…”
“Sao vậy, đội trưởng Tra lo ngựa không chở nổi hai người, định cho tôi mượn ngựa hay sao?” Vũ Tuyên cười nói, “Có điều lần này tôi về Thành Đô, mượn ngựa thì không trả lại được đâu.”
Nụ cười của y rạng rỡ như vầng dương, thanh khiết đến nỗi khiến người ta tự thẹn mình dơ bẩn. Viên chỉ huy bất giác nghi ngờ bản thân, vội cười khà đáp: “Vũ học chính qua lại… ừm… thân thiết với phủ công chúa, học chính đã nói đương nhiên là không sao rồi. Có điều mượn ngựa thì không được, ngựa của chúng tôi đều có dấu sắt nung của ty Quân mã, dù tôi dám cho mượn, Vũ học chính cũng chẳng dám cưỡi đâu, ha ha!”
Vũ Tuyên mỉm cười vỗ nhẹ lên cổ ngựa: “Đã vậy thì tôi xin cáo từ.”
Tích Thúy ngẩn ngơ lên ngựa, đi được chừng một dặm, không thấy bóng toán lính kia nữa, nàng mới phát hiện khắp người mình đầm đìa mồ hôi lạnh, lưng áo ướt sũng tự khi nào.
Đi đến một bến sông, thấy mấy người đang vác hàng hóa lên thuyền, Vũ Tuyên ghìm cương ngựa hỏi: “Sau này cô định thế nào?”
Tích Thúy sững sờ, rồi lặng lẽ lắc đầu.
Hắn liền ra hiệu cho nàng xuống ngựa, rồi lấy trong tay nải hai quan tiền và một bộ quần áo, dặn dò: “Cô khoác lên đi đã, dù sao cũng đừng mặc bộ váy xanh này nữa. Tôi không đem theo nhiều tiền, chia đôi cho cô một nửa đấy. Nếu đi cùng tôi, cô rất dễ bị quan phủ lần ra, chi bằng lên thuyền này, đi được đến đâu thì đi đi.”
Tích Thúy do dự, xong thấy hắn cứ chìa bộ đồ cùng xâu tiền trước mặt, nàng đành ngại ngùng nhận lấy, khẽ nói: “Đa tạ… ân nhân.”
Vũ Tuyên chẳng nói thêm mà quay sang sắp lại tay nải rồi tung mình nhảy lên ngựa, “Đi đường cẩn thận, tôi xin từ biệt.”
Tích Thúy ôm bọc áo đứng trước bến sông, nhìn theo bóng hắn đi xa dần, không nhịn được hỏi với theo: “n nhân, xin hỏi… vì sao lại cứu tôi?”
Vũ Tuyên ghìm ngựa, ngoái lại nhìn nàng. Đôi mắt sáng trong thoáng vẻ ưu tư và thẫn thờ.
Cuối cùng, hắn nén tất cả tâm tư lại, mỉm cười đáp: “Ở Đại Lý Tự, tôi từng thấy cô ẵm A Bảo, rất dịu dàng, cũng rất cẩn thận. Tôi nghĩ người thế này nhất định không phải kẻ xấu. Hy vọng về sau cô cũng có thể ẵm con mình như thế, sống một cuộc đời hạnh phúc.”
Tích Thúy ngẩn ngơ ngẩng đầu nhìn hắn, nghẹn ngào lắp bắp: “Tôi, tôi chẳng biết liệu mình có ngày ấy hay không…”
“Có chứ, trời cao không phụ người tốt đâu.”
Nói đoạn hắn gật đầu với nàng rồi quay đầu ngựa đi thẳng.
Tích Thúy nhìn theo bóng hắn, gắng kìm nước mắt. Nàng lẻn vào rừng trúc thay đồ rồi lên thuyền.
Ông lái đang giục khách. Khách thương ai ôm hàng người nấy, ngồi ngổn ngang trên sàn, một bà lão vẻ mặt hiền từ vồn vã gọi nàng lại ngồi cạnh.
Con thuyền đầy ắp rẽ sóng đi vào vùng nước sâu, lắc lư theo những nhành lau phơ phất mà tiến lên.
Bộ đồ của Vũ Tuyên rất rộng, Tích Thúy phải xắn hết tay và vạt áo lên. Nàng ngồi trong khoang thuyền, tựa đầu vào khung cửa nan.
Con thuyền lướt trên mặt nước lấp lánh như tơ lụa. Tích Thúy thẫn thờ nhìn ra mặt sông, từ từ hồi tưởng lại những người những việc quan trọng trong đời.
Bất luận ra sao, những kẻ làm hại nàng đều đã bị trừng phạt, bóng tối bao phủ quanh nàng cũng dần dần tan đi. Nàng thầm nghĩ, nhất định phải sống, phải sống cho thật tốt.
Vì Trương nhị ca, vì cả cha nàng.
Giống như bao cô gái bình thường khác, rồi sẽ có một ngày nàng gặp lại người thương, bế đứa con của mình và người ấy, sống bình thản ung dung dưới ánh mặt trời, lãng quên hết thảy đớn đau.
Phủ Quỳ vương, đài Chẩm Lưu.
Cảnh Dục trở về bẩm báo: “Thưa gia, Lữ Tích Thúy kia… chẳng biết đi đâu mất rồi.”
Lý Thư Bạch nhíu mày, đặt bút xuống hỏi: “Chẳng phải các người đã đi theo cô ta từ Đại Lý Tự hay sao?”
“Vâng, nhưng ra đến ngoài thành, cô ấy lại bị chú ý. Nô tài đang nghĩ cách bảo vệ thì một người qua đường đã cứu cô ấy đi rồi.” Cảnh Dục phân trần, “Nô tài nhớ lời gia dặn phải hộ tống cô ấy rời khỏi kinh thành, nên khi thấy cô ấy lên thuyền, nô tài không đi theo nữa.”
“Ừm, phủ Quỳ giúp được một lần nhưng chẳng thể lo cho suốt đời, để cô ta đi đi.” Nghe kể Tích Thúy đã thoát hiểm, Lý Thư Bạch liền nói.
Cảnh Dục vâng dạ, nhưng vẫn chần chừ chưa lui ra. Lý Thư Bạch biết y vẫn còn lời muốn thưa, bèn lặng yên để y nói nốt.
“Kẻ cứu Lữ Tích Thúy chính là Vũ Tuyên, học chính Quốc Tử Giám vừa từ chức.”
Lý Thư Bạch trầm ngâm ừm một tiếng, chẳng phản ứng gì thêm.
Cảnh Dục thông minh, lập tức hành lễ: “Nô tài cáo lui.”
Lý Thư Bạch phẩy tay, cho Cảnh Dục lui ra, một mình ngồi ở đó. Dù bốn bề gió lộng, y vẫn thấy nóng hầm hập.
Bất giác y đứng dậy, men theo chiếc cầu quanh co băng qua mặt hồ đầy sen nở, đi đến đại sảnh.
Cảnh Thư trực nhật hôm nay đang ngồi trong sảnh bên, vừa hớn hở nói chuyện với Hoàng Tử Hà, vừa cùng cô bóc gương sen ăn.
“Ái chà, Sùng Cổ này, nghe nói cậu sắp theo gia đến Thục hả? Đất Thục hay lắm, được xưng tụng là xứ sở thiên đàng đấy, nghe nói phong cảnh rất đẹp!”
“Vâng, chắc không bao lâu nữa sẽ lên đường.” Cô chống cằm nhìn ra mặt hồ bên ngoài, đáp khẽ. Ánh mắt cô nhìn dán vào hư không, như đang ngắm kẻ xa tận chân trời mà gần ngay trước mắt kia.
Lý Thư Bạch đứng ngoài cửa nhìn cô, lại nhớ Vũ Tuyên từng nói sẽ đợi cô ở Thành Đô.
Vũ Tuyên.
Người này hết sức phức tạp, chẳng biết phải hình dung thế nào nữa.
Hắn bị tình nghi giết người, có lẽ cũng có liên quan tới cái chết của cha mẹ cô, xong tâm địa lại rất thiện lương, thường vô tư giúp đỡ những người hoạn nạn, chẳng cần báo đáp; hắn là trẻ mồ côi, luôn cố gắng vươn lên, nhưng đồng thời lại tự mình sa đọa, còn dây dưa với hạng người như Quách thục phi. Nếu nói hắn yêu Hoàng Tử Hà thì tại sao lại đem thư tình làm bằng chứng tố cáo cô, còn khăng khăng cho rằng cô là hung thủ; nếu bảo hắn hận cô, thì tại sao lại vứt bỏ tiền đồ bản thân, quay về Thành Đô đợi cô về rửa oan?
Hai người trong phòng trông thấy y, vội đứng dậy bước ra đợi lệnh.
Y bèn ra hiệu cho cô tháp tùng, men theo bóng liễu bên hồ mà đi.
Gió sen lồng lộng thổi tung vạt áo hai người, tình cờ cuốn cả đôi vạt áo vào nhau, rồi lại thình lình tách ra.
Lý Thư Bạch dừng chân dưới bóng liễu, ngắm nhìn một đóa sen nở rộ ngay gần đó, cuối cùng cũng gạt phăng ý nghĩ trong đầu đi, không nhắc tới chuyện Vũ Tuyên nữa.
“Có vật này muốn cho ngươi xem.” Nói rồi, y dẫn cô đi về phía gác Ngữ Băng.
Gác Ngữ Băng là phòng ấm, hiện giờ tiết trời nóng bức nên y không ở đó nữa. Vừa bước vào, không khí nóng bức bên trong đã khiến cho cả hai nhớ ngay đến nhà kho trong phủ công chúa.
Lý Thư Bạch lấy từ ngăn kéo ra chiếc hộp có khóa cửu cung, mở ra rồi lại mở nốt chiếc hộp như đóa sen gỗ bên trong, lấy lá bùa đặt trước mặt cô.
Hoàng Tử Hà chìa cả hai tay cầm lấy, không khỏi tròn mắt ngạc nhiên.
Trên mảnh giấy dày dặn đã ố vàng, giữa những hoa văn quỷ dị làm nền, các chữ “côi góa tàn” vẫn tươi rói như mới. Xong trừ chữ “côi” được khoanh ngay từ đầu, quanh chữ “tàn” cũng đã lờ mờ một vòng đỏ.
Suy yếu lụi tàn, gọi là tàn.
Vòng tròn ấy vẫn nhạt màu, tựa hồ vừa nổi lên không lâu. Nhưng vệt đỏ khoanh lấy số mệnh ấy như hẵng còn ươn ướt, thoang thoảng mùi máu tanh, khiến người nhìn không rét mà run.
Hoàng Tử Hà ngạc nhiên ngước nhìn y, giọng bất giác cũng run lên: “Vương gia… Cái này xuất hiện từ lúc nào?”
“Không biết. Sau chuyện lập phi, khuyên đỏ quanh chữ ‘góa’ cũng mờ đi, ta lại bận bịu, chẳng còn tâm trí nghĩ đến nữa. Mấy hôm trước thấy bồn chồn không yên, sực nhớ tới nó, bèn lôi ra xem.” Y đặt tay lên lá bùa, vẻ kinh ngạc xong không hề sợ hãi, “Xem ra lại sắp có một trận phong ba khó tránh rồi.”
“Gần đây có những ai ra vào gác Ngữ Băng?”
“Nhiều đấy, từ Cảnh Dục, Cảnh Hữu đến đám người làm vườn, chạy vặt, huống hồ những ngày ta không ở đây, nếu có người đợi thị vệ tuần tra đi khỏi rồi lẻn vào, thì càng không kiểm soát nổi.” Lý Thư Bạch nhíu mày, “Phạm vi tình nghi rộng quá, không tra xét từng người được đâu.”
“Thưa vâng, tốt nhất là tìm được một điểm đột phá khác.” Hoàng Tử Hà gật đầu.
“Đợi đi Thành Đô về rồi tính.” Đoạn y đặt lại lá bùa vào hộp. Dù sao cũng chẳng đề phòng nổi, đành gạt sang một bên thôi.
Hoàng Tử Hà nhíu mày nhìn chiếc hộp: “Thực ra ban đầu tôi còn tưởng thủ pháp đánh cắp cây trâm Cửu loan của hung thủ giống cách những khuyên tròn xuất hiện rồi biến mất trên lá bùa này cơ.”
“Xưa nay ta luôn đích thân lấy và cất nó đi, chưa từng giao cho ai cả.”
Hoàng Tử Hà gật đầu: “Vâng, nên đến giờ… tôi vẫn chưa biết là kẻ nào gây ra và hắn làm thế nào.”
“Hắn đã cảnh báo ta, thì ta cũng sẵn sàng đối mặt thôi.” Vẻ mặt Lý Thư Bạch đanh lại lạnh băng, vô cùng bình tĩnh, “Ta cũng muốn xem, rốt cuộc số mệnh là do tờ giấy này viết ra, hay do ta nắm giữ.”
Hoàng Tử Hà nhìn y đầy kính phục. Lý Thư Bạch quay lưng về phía mặt trời, trước mặt là lá bùa khoanh chết số mệnh, xong y vẫn hiên ngang đứng thẳng, như một ngọn núi ngọc sừng sững ngàn năm, lấp lánh hào quang, không thể nhìn gần, cũng không bao giờ chao đảo.
Sau cùng, cô nói khẽ: “Gia vẫn nên cẩn thận là hơn.”
Y gật đầu, cất chiếc hộp vào tủ rồi tiện tay rút bức tranh của nhà họ Trương ra xem: “Còn nữa, ta nghĩ ý nghĩa thực sự của bức họa này không phải là hình vẽ ba cách chết đâu.”
“Đúng thế, chẳng qua là chúng tôi gán ghép vào nói bừa đấy thôi.” Hoàng Tử Hà thở dài, “Nào ngờ lão Lữ lại nảy ra ý tưởng giết người từ đó, chằng vụ án này với bức di bút của tiên hoàng, hòng tung hỏa mù đánh lừa dư luận.”
“Về mặt nào đó, lão ta cũng thực khiến người ta bội phục.” Lý Thư Bạch dẫn cô ra ngoài, rồi sực nhớ ra một chuyện, vội nói ngay: “Còn một kẻ nữa cũng rất đáng phục. Vương hoàng hậu về cung rồi.”
Hoàng Tử Hà kinh ngạc ồ lên: “Hoàng hậu ra tay nhanh quá.”
“Trong triều ngoài nội đều bất mãn với Quách thục phi, huống hồ giờ chỗ dựa duy nhất của thục phi là Đồng Xương công chúa đã mất, lấy gì mà ngăn bước hoàng hậu? Hơn nữa…”
Y ngoái lại nhìn cô đầy ẩn ý: “Lần này là Quách thục phi xin với hoàng thượng, để hoàng hậu về cung.”
Nguyên nhân đương nhiên là hoàng hậu uy hiếp thục phi.
Người bên ngoài đồn rằng, Quách thục phi thường xuyên ra vào phủ công chúa, tư thông với phò mã Vi Bảo Hoành, xong phi chẳng để tâm.
Một người phụ nữ đem lòng yêu một thiếu niên chỉ xấp xỉ tuổi con mình, chẳng khác nào lửa bén đồng hoang, cuồn cuộn rực trời, không gì ngăn nổi. Dù bức thư tình phi mạo hiểm viết ra bị đối phương thản nhiên đốt bỏ, phi vẫn mù quáng si mê.
Xong giờ đây Đồng Xương công chúa vẫn bao che cho phi đã qua đời, cơ hội để gặp mặt Vũ Tuyên cũng trở nên hiếm hoi. Mối tình chưa kịp vỡ lở đã gấp rút hạ màn, từ đây sẽ được chôn sâu trong tâm khảm hai người, chỉ còn một câu thơ cuối cùng, trở thành chiếc thòng lọng tròng vào cổ phi, bất cứ lúc nào cũng có thể kéo phi xuống vực sâu muôn trượng.
Phi vĩnh viễn không phải đối thủ của Vương hoàng hậu, về mọi mặt.
“Hoàng hậu hồi cung cũng hay. Lăng mộ của Đồng Xương vượt quá quy củ khiến trong triều nhốn nháo mấy ngày nay, ta không rảnh mà hỏi đến, nhưng chẳng biết hoàng hậu vừa về cung liệu có át nổi chuyện này đi không?”
Hoàng Tử Hà ngạc nhiên hỏi lại: “Gia không rảnh ư?”
Trong ấn tượng của cô, y vốn có thuật phân thân, sao lại không có thời gian xử lý chuyện này?
Lý Thư Bạch quay lại nhìn cô, ánh mắt sâu thăm thẳm: “Đương nhiên, ta cũng không muốn hỏi. Đôi lúc ta nghĩ, khi người mình trân quý nhất xảy ra chuyện thì bất kể hạng vô danh tiểu tốt hay là bậc khanh tướng đế vương đều không kiềm chế nổi, làm ra những chuyện không thể ngăn cản.”
Thế nên, hoàng đế mới bất chấp lời can gián của triều thần, khăng khăng xây lăng mộ con gái hoành tráng nguy nga, tổ chức đại tang thật to để thể hiện lòng thương tiếc.
Thế nên, kẻ cố chấp như Lữ Chí Nguyên mới vắt kiệt tâm sức nghĩ kế trừng phạt tất cả những người làm hại con gái mình, dẫu phải đối diện với hình phạt lăng trì tùng xẻo, cũng không hề do dự.
Có điều, một nàng công chúa được nâng niu như châu báu, xong không thể có được thứ mình khao khát, và một cô gái thường dân không may gặp nạn, nhưng lại có người sẵn sàng đánh cược tất cả để bảo vệ, rốt cuộc ai hạnh phúc hơn ai?
“Chẳng biết sau này ta có con gái hay không, nếu có thì nó sẽ thế nào.” Lý Thư Bạch nhìn những đóa sen dập dềnh trong gió, chợt nói bâng quơ.
Hoàng Tử Hà đáp khẽ: “Thế gian rất nhiều người yêu thương con gái, nhất định thánh thượng cũng nghĩ, nếu đem tất cả những thứ tốt đẹp nhất bày ra trước mặt con gái, thì Đồng Xương công chúa sẽ có cuộc sống hạnh phúc nhất, đầy đủ nhất trên đời… tiếc rằng thánh thượng sai rồi.”
Lý Thư Bạch gật đầu, vẻ trầm ngâm: “Ai cũng nói hoàng thượng nâng niu Đồng Xương công chúa như châu báu, cuộc đời công chúa chẳng thiếu thốn thứ gì, nhưng có kẻ nào nhìn thấu những khoảng trống hoác trong đời công chúa đâu?”
Cha nàng hết mực cưng chiều, nhưng chẳng hề biết nàng muốn gì. Thuở nhỏ, nàng từng bị mảnh sứ vỡ cứa đứt tay, từ ấy vĩnh viễn không còn đồ chơi nữa. Cha ban cho nàng vô vàn châu báu, xong lại tước đi niềm vui thơ trẻ của nàng.
Mẹ nàng lấy nàng ra làm quân cờ để tiến thân, thậm chí còn gây ra những chuyện hoang đường rồi dùng nàng làm bia đỡ đạn, che giấu bí mật động trời giữa mình và Vũ Tuyên. Nhưng sau khi nàng qua đời, mối quan tâm trước nhất của mẹ nàng lại là giết sạch những kẻ quanh nàng hòng bảo vệ bí mật.
Chỉ vì nụ cười của gã nam tử hăng say trên sân cầu, nàng liền chọn hắn làm chồng, nào ngờ hắn vừa tham quyền vị nàng đem lại, vừa si mê một kẻ kém nàng về mọi mặt.
“Công chúa hẹn gặp Tiền Quan Sách hết lần này qua lần khác là vì chưa bao giờ được nếm trải cuộc sống bình thường. Có lẽ chỉ từ ông ta, công chúa mới tìm thấy hạnh phúc giản đơn mà mình mãi mãi không bao giờ có được.”
Con chó sứ đã bị người khác quên khuất từ lâu, cuộc sống mà nàng chưa từng nếm trải cùng tình cảm cha con bình dị chưa bao giờ được hưởng, khiến công chúa lưu luyến không sao dứt nổi, hết lần này sang lần khác lén hẹn gặp Tiền Quan Sách. Bởi cả cuộc đời, nàng chưa bao giờ có được những thứ đó.
Chẳng ai nhìn thấy cõi lòng hoang vu của một nàng công chúa bị vây hãm giữa cung vàng điện ngọc. Thấy nàng không vui, cha lại ban thêm vô vàn châu báu, mà nào có hay, nàng chỉ khao khát một con chó sứ bán ngoài đường.
Lý Thư Bạch lặng thinh hồi lâu, chợt thở dài lẩm bẩm: “Chẳng biết, về sau ta sẽ là một người cha thế nào.”
“Tốt nhất là… đừng giống như hoàng thượng, yêu thương con gái hết mực, nhưng lại chẳng biết nó thực sự muốn gì.
“Cũng đừng cố chấp như Lữ Chí Nguyên, chẳng biết cách thể hiện tình cảm, cứ nghĩ đàn ông mà dịu dàng thì mất mặt nên lúc nào cũng tỏ ra cộc cằn thô bạo, làm tổn thương con gái.
“Đừng giống như Tiền Quan Sách, lúc khó khăn nhất thì vứt bỏ con gái, đến khi khấm khá lên mới tìm về, ngỡ rằng vẫn còn có thể nối lại tình cảm như xưa, lại chẳng thấy giữa đôi bên đã rạn nứt đến mức khó bề hàn gắn.”
Lý Thư Bạch quay sang hỏi: “Vậy ngươi thấy thế nào mới là một người cha tốt?”
Hoàng Tử Hà im lặng, lại nhớ đến người lẳng lặng đứng dưới gốc cây nhìn mình thuở bé. Trước mặt cô, người ấy rất hay vô tình kể chuyện con gái nhà người ta biết khâu giày cho cha, nhưng sau lưng cô lại hãnh diện khoe, con gái nhà tôi còn hơn mười con trai nhà khác.
Lúc nhỏ, cô từng nghĩ cha mình cũng bình thường thôi, chẳng khác cha nhà người ta.
Vậy mà giờ đây, cô lại thấy khóe mắt ươn ướt: “Người cha tốt nhất trên đời mà tôi biết, chính là cha tôi.”
Lý Thư Bạch cúi đầu nhìn cô, nín lặng.
Trong lòng y cũng đang nhớ đến người đã ra đi mãi mãi năm y mười ba tuổi. Đó từng là ngọn núi sừng sững mà thuở nhỏ y cứ nghĩ có thể nép dưới sải cánh mênh mông, để được chở che mưa gió.
Tiếc rằng giờ đây, cả hai người họ đều thành kẻ mồ côi.
Trên thế giới này, họ chẳng còn ai để nương tựa nữa, bất luận phía trước là gió mưa hay nắng gắt, đều phải tự mình dấn bước mà đi.
Một ngày trước khi họ khởi hành là tiệc đốt đuôi của cha Chu Tử Tần. Tay nghề đầu bếp nhà họ Chu rất khá, khách khứa đều hài lòng.
Ăn uống xong xuôi thì trời đã ngả chiều, lúc tiễn khách ra cửa, Chu Tử Tần vẫn còn tiếc nuối: “Chỉ tiếc còn thiếu món bánh cổ lâu hoàn hảo.”
Chiêu vương cũng gật đầu: “Đúng thế, e rằng về sau khó mà được ăn miếng bánh cổ lâu ngon như thế nữa.”
Ngạc vương Lý Nhuận theo họ xuống thềm, tới trước xe ngựa lại sực nhớ ra chuyện gì đó, vội quay đầu đi đến bên cạnh Lý Thư Bạch: “Tứ ca.”
Lý Thư Bạch ngoái lại.
Y ngập ngừng giây lát, mới nói khẽ: “Bản án tuy đã khép lại, nhưng không biết… Tứ ca và Dương công công có rút ra kết luận gì từ bức hình mẫu phi đệ vẽ không?”
“Bức hình ấy tuy có liên quan tới vụ án, nhưng chẳng qua hung thủ chỉ dùng nó để đánh lạc hướng, khiến mọi người tin vào chuyện trời phạt mà thôi.” Lý Thư Bạch trầm ngâm, “Gần đây ta cũng trăn trở suy tư rất nhiều. Ta nghĩ sau khi tiên hoàng qua đời, thái phi trong một lúc tỉnh táo hiếm hoi mới len lén vẽ ra bức hình ấy, dựa theo những gì nhớ được về bức thủ bút của tiên hoàng.”
Hoàng Tử Hà tiếp lời: “Nhưng hiện giờ chúng tôi vẫn chưa hiểu được năm xưa vì sao tiên hoàng lại vẽ ra bức tranh đó? Bức tranh đó có ý nghĩa gì.”
Lý Nhuận lộ vẻ bi ai. Y theo Phật nhiều năm nay, nét mặt vốn thanh thuần, ánh mắt xa xăm, lúc này, đôi mắt ấy trông càng mơ màng ngơ ngẩn, chẳng biết tâm trí đã trôi đi tận phương nào. Thật lâu, y mới nói khẽ: “Lúc tiên hoàng lâm chung, tuy thỉnh thoảng có tỉnh lại, nhưng không hề dặn dò việc triều chính đại sự, lại đi vẽ bức hình như vậy, chẳng lạ lắm ư? Sau khi tiên hoàng băng hà, mẫu phi vì đau xót quá độ mà thành ra lú lẫn, lần duy nhất tỉnh táo trở lại, bà đã vẽ phỏng theo di bút tiên hoàng giao cho đệ… Đệ nghĩ hẳn bức hình đó rất quan trọng, có lẽ bên trong ẩn chứa… bí mật quyết định tương lai của cả Đại Đường và hoàng tộc họ Lý.”
Bởi khi giao phó bức hình này, mẫu phi từng nói, thiên hạ Đại Đường sắp mất! Giang sơn đổi chủ rồi!
Bấy giờ, mẫu phi còn dặn y, Nhuận nhi phải nhớ kỹ, không được thân thiết với Quỳ vương…
Lý Nhuận lại nhìn Quỳ vương Lý Thư Bạch trước mặt. Giờ đây, Lý Thư Bạch đã thành nhân vật xuất sắc nhất trong hoàng thất Đại Đường, là trụ cột triều đình, là kẻ duy nhất gánh vác cơ nghiệp nhà họ Lý. Tại sao mẹ ruột y lại ngăn y tiếp xúc nhiều với Quỳ vương.
Là mẫu phi lú lẫn lẩn thẩn, hay vì bà biết được sự thật khủng khiếp nào đó, nên mới hé lộ với y?
Ngay sau khi tiên hoàng băng hà, mẫu phi trong đêm đã hóa điên. Là vì bi thương quá độ, hay còn… nội tình kinh khủng nào mà y chưa đoán ra?
Lý Nhuận chẳng dám nghĩ tiếp, thẫn thờ một hồi, đang định từ biệt Lý Thư Bạch thì Chu Tử Tần tiễn xong khách rảo bước đi đến: “Vương gia, Sùng Cổ, vừa rồi nhắc đến bánh cổ lâu, tôi lại nhớ ra một chuyện! Trương nhị ca nghỉ việc ở Tả Kim Ngô Vệ rồi, các vị biết chưa?”
Hoàng Tử Hà ngạc nhiên hỏi: “Tại sao?”
“À, theo tôi đến chợ Tây sẽ rõ.”
Chu Tử Tần kéo họ đến chợ Tây. Tiệm nhang đèn nhà họ Lữ vẫn mở cửa, có điều người ngồi bên trong lại là Trương Hàng Anh và anh trai chị dâu gã.
Thấy bọn họ, Trương Hàng Anh vội đứng dậy hành lễ với Lý Thư Bạch trước tiên.
Lý Thư Bạch gật đầu ý bảo miễn lễ, rồi nhìn quanh hỏi: “Ngươi sắp tiếp quản tiệm này ư?”
Trương Hàng Anh gật đầu, rồi lại lắc đầu: “Hôm qua địa bảo(*) đến nhà, tiểu nhân mới biết. Thì ra… tiệm này vốn là lão Lữ thuê, đầu tháng này mới dốc hết tiền bạc tích cóp mua lại.
(*) Lực lượng làm nhiệm vụ bảo vệ ở địa phương.
Hoàng Tử Hà ngước nhìn đôi nến long phượng trên giá, buột miệng: “Trương nhị ca, đôi nến này trước đây lão Lữ nói là không bán.”
“Ừm, tôi nghĩ, ngày sau tôi và A Địch thành thân… có thể dùng.” Trương Hàng Anh đáp khẽ.
Lý Thư Bạch nhíu mày: “Lữ Chí Nguyên phạm tội phải chém cả nhà, e rằng cửa tiệm này cũng sẽ bị sung công.”
“Không, cửa tiệm này, lão Lữ… sau khi mua lại đã lập tức bán sang tay cho tiểu nhân.” Nói đoạn gã rụt rè rút giấy tờ ra cho họ xem, “Các vị nhìn này, đây là văn tự đất, văn tự nhà… Hôm A Địch được thả từ Đại Lý Tự về, lão Lữ đã đi theo sát gót, đến tận nhà tôi. Tôi cứ ngỡ là mười quan tiền cầm bức tranh làm sính lễ cho Tích Thúy, nên thật thà điểm chỉ vào biên lai ông ấy đưa ra, nào ngờ…”
Thì ra Lữ Chí Nguyên đã sắp xếp tất cả mọi chuyện, đây cũng có thể hiểu là hành vi thừa nhận Trương Hàng Anh.
Hoàng Tử Hà không nén được tiếng thở dài: “Vậy huynh định mở hàng ở đây hả?”
Trương Hàng Anh lắc đầu: “Không, cửa hàng này là cha A Địch để lại cho cô ấy, tôi đã bàn bạc với cả nhà rồi, sẽ giữ nguyên tên hiệu, đặt dưới danh nghĩa của tôi và A Địch, nhờ anh trai chị dâu tôi trông nom hộ; còn tôi sẽ đi tìm A Địch… Như vậy dù tôi không tìm được thì nếu có ngày cô ấy quay về, cũng sẽ tìm đến nhà mình, cùng anh trai chị dâu đợi tôi trở về…”
Hoàng Tử Hà đỏ hoe mắt hỏi: “Cha huynh thì sao? Ông cũng đồng ý ư?”
“Trước đây lúc ông bệnh nặng, tôi phải ra ngoài làm việc, nhờ có A Địch ngày đêm chăm sóc, ông mới dần dần khỏe lại. Lần này ông bảo, nếu tôi không tìm thấy A Địch thì đừng về nữa.”
Chu Tử Tần cũng nghẹn ngào: “Trương nhị ca, ta tin A Địch nhất định sẽ về mà.”
“Tốt nhất là trong vòng mấy năm đừng về, đợi khi nào mọi chuyện im ắng đã.” Lý Thư Bạch nhìn vợ chồng Trương Hàng Vĩ đang lúi húi dọn dẹp cửa tiệm, lại ngắm đôi nến hoa tinh xảo tuyệt luân kia, nói thêm: “Có điều, không phải lo phía quan phủ rầy rà về tiệm này đâu, cứ để ta lo liệu.”
Trương Hàng Anh vội cảm kích vái lạy. Hoàng Tử Hà chẳng ngờ Lý Thư Bạch lại chủ động đề nghị giúp đỡ Trương Hàng Anh, cứ ngẩn ra nhìn y kinh ngạc, không biết nói gì.
Lý Thư Bạch đưa mắt sang cô, gương mặt vốn bình thản như mặt hồ lặng sóng, lúc này khóe môi lại hơi cong lên, để lộ nụ cười.
Như vầng dương ló rạng, dịu dàng mà rạng rỡ, khiến tim cô bất giác đập rộn lên.
Lúc quay về, ngang qua chùa Tiến Phúc, ba người liền rẽ vào thắp hương cầu khấn.
“Lần này con về Thục, xin đức Phật phù hộ để dọc đường bình an, vạn sự như ý. Nguyện cho con sớm bắt được hung thủ, an ủi vong linh người nhà.”
Hoàng Tử Hà chắp hai tay cầu khấn trước bệ Phật.
Khói hương bảng lảng phủ mờ gương mặt cô, như sương mù vấn vít quanh đóa thược dược, mịt mờ hư ảo.
Chu Tử Tần nghiêng đầu nhìn cô đến ngây người rồi lặng lẽ lùi lại mấy bước, đến cạnh Lý Thư Bạch, hỏi khẽ: “Vương gia có thấy…”
Lý Thư Bạch đang nhìn Hoàng Tử Hà từ xa, hờ hững hỏi: “Gì cơ?”
“Dương Sùng Cổ tuy là hoạn quan, nhưng trông còn đẹp hơn con gái nữa… Gia nói xem nếu y không tịnh thân thì hiện giờ sẽ thế nào?”
Lý Thư Bạch thoáng ngẩn người, rồi thản nhiên nhìn đi chỗ khác: “Có lẽ sẽ cao hơn, đen hơn, vai rộng hơn, đường nét cứng cáp thô tháp hơn.”
Chu Tử Tần tức tốc hình dung khung xương và vẻ ngoài của Dương Sùng Cổ theo lời Quỳ vương, rồi tiếc nuối nhận xét: “Thôi thôi, cứ như thế này thì hơn.”
Lúc ra về, họ thấy một đám hòa thượng đang dùng dây thừng kéo hai cây nến lớn dựng trước Đại Hùng bảo điện xuống.
Chu Tử Tần chạy lại hỏi: “Các vị sợ nắng thiêu mưa xối làm biến dạng, nên định hạ nến xuống cất vào kho ư?”
Các hòa thượng ai nấy đầm đìa mồ hôi, vừa lo kéo thả dây vừa gắt gỏng đáp: “Ai rỗi mà cất vào kho? Nghe nói người thợ làm đôi nến này giết người như ngóe, cả Đồng Xương công chúa cũng chết dưới tay y, cửa Phật thanh tịnh sao có thể dùng thứ này được nữa?”
Nói rồi họ hợp sức khiêng đôi nến vừa kéo đổ đến hồ phóng sinh đã rút cạn nước.
Ở đó đã đốt sẵn một đống lửa. Các nhà sư quẳng đôi nến lớn vào, ngọn lửa lớn tức thì bùng lên, làm sáp nến chảy ra, cháy lách tách, lưỡi lửa cũng bốc cao đến cả trượng.
Các nhà sư đứng quanh hồ phóng sinh đều cúi đầu lẩm nhẩm đọc kinh, thanh tẩy tà ma.
Chiều hạ nóng hầm hập, khí nóng từ đống lửa không ngừng táp vào mặt như sóng, cơ hồ muốn nướng chín những người quanh đó.
Chu Tử Tần lùi lại mấy bước, thấy Hoàng Tử Hà vẫn đứng yên thì nhắc nhở: “Sùng Cổ lùi lại đi, cẩn thận bị bỏng bây giờ!”
Nhưng Hoàng Tử Hà gần như không nghe thấy gì cả. Cô đứng thẫn thờ bên đống lửa, nhìn chằm chằm tâm nến vừa lộ ra sau khi lớp sáp tan chảy. Trên lớp vải thô bọc lấy sợi bấc, có một hàng chữ nhỏ.
Nguyện cho Lữ Tích Thúy con gái con được bình an vui vẻ, suôn sẻ suốt đời.
Tín nam Lữ Chí Nguyên cúng dường.
Lữ Chí Nguyên đã âm thầm viết ra hàng chữ này. Đáng lẽ nó sẽ là bí mật được thờ phụng trước Phật điện cho tới khi ngọn nến cháy tàn, không một ai hay biết.
Xong lúc này đây, những con chữ bằng nhũ vàng ấy đang quăn queo rồi tróc ra trong lửa, hết thảy bí mật đều bị ngọn lửa nuốt chửng, nhả ra tro tàn, cuối cùng bị luồng khí nóng cuốn lên, tan tác trên không, chẳng còn dấu tích.
Bốn bề chỉ có tiếng tụng niệm rì rầm.
Hoàng hôn Trường An nhẹ nhàng phủ lên cả trăm ngàn người.
Hoàng hôn của Đại Đường cũng từ từ buông xuống.
Hết tập 2.


Không có nhận xét nào :

Đăng nhận xét